- Phẩm Thứ Nhất: Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi
- Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội
- Phẩm Thứ Ba: Quán Chúng Sanh Nghiệp Duyên
- Phẩm Thứ Tư: Nghiệp Cảm Của Chúng Sanh Ở Cõi Diêm Phù
- Phẩm Thứ Năm: Danh Hiệu Của Ðịa Ngục
- Phẩm Thứ Sáu: Như Lai Tán Thán
- Phẩm Thứ Bảy: Lợi Ích Cho Cả Kẻ Còn Người Mất
- Phẩm Thứ Tám: Các Vua Diêm La và Quyến Thuộc Khen Ngợi
- Phẩm Thứ Chín: Xưng Danh Hiệu Chư Phật
- Phẩm Thứ Mười: So Sánh Nhơn Duyên Công Ðức Của Sự Bố Thí
- Phẩm Thứ Mười Một: Ðịa Thần Hộ Pháp
- Phẩm Thứ Mười Hai: Thấy Nghe Đều Ðược Lợi Ích
- Phẩm Thứ Mười Ba: Dặn Dò Cứu Ðộ Nhơn Thiên
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda)
Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
Nghiệp Cảm Của Chúng Sanh Ở Cõi Diêm Phù
Lúc đó, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Con nhờ nương sức oai thần của Đức Phật Như Lai, nên chia được thân hình này đến khắp trăm ngàn vạn ức thế giới để cứu vớt tất cả chúng sanh bị nghiệp báo.
Nếu không nhờ sức đại từ của Đức Như Lai, thì chẳng thể biến hóa được như thế. Con nay lại được Đức Phật phó chúc: Từ nay cho đến khi Ngài A Dật Đa thành Phật, phải làm cho chúng sanh trong Lục Đạo đều được độ thoát. Con xin vâng! Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài chớ lo âu!"
Bấy giờ Đức Phật bảo Bồ Tát Địa Tạng rằng: "Những chúng sanh chưa được giải thoát thì tánh thức không định, quen làm điều ác thì kết thành nghiệp, quen làm điều thiện thì kết thành quả; làm thiện làm ác đều theo cảnh mà sanh, luân chuyển trong Ngũ Đạo, chẳng tạm ngừng ngớt; trải qua trần kiếp, mê hoặc chướng nạn, như cá bơi trong lưới theo dòng nước chảy, tạm thoát ra được rồi lại mắc vào lưới. Vì những kẻ đó mà Ta phải lo nghĩ.
Đời trước Ông đã phát nguyện, nhiều kiếp lập trọng thệ quảng độ những kẻ có tội, thì Ta còn lo gì nữa!"
Nói đến đây, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát hiệu là Định Tự Tại Vương, bạch cùng Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, Bồ Tát Địa Tạng đã phát thệ nguyện gì mà nay được Đức Thế Tôn ân cần ngợi khen như thế? Cúi mong Đức Thế Tôn lược nói cho."
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Định Tự Tại Vương Bồ Tát: "Lóng nghe! Lóng nghe! Phải khéo suy xét đó, Ta sẽ vì Ông mà giải bày rõ ràng."
Vào thuở quá khứ, vô lượng a-tăng-kỳ na-do-tha không thể nói hết số kiếp về trước, lúc đó có Đức Phật hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật này thọ sáu vạn kiếp.
Khi chưa xuất gia, Ngài là vua một nước nhỏ và kết bạn với vua của một nước lân cận; rồi cùng nhau thực hành Thập Thiện, nhiêu ích chúng sanh. Nhân dân trong nước lân cận đó đa số tạo nhiều việc ác, hai vua bèn bàn tính, quảng thiết phương tiện.
Một vua phát nguyện: "Tôi nguyện sớm thành Phật Đạo để độ hết những kẻ ấy, không sót một ai."
Một vua thì nguyện: "Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ, làm cho họ được an vui, cho đến đắc quả Bồ Đề, thì tôi nguyện chưa thành Phật."
Đức Phật bảo Bồ Tát Định Tự Đại Vương rằng: "Vị vua phát nguyện sớm thành Phật đó chính là Đức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai; còn vị vua phát nguyện vĩnh viễn cứu độ chúng sanh tội khổ, chưa chịu thành Phật đó, chính là Bồ Tát Địa Tạng vậy.
Lại trong đời quá khứ, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai. Đức Phật đó thọ bốn mươi kiếp.
Trong thời Tượng Pháp, có một vị La Hán phước đức cứu độ chúng sanh. Nhân đi tuần tự giáo hóa, vị La Hán gặp một người nữ tên là Quang Mục thiết bày vật thực cúng dường.
Vị La Hán bèn hỏi: "Ngươi muốn cầu điều chi?"
Quang Mục thưa rằng: "Ngày thân mẫu con mất, con có làm việc phước thiện hầu cứu vớt bà; song chưa rõ thân mẫu con thác sanh về đâu!"
Vị La Hán cảm thương, bèn nhập Định quan sát, thì thấy bà mẹ của Quang Mục bị đọa vào đường ác, vô cùng khổ sở. Vị La Hán hỏi Quang Mục rằng: "Thân mẫu ngươi lúc sanh tiền đã làm những hạnh nghiệp gì, mà nay phải ở trong đường ác, chịu cực khổ như thế?"
Quang Mục thưa rằng: "Tánh thân mẫu con chỉ thích ăn cá, ba ba, cùng trứng và con của các loài ấy; hoặc chiên hoặc nấu, tha hồ mà ăn; nếu tính đếm số sanh mạng đó thì đến hơn nghìn muôn. Thưa Tôn Giả từ mẫn, con phải làm thế nào để giải cứu mẫu thân?"
Vị La Hán xót thương bèn lập phương tiện khuyên Quang Mục rằng: "Ngươi phải chí thành niệm Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai và vẽ đắp hình tượng, thì kẻ còn cùng người mất đều được phước báo!"
Quang Mục nghe xong, liền từ bỏ những thứ yêu thích, rồi tô vẽ tượng Phật để thờ cúng, và lại đem lòng cung kính, khóc thương chiêm lễ. Bỗng đến giữa khuya thì mộng thấy thân Phật, sắc vàng sáng chói, như núi Tu Di, phóng ánh sáng lớn mà bảo với Quang Mục rằng: "Chẳng bao lâu nữa thân mẫu ngươi sẽ sanh vào nhà của ngươi, khi vừa biết đói lạnh thì liền biết nói."
Sau đó, người nữ tỳ trong nhà sanh một bé trai, chưa đầy ba ngày đã biết nói. Đứa bé đó buồn khóc mà nói với Quang Mục rằng:
"Nghiệp duyên sanh tử, quả báo tự thọ. Tôi là mẹ của người, lâu nay ở chốn tối tăm. Từ khi vĩnh biệt người, tôi phải đọa vào đại địa ngục. Nhờ phước lực của người nên mới được thọ sanh làm kẻ hạ tiện, lại thêm thọ mạng ngắn ngủi, đến năm mười ba tuổi lại phải đọa vào ác đạo. Người có phương kế gì khiến tôi được thoát miễn chăng?"
Quang Mục nghe nói, biết là mẹ mình chẳng sai, nên nghẹn ngào thương khóc mà nói với con kẻ nữ tỳ rằng: "Đã là mẹ tôi, tất biết bổn tội; do làm hạnh nghiệp gì mà phải đọa vào ác đạo như thế?"
Con kẻ nữ tỳ đáp rằng: "Do hai nghiệp là sát hại và hủy mạ mà phải thọ báo. Nếu không nhờ phước đức của người cứu nạn cho, thời cứ theo những nghiệp đó thì tôi vẫn chưa được giải thoát."
Quang Mục hỏi rằng: "Những việc tội báo trong địa ngục ra sao?"
Con kẻ nữ tỳ đáp rằng: "Những việc tội khổ nói ra càng bất nhẫn, suốt cả trăm ngàn năm cũng khó mà kể cho hết được!"
Quang Mục nghe xong, rơi lệ gào khóc, bạch cùng giữa hư không rằng: "Nguyện cho thân mẫu con được vĩnh viễn thoát khỏi chốn địa ngục, và khi mãn mười ba tuổi thì không còn trọng tội, cũng chẳng phải trải qua các ác đạo nữa.
Cúi xin thập phương chư Phật từ bi thương xót, lắng nghe con nay vì mẹ mà phát lời thệ nguyện rộng lớn rằng:
Như thân mẫu con được vĩnh viễn lìa khỏi chốn Tam Đồ và hàng hạ tiện, cho tới cùng kiếp không phải thọ thân người nữ nữa, con xin đối trước tượng của Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai mà phát lời nguyện rằng: Kể từ nay cho đến trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, hễ nơi nào có thế giới còn có các chúng sanh chịu tội khổ nơi địa ngục cùng Tam Ác Đạo, con nguyện sẽ cứu vớt và làm cho tất cả đều xa lìa các nẻo ác Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh... Những kẻ mắc tội báo như thế thành Phật cả rồi, thì sau đó con mới thành Chánh Giác."
Phát thệ nguyện xong, liền nghe rõ tiếng của Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai dạy rằng: "Này Quang Mục! Ngươi quả có lòng đại từ mẫn, khéo vì mẹ mà phát lời đại nguyện như thế!
Ta quan sát thấy mẹ ngươi lúc mãn mười ba tuổi, khi bỏ báo thân này rồi, sẽ thọ sanh làm người Phạm Chí sống lâu trăm tuổi; sau khi hết báo thân ấy, sẽ được sanh về cõi nước Vô Ưu, thọ mạng lâu dài đến không thể tính kể; và sau rốt sẽ thành tựu Phật Quả, quảng độ nhân thiên số nhiều như cát sông Hằng."
Đức Phật bảo Định Tự Tại Vương Bồ Tát rằng: "Vị La Hán phước lành độ Quang Mục thuở đó, chính là Vô Tận Ý Bồ Tát; thân mẫu của Quang Mục là Giải Thoát Bồ Tát; còn Quang Mục là Địa Tạng Bồ Tát đây vậy!
Trong nhiều kiếp lâu xa ở quá khứ, Bồ Tát đã có lòng từ mẫn, lập thệ nguyện nhiều như cát sông Hằng quảng độ chúng sanh như thế.
Trong đời vị lai, như có kẻ nam người nữ nào không làm lành mà làm ác, cho đến kẻ chẳng tin nhân quả, kẻ tà dâm vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt ác khẩu, kẻ hủy báng Đại Thừa; những chúng sanh có các nghiệp như thế tất phải đọa vào đường ác.
Nếu gặp được hàng Thiện Tri Thức khuyên bảo khiến trong chừng khảy móng tay liền quy y Địa Tạng Bồ Tát, những chúng sanh đó lập tức được thoát khỏi báo khổ của Tam Ác Đạo.
Nếu có thể tâm chí quy kính và chiêm lễ tán thán, cùng dùng hương, hoa, y phục, các thứ trân bảo, hoặc đồ ăn thức uống, mà cúng phụng, thì trong trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, thường được ở cõi Trời, hưởng thọ sự vui thù thắng vi diệu. Nếu phước trời hết, phải sanh xuống nhân gian, thì vẫn còn trăm ngàn kiếp thường làm bậc Đế Vương, lại nhớ được túc mạng cùng cội ngành nhân quả.
Này Định Tự Đại Vương! Bồ Tát Địa Tạng có bất khả tư nghị đại oai thần lực, lợi ích rộng lớn cho chúng sanh như thế. Các Ông, những bậc Bồ Tát, phải ghi nhớ Kinh này hầu tuyên truyền, lưu bố rộng ra."
Ngài Định Tự Tại Vương bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài chớ lo nghĩ! Ngàn muôn ức Bồ Tát Ma Ha Tát chúng con đều có thể nương oai thần của Phật mà tuyên diễn rộng rãi Kinh này nơi cõi Diêm Phù Đề để lợi ích cho chúng sanh."
Định Tự Đại Vương Bồ Tát bạch với Đức Thế Tôn xong, bèn cung kính chắp tay làm lễ mà lui ra.
Bấy giờ, bốn vị Thiên Vương cai quản bốn phương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Bồ Tát Địa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay đã phát đại nguyện như thế, vì sao đến nay vẫn độ chưa hết, lại còn phát quảng đại thệ nguyện nữa? Cúi xin Đức Thế Tôn dạy cho chúng con rõ."
Đức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: "Lành thay! Lành thay! Ta nay sẽ vì sự lợi ích rộng lớn của các Ông cùng các chúng trời, người ở hiện tại và vị lai, mà nói việc Bồ Tát Địa Tạng ở Ta Bà Thế Giới, trong đường sanh tử nơi cõi Diêm Phù Đề, từ mẫn cứu vớt, phương tiện độ thoát tất cả chúng sanh tội khổ."
Bốn vị Thiên Vương bạch rằng: "Vâng! Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin muốn được nghe."
Đức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: "Bồ Tát Địa Tạng từ bao kiếp lâu xa cho đến nay, độ thoát chúng sanh vẫn còn chưa mãn nguyện. Bồ Tát từ bi thương xót những chúng sanh tội khổ ở đời này, lại quán thấy vô lượng kiếp về sau, nghiệp nhân cứ lây dây chẳng dứt; vì lẽ đó nên lại phát trọng nguyện. Bồ Tát ở Ta Bà Thế Giới, trong cõi Diêm Phù Đề, dùng trăm ngàn vạn ức phương tiện để giáo hóa.
Này bốn ông Thiên Vương! Bồ Tát Địa Tạng nếu gặp kẻ sát sanh, thì dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải chết yểu.
Nếu gặp kẻ trộm cắp, thì dạy rõ quả báo bần cùng khổ sở.
Nếu gặp kẻ tà dâm, thì dạy rõ quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.
Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thì dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.
Nếu gặp kẻ hay hủy báng, thì dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.
Nếu gặp kẻ nóng giận, thì dạy rõ quả báo xấu xí, bệnh hoạn, tàn tật.
Nếu gặp kẻ bỏn xẻn, thì dạy rõ quả báo sở cầu không toại nguyện.
Nếu gặp kẻ ăn uống vô độ, thì dạy rõ quả báo đói, khát, cổ họng đau đớn.
Nếu gặp kẻ săn bắn buông lung, thì dạy rõ quả báo kinh cuồng, mất mạng.
Nếu gặp kẻ ngỗ nghịch với cha mẹ, thì dạy rõ quả báo trời đất đánh chết.
Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cối, thì dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.
Nếu gặp kẻ làm cha mẹ trước hoặc cha mẹ sau mà độc ác, thì dạy rõ quả báo sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.
Nếu gặp kẻ đặt lưới, giăng bẫy để bắt các sinh vật còn non yếu, thì dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.
Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, thì dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.
Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.
Nếu gặp kẻ phá hoại của Thường Trụ, thì dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.
Nếu gặp kẻ ô nhục phạm hạnh và vu báng Tăng Già, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh.
Nếu gặp kẻ làm bỏng, đốt, chém, chặt, hoặc đả thương sinh vật, thì dạy rõ quả báo phải luân hồi đền trả lẫn nhau.
Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thì dạy rõ quả báo làm thân cầm thú đói khát.
Nếu gặp kẻ phá hủy vật dụng một cách phi lý, thì dạy rõ quả báo mọi sở cầu đều thiếu hụt.
Nếu gặp kẻ kiêu mạn cống cao, thì dạy rõ quả báo làm nô dịch hèn hạ.
Nếu gặp kẻ nói hai lưỡi gây xích mích, thì dạy rõ quả báo không lưỡi hoặc trăm lưỡi.
Nếu gặp kẻ tà kiến, thì dạy rõ quả báo thọ sanh ở vùng biên địa.
Trăm ngàn sự báo ứng kết quả bởi tập khí xấu ác từ thân khẩu ý nghiệp của chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề như thế, nay chỉ nói sơ lược đó thôi.
Nghiệp cảm của chúng sanh trong chốn Diêm Phù Đề sai biệt như thế, nên Bồ Tát Địa Tạng phải dùng trăm ngàn phương tiện để giáo hóa. Các chúng sanh ấy, trước tiên phải thọ lãnh các quả báo như thế, sau đó lại đọa vào địa ngục, trải qua nhiều kiếp không có kỳ hạn thoát ra. Vì thế cho nên, các Ông phải hộ nhân hộ quốc, chớ để những nghiệp chướng đó làm mê hoặc chúng sanh."
Bốn vị Thiên Vương nghe xong, rơi lệ than thở, chắp tay lễ Phật mà lui ra.