VÀ KINH TRUNG-BỘ CHỮ PÀLI
Hòa thượng Thích Minh Châu (1961) - Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1998)
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961), "A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama and the Pali Majjhima Nikaya", Ph.D. Thesis, Bihar University, India
Phần Ba
15 MẪU NGHIÊN CỨU TỶ GIẢO
GIỮA CÁC KINH P VÀ C TƯƠNG ĐƯƠNGNC26
C184: Ngưu giác Sa la lâm kinhP32:Đại kinh rừng Sừng bòA. Toát yếu kinh C
Bảy vị Tôn giả là Xá-lợi-tử, Đại Mục-liền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca Chiên Diên, A Na Luật Đà, Ly Bà Đa và A Nan đang ở với đức Phật trong rừng Ngưu giác Sa la. Một ngày kia, các vị ấy đi đến Tôn giả Xá-lợi-tử để luận đàm về pháp và Tôn giả Xá-lợi-tử hỏi họ, hạng Tỳ-kheo nào sẽ làm đẹp khu rừng Ngưu giác Sa la. Những vị trưởng giả này nói lên quan điểm của họ và vấn đề được mang đến trước Phật. Ngài tán đồng câu trả lời của họ và đưa ra câu trả lời của riêng Ngài cho vấn đề này.
P: Gần giống. Nhưng chỉ có sáu vị trưởng lão. Bản P bỏ Đại Ca Chiên Diên và đưa ra một câu trả lời khác trong phần trả lời của Đại Mục-liền-liên.
B. Nhan đề
C: Ngưu giác Sa la lâm kinh, bản kinh nói về một ngôi rừng sa la được gọi là Sừng bò, tức là khu rừng trong đó năm vị trưởng lão đang cư trú.
P: Đại kinh rừng Sừng bò,bản kinh dài về rừng Sừng bò, cũng là ngôi rừng nói trên.
C. Nơi thuyết kinh
C: Ở Bhagga, trong rừng sa la gọi là Sừng bò.
P: Gosinga Sàlavana.
D. Nội dung kinh
I. Hoàn cảnh đưa đến việc thuyết kinh này:
C: "Một thời đức Phật du hành trong xứ Bhagga, ở lại trong rừng sa la tên Sừng bò cùng với một số đại đệ tử rất nổi tiếng và thâm niên như các Trưởng lão Xá-lợi-tử, Đại Mục-liền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca Chiên Diên, A Na Luật Đà, Ly Bà Đa và Tôn giả A Nan. Các đại đệ tử nổi tiếng và thâm niên này cũng đang du hành ở Bhagga và ở trong rừng sa la tên Sừng bò, cư trú gần chòi lá của Phật. Bấy giờ Trưởng lão Đại Mục-liền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca Chiên Diên, A Na Luật Đà khi đêm đã tàn, vào buổi sáng sớm, đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-tử. Tôn giả A Nan từ xa trông thấy các vị trưởng lão đi đến liền bảo: 'Hiền giả Ly Bà Đa, hiền giả nên biết, các Trưởng lão Đại Mục-liền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca Chiên Diên và A Na Luật Đà khi đêm đã mãn, vào buổi sáng sớm đã đi đến nơi Tôn giả Xá-lợi-tử. Này hiền giả Ly Bà Đa, nay ta hãy cùng với các Tôn giả ấy đi đến Tôn giả Xá-lợi-tử, để nghe một ít pháp thoại từ nơi Ngài.' Rồi Tôn giả Đại Mục-liền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca Chiên Diên, A Na Luật Đà và A Nan khi đêm đã tàn, vào sáng sớm đi đến Tôn giả Xá-lợi-tử."
P: Gần giống. Bản P bỏ: "tại xứ Bhagga, các đại đệ tử, Tôn giả Đại Ca Chiên Diên." Và bỏ: "các đại đệ tử ấy... cư trú gần chòi lá của đức Phật".
C: Khi đêm đã tàn vào sáng sớm = P: vào buổi chiều hôm. Bản P thêm rằng, chính Tôn giả Đại Mục-liền-liên từ thiền định dậy và gọi Đại Ca Diếp cùng đi đến Tôn giả Xá Lợi Phất; và ba Tôn giả Đại Mục-liền-liên, Đại Ca Diếp và A Na Luật Đà cùng đi đến nơi Tôn giả Xá Lợi Phất. Bản P thêm rằng, Tôn giả A Nan đà gọi ba trưởng lão ấy là Sappurisa, không có trong bản C.
II. Câu hỏi của Trưởng lão Xá-lợi-tử:
C: "Trưởng lão Xá-lợi-tử trông thấy các vị trưởng lão từ xa đến. Trưởng lão Xá-lợi-tử nói với các vị trưởng lão này rằng 'Thiện lai, thiện giả A Nan, một vị thị giả của đức Thế Tôn, hiểu được tâm tư Thế Tôn, người luôn luôn được đức Thế Tôn và các đồng phạm hạnh đa văn ca ngợi. Nay tôi hỏi hiền giả A Nan, rừng sa la tên gọi Sừng bò này rất khả ái, được thắp sáng dưới ánh trăng, các cây sa la đang tỏa ra hương thơm như hoa ở thiên giới. Này hiền giả A Nan, hạng Tỳ-kheo nào có thể đem lại sức quyến rũ cho ngôi rừng sa la tên Sừng bò này?' "
P: Gần giống. C: Tôn giả Xá-lợi-tử trông thấy từ xa các vị trưởng lão đang đi đến = P: thêm: trông thấy trưởng lão A Nan và Ly Bà Đa. C: hiền giả A Nan là thị giả... bởi các đồng phạm hạnh đa văn = P: hiền giả A Nan, người thị giả, bạn đồng hành thân thiết của đức Thế Tôn. C: cây sa la đang tỏa hương thơm như hoa cõi trời = P: cây sa la đang mùa rộ nở, tưởng chừng như hương cõi trời đang tỏa ra. C: hạng Tỳ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Ngưu giác = P: hạng Tỳ-kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Ngưu giác.
III. Câu trả lời của Tôn giả A Nan:
C: "Tôn giả A Nan trả lời: 'Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất, nếu có Tỳ-kheo nào đã nghe nhiều, đã học nhiều và nhớ kỹ, không quên, tích lũy và lắng nghe các pháp khả ái ở chặng đầu, khả ái ở chặng giữa, khả ái luôn ở chặng cuối, có ý nghĩa, có văn pháp, hiển thị đời sống phạm hạnh đầy đủ và trong sạch, pháp ấy được học một cách rộng rãi, được khéo nghe, khéo tu tập, khéo lập lại, khéo tư duy bằng tâm tư, khéo sáng tỏ với tri kiến và được thực chứng một cách sâu sắc. Vị ấy giảng pháp ấy một cách giản dị và trôi chảy, chỉ cốt để nhổ tận gốc các kiết sử. Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử, một Tỳ-kheo như thế sẽ đem lại vẻ mỹ miều cho khu rừng Ngưu giác.' "
P: Gần giống. Bỏ: "Người đã học nhiều không quên, học một cách rộng rãi, khéo tu tập, thực chứng một cách sâu sắc, giảng pháp một cách giản dị và chân xác." Thêm: "Tuyệt đối đầy đủ, vị ấy giảng pháp cho bốn hội chúng, với văn, câu chính xác và lưu loát."
C: để tận trừ kiết sử = P: để tẩy trừ các khuynh hướng tiềm tàng.
IV. Câu trả lời của Ly Bà Đa:
C: "Tôn giả Xá-lợi-tử lại hỏi: 'Hiền giả Ly Bà Đa, Hiền giả A Nan đã nói theo sự hiểu biết của mình, bây giờ tôi lại hỏi hiền giả Ly Bà Đa: Rừng sa la này... gọi là rừng Sừng bò?' Tôn giả Ly Bà Đa trả lời: 'Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu có một Tỳ-kheo nào hoan hỷ trong việc tu thiền định, chuyên tâm nội tĩnh không gián đoạn thiền định, có tuệ, luôn luôn sống độc cư và thích những nơi yên tĩnh. Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử, một Tỳ-kheo như thế sẽ đem lại vẻ đẹp cho rừng sa la, tên gọi Sừng bò này...' "
P: Gần giống. C: theo sự hiểu biết của mình = P: theo sự hiểu biết của riêng mình. C: vị ấy luôn luôn sống viễn ly = P: vị ấy yêu thích hạnh viễn ly. C: thưởng thức những nơi vắng lặng = P: lui tới những chỗ không nhàn.
V. Câu trả lời của Tôn giả A Na Luật Đà:
C: Tôn giả Xá-lợi-tử hỏi Tôn giả A Na Luật như đã hỏi Tôn giả Ly Bà Đa và A Na Luật trả lời như sau: "Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu có một Tỳ-kheo đã đạt đến thiên nhãn, có được thiên nhãn, có khả năng thấy được trong một sát na cả ngàn thế giới một cách không cần cố gắng. Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử, như một người có mắt đứng trên lầu cao nhìn xuống khoảng đất trống ở dưới với một ngàn mô đất, vị ấy không cần nỗ lực cũng có thể thấy được tất cả trong nháy mắt. Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử, một Tỳ-kheo như thế sẽ đem lại vẻ đẹp cho rừng sa la tên Sừng bò này."
P: Gần giống; nhưng bỏ: "đã đạt đến thiên nhãn, không cần nỗ lực, trong một sát na." Nó thêm: "Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân." C: đứng trên lầu cao = P: đã đi đến đỉnh của một lâu đài tốt đẹp. C: nhìn xuống khoảng đất trống bên dưới với một ngàn mô đất = P: vị ấy nhìn xuống một ngàn vòng tròn đồng tâm (nemimandàla).
VI. Câu trả lời của Đại Ca Chiên Diên:
C: Khi được Tôn giả Xá-lợi-tử hỏi, trưởng lão Đại Ca Chiên Diên trả lời như sau: "Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử, như có hai Tỳ-kheo đã nắm vững pháp, đang thảo luận về A-tỳ-đàm sâu sắc. Những gì họ hỏi được khéo hiểu, khéo biết. Câu trả lời của họ không bị vấp và pháp thoại của họ được trôi chảy. Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử, một Tỳ-kheo như vậy sẽ đem lại vẻ đẹp cho rừng sa la tên gọi Sừng bò này."
P: không có.
Ghi chú: Ở đây danh từ A-tỳ-đàm được nói đến, chỉ có nghĩa là pháp rất sâu sắc.
VII. Câu trả lời của Tôn giả Đại Ca Diếp:
C: (Khi được Tôn giả Xá-lợi-tử hỏi, Tôn giả Đại Ca Diếp trả lời như sau): "Thưa hiền giả Xá-lợi-tử, nếu có một Tỳ-kheo nào theo hạnh độc cư, tán thán hạnh độc cư; ít dục, tán thán hạnh ít dục; hỷ túc và tán thán hạnh hỷ túc; ưa thích sống viễn ly một mình, tán thán hạnh sống viễn ly một mình; tinh cần tu tập và tán thán sự tinh cần tu tập; có chánh niệm, chánh trí tuệ và ca tụng chánh niệm, chánh tuệ; tự mình đắc định và ca tụng sự đắc định; có tuệ và ca tụng tuệ giác; đã tận trừ lậu hoặc và ca tụng sự tận trừ lậu hoặc; tự mình khuyến cáo, làm phấn chấn, làm hoan hỷ, và ca tụng những việc này. Thưa hiền giả Xá-lợi-tử, một vị Tỳ-kheo như vậy sẽ đem lại vẻ đẹp cho khu rừng sa la tên Sừng bò này."
P: Không giống hẳn; bỏ: "tự mình tận trừ lậu hoặc, ca tụng sự tận trừ lậu hoặc ; tự mình khuyến cáo, làm cho phấn chấn hoan hỷ, và ca tụng sự khuyến cáo...." ; thêm: "tự mình ở rừng và ca tụng hạnh ở rừng; tự mình khất thực và ca tụng hạnh khất thực; tự mình mặc giẻ rách và ca tụng hạnh mặc giẻ rách; tự mình giữ ba y và ca tụng hạnh giữ ba y; có tri kiến và giải thoát tri kiến, ca tụng sự có tri kiến và giải thoát tri kiến; tự mình giải thoát và ca tụng hạnh giải thoát". C: người theo hạnh độc cư = P: không lẫn với thế gian. C: ưa thích sống viễn ly một mình = P: sống viễn ly. C: tinh cần tu tập = P: tinh cần. C: có chánh niệm, chánh tuệ = P: thọ giới. Trong bản C, Ma Ha Ca Diếp gọi Xá Lợi Phất là hiền giả và Xá Lợi Phất gọi Ma Ha Ca Diếp là Tôn giả. Nhưng trong bản P, hai vị gọi nhau là hiền giả.
VIII. Câu trả lời của Đại Mục-liền-liên:
C: Khi được Tôn giả Xá-lợi-tử hỏi, Trưởng lão Đại Mục-liền-liên trả lời như sau: "Có Tỳ-kheo có đại thần thông, đại công đức, đại phước đức, có năng lực thần thông lớn, làm chủ vô số năng lực thần thông, và thi triển vô số thần thông: từ một vị ấy biến thành nhiều, từ nhiều vị ấy trở thành một; khi trở thành một vị ấy thành một người có tri kiến; vị ấy đi qua vách, tường không chướng ngại như đi qua khoảng không; vị ấy vào ra trong đất như trong nước; vị ấy đi trên nước không chìm như trên đất; vị ấy bay giữa trời và ngồi kiết già ở đấy như con chim. Với bàn tay vị ấy sờ chạm mặt trời, mặt trăng, những vật có đại oai thần, đại công đức, đại phước đức, đại thần lực như vậy, cho đến đại phạm thiên giới. Tôn giả Xá-lợi-tử, một Tỳ-kheo như vậy sẽ đem lại vẻ đẹp cho khu rừng sa la tên Sừng bò này."
P : Hoàn toàn khác. Bản P đặt câu trả lời của Đại Ca Chiên Diên như ta đã thấy trong C ở đây, và không nói gì đến năng lực thần thông của Tôn giả Đại Mục-liền-liên. Câu trả lời như sau: "Ở đây hai vị Tỳ-kheo đang đàm luận về A-tỳ-đàm, họ đặt câu hỏi với nhau và trả lời mà không bị cạn kiệt, và câu chuyện về pháp cứ thế tiếp diễn".
Nhận xét:Ở đây bản C trung thực và đáng tin cậy hơn P, vì Tôn giả Đại Ca Chiên Diên nổi tiếng là bậc có biện tài về pháp và Đại Mục-liền-liên nổi tiếng là đệ nhất về thần thông.
IX. Câu trả lời của Tôn giả Xá-lợi-tử:
Khi Tôn giả Đại Mục-liền-liên trả lời xong, Ngài yêu cầu Tôn giả Xá-lợi-tử cho biết câu trả lời của chính Tôn giả, và đây là câu trả lời của Xá-lợi-tử:
C: "Hiền giả Mục-liền-liên, nếu có Tỳ-kheo nào làm chủ được tâm mình, không bị tâm chế ngự. Bất cứ sự chứng trú nào vị ấy muốn thực hành vào buổi sáng, vị ấy tu tập sự chứng trú ấy vào buổi sáng; bất cứ sự chứng đắc an trú nào vị ấy muốn vào buổi trưa, vào buổi chiều, vị âý tu tập sự chứng đắc, an trú ấy vào buổi trưa, buổi chiều. Hiền giả Mục-liền-liên, như một ông vua hay cận thần của vua có nhiều áo, nhiều y phục đủ màu sắc đẹp; vị ấy muốn mặc áo nào vào buổi sáng thì lấy ra mặc, buổi trưa muốn mặc áo nào, buổi chiều muốn mặc áo nào, vị ấy lấy ra mặc. Hiền giả Mục-liền-liên, cũng tương tự như thế với Tỳ-kheo đã làm chủ tâm ý của mình, không bị tâm chế ngự (như trên). Hiền giả Mục-liền-liên, một Tỳ-kheo như vậy sẽ đem lại vẻ đẹp cho ngôi rừng sa la tên Sừng bò này."
P: Gần giống với vài dị biệt nhỏ. Bản C nói về sự tu tập buổi trưa và chiều trong cùng một câu, bản P tách làm hai câu. Trong ví dụ, bản P thêm: vua, cận thần của vua có một tủ đủ áo màu sắc đẹp. C: y phục = P: áo quần.
X. Các trưởng lão đi đến đức Phật - Câu trả lời của Phật:
C: (Tôn giả Xá-lợi-tử yêu cầu tất cả các Tôn giả khác cùng đi đến Phật, và tất cả đồng ý. Họ đi đến đức Phật, thuật lại với Ngài toàn bộ cuộc đàm thoại, và xin Ngài xét câu trả lời nào đúng nhất. Phật khen tất cả các câu trả lời, bảo rằng mỗi vị đã trả lời đúng theo sự tu tập của mình, như Tôn giả A Nan đa văn, Tôn giả Ly Bà Đà thích ngồi thiền, Tôn giả A Na Luật Đà có thiên nhãn, Tôn giả Đại Ca Chiên Diên thiện xảo về phân tích pháp, Tôn giả Đại Ca Diếp là một người theo hạnh độc cư, Tôn giả Đại Mục-liền-liên có đại thần thông và Tôn giả Xá-lợi-tử là người làm chủ tâm mình. Rồi Đức Phật đưa ra câu trả lời của riêng ngài như sau): "Tất cả các câu trả lời đều tốt, tại sao? Vì tất cả các pháp ấy đều do ta nói ra. Này Xá-lợi-tử, hãy lắng nghe, ta sẽ nói hạng Tỳ-kheo làm đẹp khu rừng sa la tên Sừng bò này. Xá-lợi-tử, có một Tỳ-kheo khi cư trú trong thành thị, làng mạc hay chợ búa, khi đêm đã tàn, vào sáng sớm mặc y cầm bát vào làng khất thực. Với thân khéo chế ngự, các căn khéo phòng hộ, vị ấy an trú chánh niệm. Khi ăn cơm xong vào buổi chiều, vị ấy xếp dọn y bát, rửa tay chân, bỏ tọa cụ lên vai, đi vào một nơi vắng vẻ hoặc dưới gốc cây hoặc nơi khoảng trống yên tĩnh. Tại đấy vị ấy trải tọa cụ ngồi kiết già, lập thệ không rời khỏi thế ngồi kiết già cho đến khi đã tận trừ các lậu hoặc. Vị ấy không rời thế ngồi kiết gia và tận trừ các lậu hoặc. Này Xá-lợi-tử, một Tỳ-kheo như vậy làm cho ngôi rừng sa la tên Sừng bò này trở thành cao cả."
P: Gần giống, với những dị biệt đã nêu. Trong câu trả lời của Phật, chú ý những chỗ khác nhau: Bản P bỏ đoạn "ở trong thành phố.... vị ấy an trú chánh niệm." Nó cũng bỏ: "vào buổi chiều, vị ấy thu xếp y bát...trải tọa cụ." Nó cũng nói vị Tỳ-kheo lập thệ không rời thế ngồi kiết già cho đến khi tận trừ lậu hoặc; nó thêm: không có dư tàn, nhưng bỏ sự xác quyết rằng vị Tỳ-kheo đã thật sự làm như vậy. Bản P thêm : vị ấy ngồi với thân thẳng.
E. Phần kết
C: Phật dạy như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật, hoan hỷ phụng hành.
P: Đức Thế Tôn nói như vậy. Các Tỳ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn.
NC30
C 211:Đại Câu-hy-la kinhP43: Đại kinh Phương quảngA. Toát yếu kinh C
C: Tôn giả Xá-lợi-tử đi đến Đại Câu-hy-la đặt một loạt câu hỏi về nhiều vấn đề và Đại Câu-hy-la đã trả lời. Những câu trả lời của Tôn giả Đại Câu-hy-la được Tôn giả Xá-lợi-tử ca tụng và đồng ý.
P: Gần giống. Nhưng ở đây chính Tôn giả Đại Câu-hy-la hỏi Tôn giả Xá Lợi Phất.
B. Nhan đề kinh
C:Đại Câu-hy-la kinh, bản kinh nói về Tôn giả Đại Câu-hy-la, tức là tên của vị Tôn giả trả lời những câu hỏi mà Tôn giả Xá-lợi-tử hỏi.
P: Đại kinh Phương quảng, bản kinh nói về Vedalla, có thể ám chỉ các đề tài khác nhau do Tôn giả Đại Câu-hy-la đặt câu hỏi.
C. Địa điểm thuyết kinh
C: Vương Xá thành, trong rừng trúc, vườn Ca Lan Đà.
P: Xá Vệ, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên.
D. Nội dung kinh
I. Hoàn cảnh đưa đến sự thuyết kinh:
C: "Lúc bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-tử vào buổi chiều từ thiền định trở dậy đi đến Tôn giả Đại Câu Hy La, trao đổi những lời chào hỏi rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Xá-lợi-tử nói : 'Hiền giả Câu Hy La, tôi muốn hỏi hiền giả vài câu, được không?' Tôn giả Đại Câu si la nói: 'Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử, nếu ngài muốn hỏi xin cứ hỏi. Sau khi nghe xong con sẽ suy nghĩ.' "
P: Không giống. Chính Tôn giả Đại Câu-hy-la từ độc cư trở dậy vào buổi chiều đi đến Tôn giả Xá Lợi Phất trao đổi lời chào hỏi với ngài và đặt câu hỏi.
II. Loạt câu hỏi được đặt ra:
Trong bản C có 32 câu tất cả, và ta thấy ở bản P cũng có cùng số lượng; nhưng chỉ có 17 câu hỏi tương ứng với nhau trong hai bản, còn 15 câu không giống nhau.
a) 17 câu tương ứng: C3 = P2; C4 = P3; C5 = P4; C6 = P10; C7 = P11; C9 = P12; C10 = P13; C11 = P15; C12 = P16; C13 = P6; C14 = P8; C16 = P20; C18 = P22; C19 = P24; C20 = P26; C21 = P27; C27 = P32.
b) 15 câu hỏi không có trong bản P: C1, C2, C8, C15, C17, C22, C23 C24, C25, C26, C28, C29, C30, C31, C32.
c) 15 câu hỏi không có trong bản C: P1, P5, P7, P9, P14, P17, P18, P19, P21, P23, P25, P28, P29, P30, P31.
1) Các câu hỏi về thiện ác:
C1 = P không có:
C: Tôn giả Xá-lợi-tử hỏi: "Hiền giả Câu-hy-la, bất thiện được gọi là bất thiện, gốc rễ bất thiện được gọi là gốc rễ bất thiện. Gì là bất thiện, gì là gốc rễ bất thiện?" Tôn giả Đại Câu-hy-la trả lời: "Thân ác hành, ngữ ác hành, ý ác hành gọi là bất thiện. Tham, sân, si là gốc rễ bất thiện. đây gọi là bất thiện, đây gọi là gốc rễ bất thiện." Nghe xong Tôn giả Xá-lợi-tử thốt lên lời khen như sau: "Tốt lắm, tốt lắm, Hiền giả Câu-hy-la." Sau khi thốt lời ca ngợi, Tôn giả Xá-lợi-tử hoan hỷ chấp nhận.
C2 = P không có:
C: (Cách đặt câu hỏi, trả lời và những từ ngữ ca tụng ở cuối mỗi câu hỏi đều giống nhau).
Hỏi: Thiện được gọi là thiện, gốc rễ của thiện được gọi là thiện. Gì là thiện, gì là gốc rễ của thiện? Đáp: Thiện thân hành, thiện ngữ hành và thiện ý hành gọi là thiện, không tham, không sân, không si là gốc rễ của thiện. Đây gọi là thiện, đây gọi là gốc rễ của thiện.
2) Các câu hỏi về tuệ và chánh trí:
C3 = P2:
C: Hỏi: Tuệ được gọi là tuệ. Gì là tuệ? Đáp: Do biết như vậy gọi là tuệ. Biết về cái gì? Biết như thật về khổ, biết như thật nguồn gốc của khổ, biết như thật sự chấm dứt khổ, biết như thật con đường đưa đến sự chấm dứt khổ. Biết như vậy được gọi là tuệ.
P: Gần giống. C: do biết như vậy gọi là tuệ = P: tri kiến được gọi là tri kiến. Khi nói về bốn chân lý, bản P bỏ : như thật. Trong bản P, sau khi Tôn giả Xá Lợi Phất trả lời, Tôn giả Đại Câu-hy-la ca ngợi "Lành thay, Tôn giả" và hoan hỷ về những gì Tôn giả Xá Lợi Phất nói, cảm ơn và hỏi một câu khác.
C4 = P2:
C: Hỏi: Thức được gọi là thức. Gì là thức? Đáp: Nhận biết, nhận biết, do đó được gọi là thức. Nhận biết cái gì? Nhận biết sắc, nhận biết thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nhận biết, đây là lý do gọi là thức.
P: Không giống. Hỏi: Thức được gọi là thức; trong giới hạn nào nó được gọi là thức? Đáp: Thức tri, đó là lý do nó được gọi là thức. Thức tri cái gì? Thức tri lạc, thức tri khổ, thức tri bất khổ bất lạc. Thưa hiền giả, vì thức tri nên gọi là thức.
C5 = P4:
C: Hỏi: Tuệ và thức, hai pháp ấy có tương quan hay tách rời? Có thể nào chỉ rõ hai pháp này riêng rẽ nhau không? Đáp: Hai pháp này có tương quan; hai pháp này không thể được chỉ rõ nếu tách rời nhau. Tại sao? Vì cái gì tuệ biết thì thức cũng biết. Do vậy hai pháp ấy có tương quan. Hai pháp ấy không thể được hiển thị riêng rẽ.
P: Gần giống. C: hai pháp này có thể được hiển thị riêng rẽ không? = P: sau khi phân tích hai pháp này nhiều lần, có thể nào chỉ rõ sự sai biệt của chúng không? C: Tại sao vậy? Vì cái gì tuệ biết thì thức cũng biết. Do đó hai pháp này có tương quan, hai pháp này không thể được hiển thị riêng rẽ = P: Thưa hiền giả, những pháp này, tuệ và thức, là có tương quan, không phải không tương quan. Sau khi phân tích những pháp này nhiều lần, không có thể chỉ rõ sự khác nhau giữa chúng. Hiền giả, cái gì được biết thì được nhận thức, cái gì được nhận thức thì cũng được biết; bởi thế hai pháp này có tương quan, không phải không tương quan. Sau khi phân tích những pháp này nhiều lần, không thể nào chỉ ra sự khác nhau của chúng.
C6 = P10:
C: Hỏi: Tri thức, nhờ cái gì mà ta biết? Đáp: Tri thức, nhờ tuệ mà ta biết.
P: Hỏi: Hiền giả, nhờ cái gì mà người ta biết được các pháp sở tri. Đáp: Hiền giả, nhờ con mắt tuệ mà người ta biết được các pháp sở tri.
C7 = P11:
C: Hỏi: Tuệ nghĩa là gì? Gì là sự thù thắng của tuệ? Gì là công đức của tuệ? Đáp: Tuệ có nghĩa là nhàm chán, có nghĩa là vô dục, có nghĩa là biết như thật.
P: Hỏi: Gì là mục đích của tuệ? Đáp: Tuệ có mục đích thực chứng, có mục đích hiểu rõ, có mục đích thí xả.
Nhận xét:Trong bản C, chữ "ý nghĩa" nên hiểu là "mục đích".
C8 = P Không có:
C: Hỏi: Gì là chánh kiến? Đáp: Biết như thật khổ là khổ, biết nguồn gốc của khổ, biết sự chấm dứt của khổ, biết con đường đưa đến chấm dứt khổ một cách như thật, đây gọi là chánh kiến.
C9 = P12:
C: Hỏi: Gì là nguyên nhân? Gì là những điều kiện (duyên) cho sự sanh khởi chánh kiến? Đáp: Có hai nguyên nhân, hai điều kiện để sanh khởi chánh kiến. Hai cái đó là gì? Một là nghe từ người khác, hai là tự mình tư duy trong tâm. Đây gọi là hai nhân, hai điều kiện để sanh khởi chánh kiến.
P: Hỏi: Có bao nhiêu duyên để sanh khởi chánh kiến. Đáp: Có hai duyên sanh khởi chánh kiến: tiếng nói của người khác và như lý tác ý.
C10 = P13:
C: Có bao nhiêu yếu tố đi kèm với chánh kiến, để có được kết quả tâm giải thoát, tuệ giải thoát, có được công đức do tâm giải thoát tuệ giải thoát đem lại? Đáp: Có năm yếu tố đi kèm với chánh kiến.... đem lại. Năm yếu tố ấy là gì? 1. Làm bạn với sự thật, 2. Làm bạn với giới, 3. Làm bạn với đa văn, 4. Làm bạn với sự vắng lặng, 5. Làm bạn với tuệ quán.
P: Câu hỏi giống, trả lời hơi khác. Đáp: Có năm yếu tố kết hợp với chánh kiến để đem lại quả tâm giải thoát, lợi ích của tâm giải thoát, để đem lại quả tuệ giải thoát và lợi ích của tuệ giải thoát: giới, văn, thảo luận, tịnh chỉ và tuệ quán.
Trong loạt câu hỏi này, có hai câu chỉ có trong P, không có trong C.
P1: Hỏi: Liệt tuệ được gọi là liệt tuệ. Trong giới hạn nào được gọi là liệt tuệ? Đáp: Không biết, không biết, nên gọi là liệt tuệ. Vị ấy không biết cái gì? Vị ấy không biết khổ, không biết nguồn gốc khổ, không biết sự chấm dứt khổ, con đường đưa đến chấm dứt khổ. Vị ấy không biết, vị ấy không biết, nên gọi là liệt tuệ.
P5: Hỏi: Cái được gọi là tuệ và cái được gọi là thức; chỗ khác nhau giữa hai pháp này là gì? Những pháp này có tương quan hay không tương quan? Đáp: Cái được gọi là tuệ và cái được gọi là thức; hai pháp ấy có tương quan, không phải không tương quan. Tuệ cần phải được đào luyện và thức cần phải được biết rõ, đây là sự khác nhau giữa chúng.
3) Những câu hỏi về hữu:
C11 = P15:
C: Hỏi: Làm thế nào hữu khởi lên trong tương lai? Đáp : Kẻ phàm phu ngu si không biết, không học, bị vô minh che phủ, bị khát ái trói buộc, không yết kiến các bậc đa văn, không biết thánh pháp, không tu tập thánh pháp. Đây gọi là hữu khởi lên trong tương lai.
P: Câu hỏi giống, trả lời hơi khác. Đáp: Đối với các hữu tình bị vô minh ngăn che, bị khát ái trói buộc, tìm hỷ lạc chỗ này chỗ kia, do đó lại có hữu trong tương lai.
C12 = P16:
C: Hỏi: Làm thế nào hữu không khởi lên trong tương lai? Đáp: Nếu vô minh bị phá hủy, minh sanh khởi, thì khi ấy có sự chấm dứt khổ. Đây gọi là không còn hữu trong tương lai.
P: Câu hỏi giống, trả lời hơi khác. Đáp: Với sự trừ khử vô minh, sự sinh khởi tri kiến, sự chấm dứt khát ái, thì không còn hữu trong tương lai.
Trong loạt câu hỏi này, bản P có một câu mà C không có:
C14: Hỏi: Có bao nhiêu hữu? Đáp: Có ba hữu, dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
4) Những câu hỏi về thọ và tưởng:
C13 = P6:
C: Hỏi: Có bao nhiêu thọ? Do gì thọ sanh khởi? Đáp: Có ba thọ: lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. Do hưởng thụ mãnh liệt, chúng sanh khởi.
P : Gần giống. Hỏi: Thọ được gọi là thọ. Do nhân gì nó được gọi là thọ? Đáp: Cảm giác, cảm giác, nên gọi là thọ. Nó cảm giác gì? Nó cảm giác lạc thọ, cảm giác khổ thọ, cảm giác bất khổ bất lạc thọ. Nó cảm giác, nó cảm giác, nên gọi là cảm thọ. Bản P bỏ phần hai của câu hỏi và câu trả lời.
C14 = P8:
C: Hỏi: Thọ, tưởng và tư, ba pháp này có tương quan hay không tương quan? Có thể chỉ riêng ba pháp này không? Đáp: Thọ, tưởng, tư, ba pháp này có tương quan, không phải không tương quan. Không thể chỉ rõ ba pháp này riêng rẽ, tại sao? Tại vì cái mà thọ cảm nhận cũng chính là cái mà tưởng nhận biết và cũng là cái mà ý tư duy, vì vậy ba pháp này có tương quan, không phải không tương quan; không thể trình bày những pháp này riêng rẽ.
P: Gần giống. Hỏi: Thọ, tưởng và thức, ba pháp này có tương quan hay không tương quan? Sau khi phân tích các pháp này nhiều lần, có thể hiển thị sự khác biệt của chúng hay không? Đáp: Thọ, tưởng và thức, ba pháp này có tương quan, không phải không tương quan. Sau khi phân tích các pháp ấy nhiều lần, không thể hiển thị sự khác nhau giữa chúng. Cái gì người ta cảm thọ cũng là cái người ta nhận biết, cái gì người ta nhận biết thì người ta cũng ý thức được. Bởi thế ba pháp này có tương quan, không phải không tương quan. Và sau khi phân tích chúng nhiều lần, không thể chỉ rõ sự khác nhau giữa chúng.
Trong loạt câu hỏi này, có một câu hỏi trong P không có trong C.
P7: Hỏi: Tưởng được gọi là tưởng. Do nhân gì nó được gọi là tưởng? Đáp: Nhận biết, nhận biết, nên gọi là tưởng. Nó nhận biết cái gì? Nhận biết màu xanh, đỏ, trắng. Vì nó nhận biết nên gọi là tưởng.
5. Các câu hỏi về diệt định, năm căn, tâm và mạn:
C15 = P Không có:
C: Hỏi: Diệt định lấy gì làm đối tượng? Đáp: Diệt định không có đối tượng.
C16 = P20:
C: Hỏi: Có năm căn có phạm vi khác nhau, đối tượng khác nhau, mỗi căn có đối tượng riêng, đó là, mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân căn. Năm căn này với phạm vi riêng, đối tượng riêng, mỗi cái có đối tượng riêng. Cái gì thu vào, nhận đối tượng cho chúng? Gì là chỗ nương của chúng? Đáp: Năm căn có phạm vi riêng, đối tượng riêng, mỗi căn nhận đối tượng riêng của nó. Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân căn. Năm căn này với phạm vi riêng, đối tượng riêng, mỗi cái nhận đối tượng riêng của nó, nhưng ý nhận tất cả đối tượng cho chúng, ý là chỗ nương của chúng.
P: Gần giống. C: với lãnh vực riêng, đối tượng riêng = P: nànàvisayàni nànàgocaràni. C: mỗi cái nhận đối tượng riêng của nó = P: chúng không cảm thọ đối tượng và lãnh vực của nhau. C: Cái gì nhận tất cả đối tượng cho chúng, cái gì là chỗ nương của chúng?= P: Gì là chỗ nương của chúng? Gì là phạm vi của đối tượng chúng?
C17 = P Không có:
C: Hỏi: Tâm an trú nương vào cái gì? Đáp: Tâm an trú nương vào mạng.
C18 = P22:
C: Hỏi: Y cứ vào gì, mạng an trú? Đáp: Y cứ vào hơi ấm, mạng an trú.
P: Giống nhau. C: mạng = P: tuổi thọ; C: hơi ấm = P: usmà.
C19 = P24:
C: Hỏi: Mạng và hơi ấm, hai pháp này có tương quan hay không tương quan? Có thể chỉ ra hai pháp này một cách riêng rẽ? Đáp: Mạng và hơi ấm, hai pháp này có tương quan, không phải không tương quan. Không thể chỉ chúng một cách riêng rẽ; tại sao? Do thọ mạng có hơi ấm, do hơi ấm có thọ mạng. Nếu không có thọ mạng thì không có hơi ấm, nếu không có hơi ấm thì không có thọ mạng. Cũng như do duyên dầu, bấc mà ngọn đèn cháy sáng. Trong ngọn đèn này, do ngọn lửa mà có ánh sáng, do ánh sáng mà có ngọn lửa. Nếu không có ngọn lửa sẽ không có ánh sáng, nếu không có ánh sáng sẽ không có ngọn lửa. Cũng vậy, tùy thuộc thọ mạng có hơi ấm; tùy thuộc hơi ấm có thọ mạng. Nếu không có thọ mạng thì sẽ không có hơi ấm, nếu không có hơi ấm, không có thọ mạng. Do vậy hai pháp này có tương quan, không phải không tương quan, không thể hiển thị hai pháp này một cách riêng rẽ.
P: Không giống hẳn. Câu hỏi cũng hơi khác. Hỏi: Bây giờ chúng tôi hiểu lời nói của Tôn giả Xá Lợi Phất rằng, thọ mạng tùy thuộc vào hơi ấm để tự duy trì. Bây giờ chúng tôi hiểu lời nói của Tôn giả Xá Lợi Phất rằng, hơi ấm tùy thuộc vào thọ mạng để tự duy trì. Ý nghĩa của lời này cần được hiểu như thế nào? Đáp: Vậy tôi sẽ cho hiền giả một ví dụ, người trí nhờ ví dụ có thể hiểu được ý nghĩa những gì được nói. Như khi một ngòn đèn dầu được thắp, tùy thuộc vào ngọn lửa mà ánh sáng xuất hiện, tùy thuộc vào ánh sáng, ngọn lửa xuất hiện. Cũng vậy mạng tùy thuộc vào hơi ấm để tự duy trì, hơi ấm tùy thuộc vào thọ mạng để tự duy trì.
Trong loạt câu hỏi này, có ba câu không có trong C.
P21: Hỏi: Có năm căn: nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, năm căn này tùy thuộc vào gì? Đáp: Năm căn này tùy thuộc vào mạng.
P23: Hỏi: Hơi ấm tùy thuộc vào gì? Đáp: Hơi ấm tùy thuộc vào mạng.
P25: Hỏi: Các thọ hành với các pháp được cảm thọ này là giống nhau hay khác nhau? Đáp: Nếu các thọ hành là một với các pháp được cảm thọ, thì sự xuất định của một người chứng diệt thọ tưởng không thể chỉ rõ. Vì thọ hành khác với cảm thọ, nên sự xuất định của vị Tỳ-kheo chứng diệt thọ tưởng có thể chỉ rõ.
6. Những câu hỏi về sự chết, về diệt tận định, về tưởng:
C20 = P26:
C: Hỏi: Có bao nhiêu pháp được từ bỏ, khi thân xác chết bị ném vào nghĩa địa như một khúc gỗ vô tri? Đáp: Có ba pháp được từ bỏ khi thân xác chết... như một khúc gỗ vô tri. Ba pháp ấy là gì? 1. Mạng, 2. Hơi ấm, 3. Thức. Ba pháp ấy được từ bỏ khi thân xác chết ....như một khúc gỗ vô tri.
P: Gần giống. Hỏi: Có bao nhiêu pháp được từ bỏ khi thân này được vứt đi, được ném vào trong giấc ngủ như một khúc gỗ vô tri? Câu trả lời cũng giống như trên.
C21 = P27, C22,24,25,26 = P không có.
C27 = P32:
C: Hỏi: Không, vô tướng, vô nguyện, ba pháp ấy có phải khác nhau về nghĩa và về văn, hay đồng nghĩa, khác văn? Đáp: Ba pháp này khác nhau về nghĩa và cũng khác nhau về văn.
P: Không giống hẳn. C: không, vô nguyện, và vô tướng = P: vô lượng tâm giải thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát, vô tướng tâm giải thoát. Trong bản C, câu trả lời chỉ nói chúng khác nghĩa khác văn; nhưng bản P nói tùy theo nhiều phương pháp áp dụng, đôi khi chúng khác nghĩa khác văn, đôi khi chúng đồng nghĩa khác văn. Rồi bản P tiếp tục giải thích rằng do áp dụng phương pháp tu bốn phạm trú, Tỳ-kheo đạt đến vô lượng tâm giải thoát; do áp dụng pháp tu vượt quá thức vô biên xứ nhập vào vô sở hữu xứ, vị ấy chứng vô sở hữu tâm giải thoát; nhờ đi đến một chỗ trống tư duy về tính không của tự ngã và ngã sở, Tỳ-kheo đạt đến không tâm giải thoát; và nhờ không tác ý đến tất cả tướng, nhờ nhập vào định vô tướng, vị ấy chứng đắc vô tướng tâm giải thoát. Vậy đây là phương pháp theo đó bốn trạng thái tâm nói trên khác nhau về cả văn lẫn nghĩa. Rồi bản P lại tiếp tục giải thích rằng nhờ nhổ tận gốc tham, sân, si làm nên các hạn lượng, các chướng ngại, các tướng, mà vị Tỳ-kheo đạt đến tâm giải thoát vô lượng, vô tướng, không, vô sở hữu. Vậy, do phương pháp này, bốn pháp nói trên đồng nghĩa khác văn.
C28 = P không có:
C: Có bao nhiêu nhân duyên để đạt đến định bất động? Đáp: Có bốn nhân duyên để đạt đến định bất động. Đó là những gì? Nếu một Tỳ-kheo tránh xa tham dục, xa các ác bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư, đây gọi là bốn nhân, bốn duyên để đạt đến định bất động.
C29 = P không có:
C: Hỏi: Có bao nhiêu nhân duyên để đạt đến định vô sở hữu? Đáp: Có ba nhân duyên để đạt đến định vô sở hũu? Gì là ba? Nếu vị Tỳ-kheo vượt qua các sắc tưởng cho đến khi nhập vào vô sở hữu xứ và an trú trong đó, đây gọi là ba nhân duyên để đạt đến định vô sở hữu.
C30 = P không có:
C: Hỏi: Có bao nhiêu nhân duyên để đạt đến định vô tưởng? Đáp: Có hai nhân duyên để đạt đến định vô tưởng. Gì là hai? Một là không nghĩ đến tất cả tưởng, hai là nghĩ đến cảnh giới vô tưởng.
C31 = P không có:
C: Có bao nhiêu nhân duyên để trú trong định vô tưởng? Đáp: Có hai nhân duyên để trú trong định vô tưởng. Gì là hai? Một là không nghĩ đến tất cả tưởng, hai là nghĩ đến cảnh giới vô tưởng.
C32 = P không có:
C: Có bao nhiêu nhân duyên để xuất định vô tưởng? Đáp: Có ba nhân duyên để xuất định vô tưởng. Gì là ba? Một là nghĩ đến tất cả tưởng, hai là không nghĩ đến cảnh giới vô tưởng, ba là khi thân này và sáu căn liên hệ với đời sống. Đây là ba nhân duyên để xuất định vô tưởng.
Trong loạt câu hỏi này có tám câu chỉ có trong P, không có trong C.
P17: Hỏi: Gì là sơ thiền? Đáp: Khi vị Tỳ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú sơ thiền với tầm, tứ, hỷ, lạc do ly dục sanh.
P18: Hỏi: Có bao nhiêu thiền chi trong sơ thiền? Đáp: Có năm thiền chi trong sơ thiền. Khi một Tỳ-kheo chứng sơ thiền thì có tầm tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.
P19: Hỏi: Có bao nhiêu yếu tố được từ bỏ, và bao nhiêu yếu tố có được trong sơ thiền? Đáp: Trong sơ thiền, năm yếu tố được đoạn tận, năm yếu tố được chứng đắc. Nơi vị Tỳ-kheo nhập sơ thiền thì tham, sân, hôn trầm, trạo hối và nghi được đoạn tận; tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm sinh khởi.
P28: Hỏi: Có bao nhiêu duyên để đạt đến tâm giải thoát bất khổ, bất lạc? Đáp: Có bốn duyên để đạt đến tâm giải thoát bất khổ, bất lạc. Vị Tỳ-kheo sau khi đã xả lạc, xả khổ, diệt hỷ và ưu đã cảm thọ trước kia, chứng và trú thiền thứ tư với xả niệm thanh tịnh.
P29: Hỏi: Có bao nhiêu điều kiện để đạt đến tâm giải thoát vô tướng? Đáp: Có hai điều kiện để đạt đến tâm giải thoát vô tướng, đó là không tác ý tất cả tướng, và tác ý vô tướng giới.
P30: Hỏi: Có bao nhiêu điều kiện để trú tâm giải thoát vô tướng? Đáp: Có ba điều kiện để trú trong tâm giải thoát vô tướng, đó là không tác ý tất cả tướng, tác ý đến vô tướng giới, và một sự chuẩn bị trước.
P31: Hỏi: Gì là các điều kiện để xuất khỏi tâm giải thoát vô tướng? Đáp: Có hai điều kiện để xuất khỏi tâm giải thoát vô tướng, đó là tác ý tất cả tướng, và không tác ý đến vô tướng giới.
P9: Hỏi: Một tâm thanh tịnh không liên hệ đến năm căn thì có thể biết đến cái gì? Đáp: Một tâm thanh tịnh không liên hệ đến năm căn thì có thể biết được không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ.
E. Phần kết
C: Hai vị trưởng lão ấy ca tụng nhau, nói: "lành thay, lành thay" với nhau, và lấy làm hoan hỷ. Rồi họ đứng lên khỏi chỗ mà ra đi.
P: Tôn giả Xá Lợi Phất nói như vậy. Tôn giả Đại Câu-hy-la hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Xá Lợi Phất đã nói.