Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương IV: Giáo lý

26/03/201105:16(Xem: 7824)
Chương IV: Giáo lý

SO SÁNH KINH TRUNG A-HÀM CHỮ HÁN
VÀ KINH TRUNG-BỘ CHỮ PÀLI
Hòa thượng Thích Minh Châu (1961) - Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1998)
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961), "A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama and the Pali Majjhima Nikaya", Ph.D. Thesis, Bihar University, India

Phần Hai

NHỮNG ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA
BẢN HÁN TẠNG VÀ BẢN PÀLI

CHƯƠNG IV: GIÁO LÝ

Bây giờ chúng ta sẽ khảo sát chi tiết những điểm giống và khác giữa hai bản dịch, về phương diện giáo lý. Chúng ta chọn cách phân loại của tác phẩm Thanh tịnh đạo thành Giới, Định Tuệ, mặc dầu có những pháp bao hàm cả ba, như Bát chánh đạo.

A. GIỚI

Trước hết chúng ta bàn đến sự huấn luyện một Tỳ-kheo bao hàm trong giới bản Biệt giải thoát, sự giữ gìn sáu căn, thanh tịnh sinh mạng, sự sử dụng bốn vật cần dùng.
Trong NC68, đức Phật giải thích rằng, trong pháp luật này, có sự huấn luyện tuần tự một Tỳ-kheo. Trước hết là sự giữ giới gồm năm giai đoạn, rồi sự thực tập thiền định gồm hai giai đoạn, và huấn luyện trí tuệ được trình bày vắn tắt trong bản C, bao gồm hai giai đoạn trong bản P. Ở đây chúng ta chỉ giới hạn việc nghiên cứu vào sự tu tập giới.

1. Sự tuân giữ giới luật:

Bản C144, Toán số Mục-kiền-liên: Ở đây vị Tỳ-kheo nói sau khi xuất gia, vị ấy tuân giữ giới bản Tỳ-kheo và sống phù hợp với giới Biệt giải thoát. Vị ấy gìn giữ uy nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm ngay cả trong những lỗi nhỏ nhặt và tuân giữ giới bản. Rồi vị ấy kể ra 20 học giới phải theo.
Bản P107, Ganakamoggallàna: Vị Tỳ-kheo được dạy phải tuân giữ giới, chế ngự với sự chế ngự của giới bản Biệt giải thoát, có chánh hạnh và chánh hành xứ, sợ hãi đối với những lỗi nhỏ. Và vị ấy tuân giữ 26 học giới, nhiều hơn bản C 6 điều. Những học giới ấy như sau:

C1=P1: Không sát sinh.
C2=P2: Không lấy của không cho.
C3=P3: Không tà hạnh.
C4=P4: Không nói dối.
C5=P5: Không nói hai lưỡi (P: phỉ báng).
C6=P6: Không nói lời thô ác.
C7=P7: Không nói lời phù phiếm.
C8=P8: Không trồng trọt để sống (C: chih-shêng = P: bìjagàmabhùtagàma, gieo hạt, trồng rau).
C9=P16: Không nhận gái góa và con gái (P: phụ nữ và thiếu nữ).
C10=P17: Không nhận tôi tớ và nữ tỳ.
C11=P20 và P18: Không nhận voi, ngựa, bò cái, cừu (P: dê, cừu, voi, bò cái, ngựa, ngựa cái).
C12=P19: Không nhận gia cầm và heo.
C13=P21: Không nhận đồng ruộng, cửa hàng (P: ruộng, đồng, đất đai phong cảnh).
C14=P14: Không nhận lúa sống, lúa mạch, đậu, (P: mùa màng mới gặt hái, còn sống).
C15=P (không có): Không uống rượu.
C16=P12: Không dùng giường cao, rộng.
C17=P11: Không dùng tràng hoa, chuỗi đeo cổ, hương liệu, dầu thơm, phấn (P: tràng hoa, hương, dầu thơm, đồ trang sức, những đồ làm đẹp).
C18=P10: Không hát, khiêu vũ, đóng tuồng, không xem nghe múa hát, diễn kịch (P: khiêu vũ, ca hát, âm nhạc, xem trình diễn) .
C19=P13: Không nhận sanh sắc (P: Jàtarùpa, tức là vàng), hương bao (P: rajapa, bạc).
C20=P9: Không ăn quá ngọ, ăn ngày một bữa, ăn đúng thời (P: người ăn một bữa, Không ăn ban đêm). Bản P thêm P15: không nhận thịt sống;
P22: Không làm sứ giả, gởi sứ giả;
P23: Không mua bán;
P24: Không lừa đảo bằng cân, đong lường;
P25: Không hối lộ móc ngoặc, đánh tráo và lừa bịp (uckotanavancananikatisàciyogà);
P26: Không làm què quặt, ám sát, giam cầm, cướp giật giữa đường (chedanavadhabandhanaviparàmosa).

Ghi chú: Bản P thêm: không nhận thịt sống, do đó hàm ý rằng cho phép nhận thịt đã nấu chín. Nhưng bản C bỏ học giới này, ngụ ý cấm tất cả loại thịt.

2. Hỷ túc:

C: (vii,40a, 10-11): Sau khi đã hoàn tất thánh giới này, vị Tỳ-kheo tu tập hạnh hỷ túc, mặc y để che thân, ăn thực phẩm để duy trì cơ thể; bất kỳ đi đâu, vị ấy cũng mang theo y và bát, không ràng buộc, như con ngỗng trời bay trong hư không với đôi cánh.
P: (iii, 34, 22-32): Gần như trên.

C: duy trì cơ thể = P: duy trì lỗ bụng.

C: giống như con ngỗng trời = P: giống như con chim.

3. Hộ trì căn môn hay điều phục các căn:

C: Rồi vị Tỳ-kheo cần phải chế ngự các căn, đóng chúng lại, khéo điều phục tâm ý, luôn luôn có chánh trí. Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không thích thú trong sắc pháp. Chính vì để lắng dịu sự giận dữ và gây gỗ, để đề phòng sự nổi dậy của tham, sầu, khổ, và các ác bất thiện pháp, mà các căn cần phải được chế ngự. Cũng thế với tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
P: Gần giống như trên.

C: vị Tỳ-kheo cần phải chế ngự các giác quan... có chánh trí = P: căn môn cần phải được phòng hộ.

C: không thích thú trong các sắc pháp = P: không nắm giữ những chi tiết về sắc pháp. Bản này bỏ: vì muốn lắng dịu sự thù hận và gây gổ.

4. Chánh niệm trong các uy nghi:

C: (40a,11-14): Rồi vị Tỳ-kheo cần phải tỉnh giác khi đi ra, đi vào, chánh niệm tỉnh giác khi co tay, duỗi tay, khi cúi xuống, ngước lên, có uy nghi chánh hạnh, mặc y ngoài một cách đúng pháp, mang bát đúng pháp. Khi đi, đứng, nằm, ngủ, thức, nói hay im, vị ấy đều tỉnh giác.
P: (35,11-17): Gần như trên. Về oai nghi của vị Tỳ-kheo, bản Pàli thêm: đến gần, đi xa, ngước lên, nhìn xuống, ăn, uống, nhai, thưởng thức, tiểu tiện, đại tiện. Bản P bỏ: đi ra, đi vào, cúi xuống, ngước lên, có oai nghi và chánh hạnh.

Nhưng trong C 144 (75a,11-13) có thêm hai giai đoạn nữa, quán chánh niệm và tránh các tư tưởng liên hệ đến dục như sau: "Khi vị Tỳ-kheo đã hoàn tất giai đoạn đầu, vị ấy cần được dạy quán nội thân như là thân thể cho đến quán cảm thọ, quán tâm và quán pháp, vị ấy không được tư duy những tư duy liên hệ đến dục vọng." Bản P không có.

Nhưng bản P(iii,2,26,33) thêm hai giai đoạn nữa ở sau chánh niệm uy nghi:

a) Tiết độ trong ăn uống, tỉnh giác trong khi ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để duy trì cơ thể, giữ cho nó sống, không bị hại, để tuân giữ đời sống phạm hạnh, để nhổ tận gốc những cảm thọ cũ và ngăn ngừa những cảm thọ mới, để Tỳ-kheo có thể sống an ổn, không lỗi lầm;

b) Rồi vị Tỳ-kheo cần phải chú tâm cảnh giác; trong lúc tới lui vào ban ngày và đầu đêm, vị ấy phải thanh lọc tâm khỏi các chướng ngại pháp; vào đêm canh giữa, trong lúc nằm xuống hông bên phải theo dáng sư tử, hai chân chồng nhau, vị ấy phải chánh niệm nghĩ đến lúc thức dậy; vào canh cuối, sau khi thức dậy đi tới đi lui, vị ấy phải thanh lọc tâm khỏi các pháp chướng ngại.

5. Sử dụng các vật cần dùng:

Kinh C10, Lậu tận: (v,13b, 5-9): "Tỳ-kheo sử dụng y phục, không phải vì lợi lộc, không phải vì kiêu mạn, không phải để trang sức, mà chỉ để che chở thân khỏi muỗi, ruồi, gió, mưa, lạnh, nóng để che đậy sự hổ thẹn. Khi dùng đồ ăn uống, không phải vì lợi lộc, kiêu mạn, vì lạc thú mập phì, mà chỉ để duy trì cơ thể được sống lâu, để trừ khử ưu, não, sầu, bi, để duy trì đời sống phạm hạnh, để xua đuổi cơn bệnh cũ và đề phòng bệnh mới, để được sống lâu, an ổn, không bệnh. Khi Tỳ-kheo sử dụng trú xứ, phòng, nhà, giường, chiếu, đồ nằm, không phải để lợi lộc, không phải để kiêu mạn, không phải để trang sức, mà chỉ để chấm dứt sự mệt mỏi của việc tọa thiền. Khi Tỳ-kheo sử dụng dược phẩm trị bệnh, không phải vì lợi lộc, kiêu mạn, không vì lạc thú mập phì, mà chỉ để trừ khử ưu não do bệnh gây nên, để duy trì mạng sống, để sống an ổn, không bệnh."
Bản P2, Tất cả lậu hoặc: (i, 10, 4-23): Không giống như trên. Về sự sử dụng y phục, bản P thêm như lý tác ý vào thái độ của Tỳ-kheo và thêm sirimsapa vào trong danh sách muỗi và ruồi. Nó bỏ: không vì lợi lộc, không vì kiêu mạn, không vì trang sức. Về sự sử dụng thức ăn uống, bản C nói: thức ăn uống = bản P: đồ ăn khất thực. Ở đây bản P nói Tỳ-kheo sử dụng đồ ăn khất thực không phải vì thể thao (davà), không phải để đam mê (madàya), không phải để trang hoàng, không để làm đẹp mình, mà để duy trì mạng sống, để mạng sống khỏi bị hại, để duy trì đời sống phạm hạnh, để diệt trừ cảm thọ cũ, ngăn ngừa cảm thọ mới khởi lên, để sống không lỗi, được an ổn.Về sử dụng trú xứ, bản P sử dụng một danh từ duy nhất là sàng tọa. Nó bỏ: "không phải để trang sức.v.v." và nói để che chở khỏi lạnh nóng, tránh muỗi ruồi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát, để tẩy trừ sự khắc nghiệt của mùa, để hưởng sự độc cư. Về sử dụng dược phẩm trị bệnh, bản P dùng danh từ gilàna-paccaya bhesajjaparikkhàra. Bản P bỏ: "không vì..." nhưng nói "để trừ diệt những cảm thọ khởi lên phát sinh ra đau đớn, để được an lạc hoàn toàn."

Ghi chú: Về danh từ sirimsapa, vị trí của nó ở đây khá lạ lùng, vì nó đáng lẽ đặt gần các từ damsa, makasa. Trong truyền thống P, chỉ có những nhu yếu tích cực về y phục được nói đến, nhưng không có trường hợp nào về sự sử dụng sai được kể ra. Trong bản C, danh từ kiêu mạn được dùng để dịch chữ màdàya, chữ này trong tiếng P vừa có nghĩa kiêu mạn, vừa có nghĩa mê say, và ở đây nghĩa mê say thích hợp hơn. Về sự sử dụng đồ ăn khất thực, bản P nói: "không vì trang sức (vibhùsana), không vì trang hoàng". Điều này có vẻ khá gượng ép ở đây. Bản C có lẽ dễ nghe hơn.

Nhận xét chung:

Như vậy về phương diện giới, không có khác nhau nhiều giữa đạo đức thực hành. Những bất đồng rải rác chỉ cho thấy những tiểu dị giữa hai bộ phái mà hai bản kinh tiêu biểu. Như vậy sự bỏ mất học giới "không nhận thịt sống" ra khỏi bản C rất ý nghĩa, vì nó chứng tỏ thái độ chủ trương ăn chay của các nhà Nhất thiết hữu bộ từ một thời rất xa xưa.


B. ĐỊNH

Trong đoạn nói về định, trước hết chúng ta đề cập 37 bồ đề phần pháp, kế đến sự diệt trừ năm triền cái, rồi đến bốn thiền thuộc sắc địa, bốn phạm trú, bốn thiền thuộc vô sắc địa, diệt thọ tưởng và vô tưởng, và cuối cùng là năm thắng trí.

1. Ba mươi bảy Bồ-đề phần:

Trong NC 66, kinhChâu na,C196 (vii, 56a,13) đề cập những pháp bốn niệm xứ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi và tám thánh đạo. So sánh chúng với bản P tương đương, (P104,Làng Sàma,) chúng ta thấy không có khác nhau giữa hai bản ngoại trừ P đểõ bốn chánh cần thay vì bốn chánh đoạn như C.
a) Tứ niệm xứ: Sự giống nhau giữa bản C và bản P được thấy rõ trong NC8: (P10=C98: Niệm xứ) ở đấy bốn niệm xứ được mô tả dài dòng như dưới đây:

C98: Kinh Niệm xứ(vi,18a,13-14): Bốn niệm xứ là gì? Quán thân như thân. Cũng thế đối với thọ, tâm và pháp.

P 10: (i,56,4-11): Gần giống. Bản P không sử dụng hình thức rút ngắn như bản C.

i) Quán thân:
Bản C kể 18 cách quán thân trong khi bản P chỉ kể 9 cách. Những cách tương đương như sau: C1=P2; C2=P3; C5=P1; C12=P4; C13=P5; C14=P7. Bản C 3, 4, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 15 không có trong P.
C1: (18b,14-15): "Tỳ-kheo khi đi biết rằng mình đang đi, khi ngồi biết mình đang ngồi, khi nằm xuống biết mình đang nằm xuống, khi ngủ biết mình đang ngủ, khi thức biết mình đang thức, khi ngủ dậy biết mình đang ngủ dậy. Vị ấy quán nội thân như là thân thể, quán ngoại thân như là thân thể, chú tâm trên thân thể, hiểu biết sanh, tri kiến sanh, ánh sáng sanh, chứng đắc sanh. Đây gọi là Tỳ-kheo quán thân thể như là thân thể."

P2: (56,11-14; 27-38; 57,1-4): Tương tự. Nói thêm trường hợp một Tỳ-kheo đi vào một khu rừng, hay dưới gốc cây, hay ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng, chánh niệm. Về phép quán gần giống nhau. Bản P bỏ chi tiết về Tỳ-kheo ngủ, thức, ngủ dậy, và thêm một câu tổng quát nói rằng bất cứ thân thể có vị trí nào, vị ấy cũng biết rõ. Về phần ở cuối mỗi đoạn, bản P có nhiều chi tiết hơn. Nó thêm: quán thân trên nội thân, quán thân trên ngoại thân, quán tánh sanh khởi của các pháp, tánh diệt tận của các pháp, sự sanh và diệt của các pháp trong thân. Bản P không nói gì về việc trí sanh, nhãn sanh, quang sanh, minh sanh, nó chỉ nói: vị ấy chánh niệm thân thể trên thân thể...để gột rửa tham ưu, không nương tựa chấp thủ bất cứ gì trên đời.

C2: (18b,15-17): "Lại nữa vị ấy biết rõ khi đi ra, đi vào, chánh niệm tỉnh giác; khi co tay duỗi tay, cúi xuống ngước lên, với uy nghi chánh hạnh, khi mặc thượng y và y phục, khi cầm bình bát, khi đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói, im, vị ấy đều biết rõ."

P3: (57, 6-13): Bản P bỏ khi vị ấy đi ra đi vào, với oai nghi tề chỉnh, nhưng thêm: khi vị ấy đi tới, đi lui, nhìn trước, ngó quanh, khi ăn, uống nhai, nếm, khi đại tiểu tiện. Bản C: quán sát rõ, phân biệt rõ, vị ấy biết một cách chân chánh = P: hoàn toàn tỉnh giác.

C3: (18b,17-19): "Khi những ý tưởng ác bất thiện khởi lên, vị Tỳ-kheo dùng những thiện pháp để điều chỉnh, cắt đứt, dập tắt, ngăn chận chúng. Như một người thợ mộc, đệ tử người thợ mộc dùng một dây mực để kẻ đường thẳng trên gỗ. Rồi với một cái cưa bén, ông ta cưa đứt nó và làm cho nó thẳng." Bản P: không có.

C4: (18b,19-20; 19a, 1-2): "Vị Tỳ-kheo nghiến răng, dán chặt lưỡi trên nóc họng, dùng tâm chế ngự tâm, cắt đứt, dập tắt, chặn đứng, như hai người đô vật tóm lấy một người ốm yếu, nắm chặt, xoay anh ta và đánh đập tùy thích." bản P: không có.

C5: (19a, 2-4): "Khi Tỳ-kheo nghĩ đến sự thở vào, vị ấy biết mình đang nghĩ đến thở vào; khi nghĩ thở ra, vị ấy biết mình đang nghĩ thở ra; khi hít vào một hơi dài, vị ấy biết mình đang hít vào một hơi dài; khi thở ra một hơi dài, vị ấy biết mình đang thở ra một hơi dài; khi hít vào một hơi ngắn, vị ấy biết mình đang hít vào một hơi ngắn; khi thở ra một hơi ngắn, vị ấy biết mình đang thở ra một hơi ngắn; vị ấy tập cảm giác toàn thân khi thở vào, vị ấy tập cảm giác toàn thân khi thở ra; vị ấy tập an tịnh thân hành khi thở vào; vị ấy tập an tịnh thân hành khi thở ra."

P1: (56, 14-32): Gần giống. Một điểm khác là:

C: Vị ấy tập an tịnh ngữ hành khi thở ra.

P: Thay bằng thân hành, và như vậy đúng hơn. Để làm sáng tỏ đoạn này, bản P thêm ví dụ với người thợ quay biết rõ khi quay ngắn hay quay dài.

Ghi chú: Trong đoạn "Vị ấy tập cảm giác toàn thân khi thở vào", người biên tập kinh C có ghi chú sự hoài nghi của mình về hai danh từ "học" là huấn luyện học tập và "giác" có nghĩa là cảm giác, và lưỡng lự không biết nên sử dụng danh từ nào. Kỳ thực người dịch kinh C sử dụng danh từ "học" để dịch chữ sikkhativà danh từ "giác" để dịch chữ vedanà. Những nhà phiên dịch về sau dùng chữ "tho"ï là nhận để dịch danh từ vedanà. Nếu ta so sánh với đoạn P: sabbakàyapatisamvedì assissàmìti sikkhati (cảm giác thân hành tôi sẽ thở ra, vị ấy tập) ta thấy rằng cần sử dụng cả hai danh từ ấy ở đây.

C6: (19a, 4-7): "Với hỷ lạc do độc cư sanh, vị Tỳ-kheo thấm nhuần thân thể, tẩm ướt toàn diện và cùng khắp. Trong thân này, niềm hỷ lạc do độc cư ấy thấm lan khắp, không một nơi nào không thấm. Như một người hầu tắm sau khi làm sạch bồn tắm, bỏ bột tắm vào quậy với nước làm thành một khối. Nước ấy thấm khắp, tẩm ướt toàn thân, không chỗ nào là không thấm."

P: không có.

C7: (19a,7-10): "Với hỷ lạc thiền định, vị Tỳ-kheo thấm nhuần toàn thân, trọn vẹn và cùng khắp. Trong thân này, hỷ lạc do thiền định sanh thấm khắp, không một chỗ nào không thấm. Như một dòng suối từ trên núi cao chảy xuống trong sáng tràn đầy. Nước từ bốn phương không thể chảy vào. Nhưng nước từ dưới đáy suối tuôn lên, chảy tràn và lan khắp, làm đầy hồ, không một nơi nào không lan đến."

P: không có.

C8: (19a, 10-13): "Ly hỷ chỉ còn lạc, vị Tỳ-kheo thấm nhuần thân thể với lạc thọ ấy cùng khắp. Trong thân này, lạc ấy lan khắp, không một nơi nào không lan. Như những hoa sen xanh, hồng, đỏ, trắng sinh trong nước, lớn lên trong nước và ở trong lòng nước; những rễ, cọng, hoa, lá của nó đều được thấm nhuần tẩm ướt một cách trọn vẹn, không một nơi nào không thấm"

P: Không có.

C9: (19a,13-15) : "Với tâm thuần tịnh, hiểu biết, vị Tỳ-kheo an trú thân này ; trong thân này, không một chỗ nào là không được thấm nhuần bằng cái tâm thuần tịnh tỉnh giác. Như một người trùm toàn thân bằng một tấm vải rộng bảy, tám sãi tay, từ đầu đến chân không một chỗ nào thân thể không được che trùm."

P: Không có.

C10: (19a,16-18): "Vị Tỳ-kheo quán sát tưởng chói sáng, khéo gìn giữ trong tâm những gì mà tâm quán tưởng. Lúc đầu cũng như lúc cuối, lúc cuối cũng như lúc đầu; ngày như đêm, đêm như ngày; dưới như trên, trên như dưới. Như vậy với tâm không tán loạn, không rối ren, vị ấy tu tập tâm với quang tưởng, tâm không bao giờ bị bao phủ trong bóng tối."

P: Không có.

C11: (19a, 18-20): "Vị Tỳ-kheo khéo thu vào hình ảnh quán tưởng, khéo nhớ lại những gì mà tâm nhận thức. Giống như một người ngồi nhìn một người đang nằm, hoặc một người đang nằm nhìn một người đang ngồi."

P: Không có.

C12: (19a, 20; 19b, 1-4): "Thân thể này, đang sống, theo những ưa và chán của nó, từ đầu xuống đến chân, Tỳ-kheo quán sát và thấy nó đầy những thành phần bất tịnh: 'Thân này của ta gồm tóc, lông, móng, răng, da dày, da mỏng, thịt, gân, xương, tim, thận, gan, phổi, ruột già, ruột non, lá lách, bao tử, phân, não, hộp não, nước mắt, mồ hôi, nước mũi, đàm, mủ, máu, mỡ, tủy, nước bọt, mật, nước tiểu. Nó giống như một thùng đựng nhiều hạt giống, một người có mắt phân biệt rõ ràng đây là lúa, mè, cải, hột mù tạt...' "

P4: (57,13-34) : Trong bản P, những bất tịnh của thân thể gồm có 31 pháp, hơn C một pháp. Mặc dù nhiều bất tịnh chiếm cùng vị trí trong bảng kê, thứ tự chúng có chỗ không đồng.

P bỏ: não và hộp não.
C bỏ: hoành cách mô, mỡ da, nước khớp xương.
C: da dày, da mỏng = P: taco.

Ở đây bản P có thứ tự như sau: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, bao tử, phổi, ruột non, ruột già, màng ruột, mật, đàm, mủ máu, mồ hôi, nước mắt, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu. Trong ẩn dụ, bản C nói đến một thùng chứa, trong khi bản P sử dụng danh từ ubhatomukhà mutolìlà một thứ bao có hai đáy. P kể sáu loại ngũ cốc: sàlì, vìhì, muggà, màsà, tilà, tandulaø (gạo, lúa, đậu xanh, đậu nành, mè, gạo lứt?).

C13: (19b, 4-6): "Lại nữa vị Tỳ-kheo quán sát thân thể này như là thân thể. Vị Tỳ-kheo quán sát thân này với các thành phần : 'Thân thể này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới. Như người đồ tể sau khi giết một con bò, lột da đặt nó trên đất mà chia thành sáu phần.' "

P5: (57, 35-37; 58-18) : Bản P chỉ nói bốn giới đầu, bỏ không giới và thức giới. Trong ẩn dụ của bản P, nói một đồ tể thiện xảo hay đệ tử của người đồ tể ngồi ở ngã tư đường và trưng bày những thành phần của con bò cái mà anh ta đã giết.

-Quán các giai đoạn tan rã của xác chết:

Ở đây cả hai bản đều mô tả vị Tỳ-kheo quán sát những giai đoạn tàn tạ của một thây chết bị ném ra nghĩa địa (bản P), cho đến bảy ngày (bản C) hoặc cho đến ba ngày (bản P).

C1: (19b, 6-8): "Lại nữa vị Tỳ-kheo quán sát thân thể như là thân thể. Vị Tỳ-kheo quán sát thi thể kia đã chết một ngày, hai ngày cho đến sáu, bảy ngày, bị quạ và diều mổ, bị chó sói và chồn hoang ăn, bị lửa đốt, bị chôn dưới đất, phải tàn tạ, hôi thối, tan rã."

P1: (58, 9-11): Bản P nói đến một thân thể bị ném ra nghĩa địa một ngày hoặc hai ba ngày, phồng lên, xanh bầm và hôi thối.

C2: (19b, 8-10): "...một bộ xương có màu xanh bầm, hôi thối, bị rữa ra, bị ăn hết hơn một nửa, với những bộ xương còn liên kết nằm trên mặt đất."

P2: (58, 15-19): "Thân này bị ném vào nghĩa địa và bị ăn bởi những con quạ, diều hâu, kên kên, chồn hoang, bởi đủ thứ sâu bọ."

C3 và C4: (19b, 10-14): "...bộ xương không có da, đã hết máu, còn thịt, còn đường gân liên kết ... bộ xương không còn gân dính liền, rải rác khắp mọi hướng: một đốt xương bàn chân, một xương ống chân, một xương đùi, một xương mông, một xương bả vai, một xương cổ, một xương sọ nằm rải rác chỗ này chỗ kia."

P3: (58, 23-31): "Một bộ xương còn thịt và máu, còn đường gân liên kết, một bộ xương không còn liên kết rải rác khắp mọi hướng, chỗ này chỗ kia một xương bàn tay, một xương bàn chân, một xương ống chân, một xương đùi, một xương vế, một xương sống lưng, một xương đầu."

C5: (19b, 14-17) : "...Những xương màu trắng như vỏ ốc, xanh như màu bồ câu, đỏ như thể loang lổ máu, bị tàn tạ, thối rữa, rã rời, và tan thành bột phấn."

P4: (58, 34-37; 59,1): "Những cái xương trắng màu vỏ ốc, chất thành từng đống đã hơn một năm (terovassikàni), những cái xương hôi thối, tan rã thành đất, chỉ còn là bột."

- Sự quán tưởng của vị Tỳ-kheo về những nơi ấy:

C: (19b,7-8) : "Sau khi trông thấy điều này, Tỳ-kheo so sánh với chính thân thể mình: 'Thân ta rồi cũng ra như thế, theo định luật ấy, cuối cùng không thể nào thoát khỏi.' Như vậy vị Tỳ-kheo quán nội thân như là thân thể, quán ngoại thân như là thân thể, an trú tâm trên thân, liên hệ đến trí, liên hệ đến tri kiến... Như vậy là quán thân trên thân."

P: (59,1-10): Vị Tỳ-kheo quán sát thân này bản chất là như vậy, thân này sẽ trở thành như vậy, không thể nào khác hơn, còn lại như trên.

Nhận xét:Ở đây bản P bỏ từ đoạn sáu đến đoạn chín của bản P. Nhưng trong NC74, bốn đoạn ấy liên hệ đến sự chứng đắc bốn thiền thì cũng có như trong bản P. Nghiên cứu tỷ giảo các đoạn này trong hai bản dịch sẽ cho thấy những điểm đồng và dị như sau:

C6 = P10: (P 119, iii): Gần giống. Bản P thêm sự chứng đắc sơ thiền với năm thiền chi. Ví dụ cũng gần như nhau. Bột tắm ở bản C = P: nahàniyacunnàni. Bản P thêm: không có trào ra. Còn lại cũng giống nhau.

C7 = P11: (P93, 4-23): Tương tự. Ở đây P thêm sự chứng đắc nhị thiền với các thiền chi, ví dụ cả hai giống nhau. Bản C: một suối nước tuôn từ trên núi xuống, trong sáng, tràn đầy = P: một hồ nước đầy. Trong khi bản C nói đến nước tuôn lên từ dưới đáy và tràn ra ngoài, thấm khắp ngọn núi, bản P nói rằng, mặc dù thỉnh thoảng trời không trút mưa xuống, nhưng nước mát tuôn từ dưới lên sẽ làm đầy hồ với nước mát lạnh.

C8 = P12: (P 93, 24-33; 94, 1-8): Gần giống nhau. Ở đây bản P thêm sự chứng đắc tam thiền theo thể thức thuờng lệ. Ví dụ cũng gần giống nhau. Bản P thêm: trong một ao đầy sen xanh, đỏ, trắng; và bỏ: sen hồng. Bản C: rễ, nhánh, hoa, lá của nó = bản P: từ ngọn cho đến rễ.

C9 = P13: (P 94, 9-21): Gần giống nhau. Ở đây bản P thêm sự chứng đắc thiền thứ tư theo công thức thường lệ. Ví dụ cũng gần giống nhau. Bản P nói thêm con người đang ngồi. C: một tấm vải dài bảy, tám sãi tay = P: tấm vải trắng.

ii) Quán thọ:
C: (19b,17-20) : "Thế nào là quán cảm thọ như là cảm thọ? Tỳ-kheo khi cảm giác lạc thọ, biết rằng mình đang cảm giác lạc thọ; khi cảm giác khổ thọ biết mình đang cảm giác khổ thọ. Khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, biết mình đang cảm giác bất khổ bất lạc thọ. Khi cảm giác một lạc thọ về thân, một khổ thọ về thân, một bất khổ bất lạc thọ về thân; một lạc thọ về tâm, một khổ thọ về tâm, một bất khổ bất lạc thọ về tâm; một lạc thọ liên hệ đến thực phẩm, một khổ thọ liên hệ đến thực phẩm, một bất khổ bất lạc thọ liên hệ đến thực phẩm; một lạc thọ không liên hệ đến thực phẩm, một khổ thọ không liên hệ đến thực phẩm, một bất khổ bất lạc thọ không liên hệ đến thực phẩm; một lạc thọ về dục, một khổ thọ về dục, một bất khổ bất lạc thọ về dục; một lạc thọ về ly dục, một khổ thọ về ly dục, một bất khổ bất lạc thọ về ly dục. Khi ấy, vị ấy biết mình đang cảm thọ... một cảm thọ ly dục không lạc không khổ." (Phần còn lại cũng như trong trường hợp quán thân).
P: (i, 59, 11-28): Gần giống nhau. P bỏ: thân lạc thọ, thân khổ thọ, thân bất khổ bất lạc thọ, tâm lạc thọ, tâm khổ thọ, tâm bất khổ bất lạc thọ, lạc thọ về dục, khổ thọ về dục, bất khổ bất lạc thọ về dục, lạc thọ về ly dục, khổ thọ về ly dục, bất khổ bất lạc thọ về ly dục. Bản C: lạc thọ liên hệ đến thực phẩm = P: lạc thọ liên hệ đến lợi lộc vật chất. Nhận xét tương tự đối với hai cảm thọ kia và ba cảm thọ không liên hệ đến thực phẩm.
iii) Quán tâm:
C: (20a,1-4): "Vị Tỳ-kheo khi tâm có tham dục biết rõ như thật rằng tâm có tham dục; khi tâm không tham dục vị ấy rõ biết như thật tâm không tham dục." Tương tự với sân, không sân; si, không si; có lỗi không lỗi; tâm tập trung, tâm phân tán; tâm thấp hèn, tâm cao thượng; tâm nhỏ nhen, tâm quảng đại; tâm có tu tập, tâm không tu tập; tâm định tĩnh, tâm không định tĩnh; với tâm không giải thoát biết như thật tâm không giải thoát, với tâm giải thoát vị ấy biết như thật rằng tâm giải thoát. (Còn lại cũng giống như những chương trước).
P: (59, 29-37; 60, 1-6): Gần giống nhau. Bản P bỏ: tâm có lỗi, không lỗi; có tu tập, không tu tập; cũng bỏ: như thật.
iv) Quán pháp:
C: (20a, 4 - 15): "Con mắt do sắc pháp khởi lên những nội kiết sử. Vị Tỳ-kheo khi trong tâm có nội kiết, như thật biết rằng mình có nội kết; khi trong tâm không có nội kiết, như thật biết rằng mình không có nội kiết. Khi nội kiết chưa sanh khởi, vị ấy như thật biết chúng; khi những nội kết đã sanh được đoạn trừ không sanh trở lại, vị ấy như thật biết chúng. Cũng vậy với tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đây gọi là Tỳ-kheo quán pháp như pháp theo sáu xứ." Rồi bản C tiếp tục với phương pháp ấy và cách giải thích đối với năm triền cái, bảy giác chi.
P: (60, 6-37; 61, 1-17): Gần giống nhau, trừ các chỗ khác nhau như sau:

a) Những pháp được dùng để quán trong bản P là năm triền cái, năm thủ uẩn, sáu nội ngoại xứ, bảy bồ đề phần, bốn đế; Như vậy bản C bỏ năm thủ uẩn và bốn đế;

b) Bản C chỉ nói sáu nội xứ mà không nói đến sáu ngoại xứ;

c) Bản C khởi đầu với sáu nội xứ rồi đến năm triền cái, P khởi đầu bằng năm triền cái, đến năm thủ uẩn, đến sáu nội ngoại xứ.

v) Hai quả chứng nhờ thực hành niệm xứ:
C: (20a, 15-19) = P: (62, 34-37; 631-19):
Cả hai bản kinh đều mô tả hai quả chứng đạt được nhờ tu tập niệm xứ, đó là tối thượng tri kiến ngay trong hiện tại (C), chánh trí (P) hoặc nếu còn dư y, thì quả Bất hoàn (C) và sati upàdesese anàgàmita(P).

Về thời gian tu tập để đạt đến hai quả nói trên, bản C bắt đầu bằng bảy năm và tuần tự xuống đến sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm, rồi bảy tháng, sáu, năm, bốn, ba, hai, một tháng, rồi bảy ngày, sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày một đêm. Nó còn nói thêm: "Vào buổi sáng, vị ấy tu tập như vậy, vào buổi chiều vị ấy sẽ đạt đến chứng đắc, vào buổi chiều vị ấy tu tập như vậy, sáng mai sẽ chứng đắc". Bản P khởi đầu bằng bảy năm, dần dần xuống đến sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm; bảy tháng rồi sáu, năm, bốn, ba, hai, một tháng, nửa tháng và bảy ngày chứ không ít hơn, và bảy ngày được xem là thời gian tối thiểu để đạt đến Chánh trí hay quả Bất hoàn.

Ghi chú: Về sự tu tập niệm xứ này cả hai bản kinh cho ta những tài liệu gần giống nhau, vì phương pháp quán căn bản chỉ là một. Nhưng những nhà kết tập hai tạng kinh dường như tự do thu thập những tài liệu, và điều này giải thích sự khác nhau về chi tiết mà ta sẽ thấy ở đây. Chúng ta có thể kết luận một cách an toàn rằng cả hai bản dịch đều xuất xứ từ một nguồn gốc, nhưng sự chọn lựa những chi tiết thì do những nhà kết tập tùy tiện.

b) Bốn chánh đoạn :

Ở đây bản C sử dụng từ ngữ Bốn chánh đoạn (Sk.Samyakprahàna).
C 222: (vii, 98a-6-9) : "...Đối với những ác bất thiện pháp đã sanh, vị ấy nỗ lực tâm để diệt trừ chúng. Đối với các ác bất thiện pháp chưa sanh, vị ấy nỗ lực tâm để diệt trừ chúng, làm cho chúng không thể sanh khởi. Đối với các thiện pháp chưa sanh, vị ấy nỗ lực tâm làm cho nó có thể sanh. Đối với các thiện pháp đã sanh, vị ấy nỗ lực tâm để chúng tồn tại lâu dài, chúng không biến mất, mà tăng trưởng."

P77: (ii, 11, 10-22): Bản P dịch như sau: "anuppannànam pàpakànam akusalànam dhammànam anuppàdàya; uppannànam pahànaya; anuppannànam kusalànam dhammànam uppàdàya; uppannànam thìtiyà."

(Những ác bất thiện pháp chưa sanh không cho sanh khởi; đã sanh thì trừ diệt; những thiện pháp chưa sanh làm cho sanh khởi; đã sanh thì duy trì.)

c) Bốn thần túc:

C 206: (vii, 78a, 13-15): "Vị Tỳ-kheo được dạy tu tập căn bản thần thông đoạn tận, được hoàn tất trong thiền định căn cứ trên dục, tùy thuộc viễn ly, ly dục, diệt, xả ly, hướng đến Niết-bàn. Cũng vậy căn bản thần thông đoạn tận, được hoàn tất trong thiền định căn cứ trên tinh tấn, trên tâm, trên sự phân biệt, tùy thuộc viễn ly, ly dục ... hướng đến Niết-bàn."
P16: (i,103,32-37): Gần giống. Bốn loại định được nói ở đây là dục, tinh tấn, tâm, trạch pháp. Thuộc từ cho thần túc là chandà - samàdhipadhànasankhàrasamannàgatam (với chữ dục được thay thế bằng ba yếu tố khác trong những trường hợp sau), nghĩa là có được thiền định dựa trên dục, với những hoạt động của sự nỗ lực, trong khi bản C thay thế danh từpadhànasankhàrabằng chữ đoạncó nghĩa là nhổ tận gốc.

d) Năm căn:

Những pháp này được đề cập trong NC98, kinh C 86: (vi, 4a, 2-3) là các căn tín, tấn, niệm, định, tuệ. Bản P cũng tương tự.

e) Năm lực:

Những pháp này được đề cập trong kinh C86: (vi, 4a, 3-5) và trong kinh P77: (ii,12,73). Chúng được kể như là các năng lực tín, tấn, niệm, định, tuệ.

f) Bảy bồ đề phần hay bảy yếu tố của trí tuệ:

Được đề cập trong NC2, 49, 66, 72 và 98.
C86: (vi,4b,15-17): Chúng được kể như sau: tuệ, niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả.

P77 : (ii,12,14-23): Cũng giống như trên: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi,và xả giác chi.

g) Tám Thánh đạo:

Tám thánh đạo được kể trong NC31, 48, 65, 73, 93, 95 và 98.
C31: (43a,9-11): "Chánh kiến là gì? Khi thánh đệ tử nghĩ về khổ là khổ, sinh là sinh, diệt là diệt, đạo là đạo, hoặc khi vị ấy xét đến những hành vi trước của mình, hoặc khi vị ấy tu tập và tư duy về các nghiệp đạo, hoặc vị ấy thấy nguy hiểm trong các nghiệp đạo, hoặc khi vị ấy thấy sự an tịnh của Niết-bàn, hoặc khi vị ấy quán tâm giải thoát không chấp thủ. Trong những lúc ấy, vị ấy phân tích, phân tích rộng rãi, phân tích sâu xa, quán sát, quán sát rộng rãi, phân biệt rõ ràng và quán sát, đạt đến một cách minh bạch. Đây gọi là chánh kiến."

P141: (iii, 251, 12-15): Rất đơn giản. Bất cứ gì là trí về khổ, trí về nguồn gốc khổ, trí về sự diệt khổ, trí về con đường đưa đến diệt khổ, đây gọi là chánh kiến.

C: (43a, 11-13): "Thế nào là chánh tư duy? Khi vị thánh đệ tử tư duy về khổ là khổ.... đạt tâm giải thoát.Trong những lúc ấy, vị ấy quán sát, quán sát rộng rãi, quán sát một cách thích đáng. Vị ấy nghĩ về những gì cần suy nghĩ, tư duy những gì cần tư duy. Đây gọi là chánh tư duy."

P: (251, 16-18): Không hẳn như trên. Ở đây là ước vọng muốn từ bỏ dục vọng, ước vọng muốn tránh điều ác, ước vọng tiến đến vô hại.

C:(43a, 13-15): "Khi vị thánh đệ tử nghĩ về khổ là khổ.... tâm giải thoát, vào những lúc ấy, trừ bốn chánh ngữ, vị ấy từ bỏ những lời bất thiện, loại bỏ chúng, tẩy trừ chúng, nhổ tận gốc, không thực hành, không tu tập, không liên hệ đến chúng, đây gọi là chánh ngữ."

P:(251, 19-22): Cũng gần giống như trên, chỉ khác danh từ. Ở đây bản P nói từ bỏ nói láo, nói hai lưỡi, nói lời thô, nói lời phù phiếm, đây gọi là chánh ngữ.

C: (43a, 15-17): "Khi vị thánh đệ tử nghĩ về khổ là khổ, ...tâm giải thoát, vào những lúc ấy, trừ ba thân thiện hành, vị ấy tránh những hành vi bất thiện khác, gạt bỏ chúng, nhổ tận gốc, tẩy trừ chúng, không tu tập, không thi hành, không liên hệ đến chúng, đây gọi là chánh nghiệp."

P: (251, 23-25): Cũng một nhận xét như ở chánh ngữ.

C: (43a, 17-19): "Khi vị thánh đệ tử......tâm giải thoát, vào những lúc ấy, vị ấy không tầm cầu sai lạc, vị ấy không ham muốn cũng không hoan hỷ, không thi hành những ngón lừa bịp, tụng chú thuật, vị ấy không vướng vào tà mạng. Vị ấy chỉ tầm cầu y phục phù hợp với chánh pháp, không trái chánh pháp, chỉ tầm cầu thực phẩm, sàng tọa phù hợp với chánh pháp, không trái chánh pháp. Đây gọi là chánh mạng."

P:(251, 26-28): Rất đơn giản. Vị thánh đệ tử sau khi từ bỏ tà mạng, sinh sống với chánh mạng.

C: (43a, 19-20; 43b,1): "Khi vị thánh đệ tử...tâm giải thoát, vào những lúc ấy, vị ấy thi thố nỗ lực và phương tiện, tuyệt đối nỗ lực, bằng sức mạnh, tiến tới với sự hăng hái vững vàng, không từ bỏ, không thối lui, làm chủ tâm ý mình. Đây gọi là chánh phương tiện."

P: (251, 29-34; 252, 1-4): Không hẳn giống nhau. Ở đây bản P dùng danh từ chánh tinh tiến, trong khi bản C dùng chánh phương tiện. Ở đây vị Tỳ-kheo thi thố những ước muốn, nỗ lực, cố gắng, dụng tâm và hướng đến sự không sinh khởi những ác bất thiện pháp, nỗ lực hướng đến sự khởi lên thiện pháp, và nỗ lực duy trì, bảo tồn, tăng trưởng, lớn mạnh, phát triển, hoàn tất những thiện pháp đã sinh.

C: (43b, 1-3): "Khi vị thánh đệ tử... tâm giải thoát, vào những lúc ấy, khi có chánh niệm hướng về, chánh niệm chống lại, hoặc không có chánh niệm hướng về bất cứ gì, vị ấy chú tâm, hoàn toàn chú tâm, duy trì sự tỉnh giác, không quên lãng, đây gọi là chánh niệm."

P: (252, 5-9): Không giống như trên. Ở đây vị Tỳ-kheo trú quán thân nơi thân, quán thọ nơi cảm thọ, quán tâm nơi tâm, và quán các pháp nơi các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham ưu ở đời.

C: (43b, 3-5): Khi vị thánh đệ tử... tâm giải thoát,vào những lúc ấy, vị ấy chứng trú các thiền chứng, vững chắc, cố định, không lay chuyển, không xao lãng, nhất tâm, vững vàng, tập trung, đây gọi là chánh định.

P: (252, 10-17): Không hẳn giống. Ở đây bản P nói đến sự chứng đắc bốn thiền từ thiền thứ nhất đến thiền thứ tư.

Trong NC31, có những hỏi đáp về tám thánh đạo như sau:

C210: (vii, 84a, 4-5): Hỏi : Tám thánh đạo là gì? Đáp: Tám thánh đạo là chánh kiến cho đến chánh định, đây gọi là Tám thánh đạo.

P 44: (i, 300, 31-34): Gần giống. Bản P kể toàn thể tám thành phần.

C: (84a, 6-7): Hỏi: Tám thánh đạo có phải là pháp hữu vi không? Đáp: Tám thánh đạo là pháp hữu vi.

P:(300, 35-36; 301,1): Cũng giống như vậy.

C:(84a, 7-8): Hỏi: Có bao nhiêu nhóm? Đáp: Có ba nhóm - nhóm giới, nhóm định và nhóm tuệ.

P: không có.

C: (84a, 8-11): Hỏi: Tám thánh đạo bao gồm cả ba nhóm, hay ba nhóm bao gồm Tám thánh đạo? Đáp: Tám thánh đạo không bao gồm ba nhóm, mà ba nhóm bao gồm Tám thánh đạo. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, ba thành phần này được bao gồm trong nhóm thánh giới; chánh niệm, chánh định, hai thành phần này được bao gồm trong nhóm thánh định; chánh kiến, chánh nguyện, chánh phương tiện, ba thành phần này bao gồm trong nhóm thánh tuệ. Đây là lý do Tám thánh đạo không bao gồm ba nhóm, nhưng ba nhóm bao gồm Tám thánh đạo.

P:(301, 1-11): Có một điểm khác. Bản P bao gồm chính tinh tấn trong nhóm định, trong khi bản C bao gồm chánh phương tiện trong nhóm tuệ. Phần còn lại gần giống nhau.

Như vậy, về Bát chánh đạo, chỉ có một sự khác nhau chính yếu giữa hai bản C và P, đó là sự phân loại của bản C về chánh phương tiệnthuộc nhóm tuệ, trong khi bản P đặt chánh tinh tấnvào nhóm định. Còn về cách dịch của bản C thành "chánh phương tiện", đây là một lối dịch hơi xưa, những nhà phiên dịch về sau chọn danh từ "chánh tinh tiến", và danh từ này dịch đúng nghĩa tiếng Pàli.

2. Diệt trừ các triền cái:

NC 23, 28, 68 nói đến sự loại trừ năm triền cái với cách gần giống nhau.
Trong NC 23, được nói như sau:

C146: (vi, 79b, 6-9): "Sau khi hoàn tất tu tập thánh giới, sau khi đã tu tập sự hỷ túc, điều phục căn, chánh niệm tỉnh giác khi đi ra đi vào, vị Tỳ-kheo lại độc cư, viễn ly, tại một nơi nhàn tịnh hay dưới gốc cây, hoặc ở một nơi thoáng khí và yên tĩnh, trên mỏm núi hay trong hang đá, giữa trời hay trên một đống rơm, hoặc vị ấy đi đến một khu rừng hay một nghĩa địa. Vị ấy sau khi đi đến khu rừng, hay dưới gốc cây, một nơi trống vắng, trải tọa cụ ngồi kiết già với thân thẳng, nguyện chân chính, với tư tưởng khéo kiểm soát, không tán loạn, vị ấy diệt trừ tham, với tâm không tranh chấp, vị ấy thấy những tài sản vật dụng của người khác mà không ham muốn đem về cho mình, thanh lọc tâm khỏi tham lam. Cũng vậy với sân, hôn trầm, trạo cử, vị ấy đã diệt trừ nghi, vượt qua do dự, hướng đến các thiện pháp, vị ấy không nghi ngờ, thanh lọc tâm khỏi hoài nghi."

P27: (i, 181, 9-24): Đơn giản hơn. Nó bỏ: khi đi ra đi vào tại một nơi thoáng khí và yên tĩnh, trải tọa cụ, với chính nguyện, với tư tưởng khéo kiểm soát, không xao lãng, vị ấy diệt trừ tham, tâm không tranh chấp, vị ấy thấy những tài sản và vật dụng của người khác mà không tham đem về cho mình. Bản P thêm: khi đi khất thực về ăn xong; vị ấy giữ chánh niệm trước mặt.

Năm triền cái giống nhau trong hai bản; nhưng trong khi bản C chỉ nhắc đến bốn triền cái còn lại một cách rất vắn tắt, thì bản P cho nhiều chi tiết hơn.

3. Bốn thiền sắc giới:

Bốn thiền thuộc sắc giới được đề cập trong NC 5, 7, 21, 23, 25, 28, 30, 31, 32, 37, 42, 43, 44, 64, 65, hoặc vắn tắt hoặc dông dài.
Trong NC 23, những pháp ấy được nói đến như sau:

a) Sơ thiền:

C146: (vi, 79b, 9-10): "Vị Tỳ-kheo sau khi diệt trừ năm triền cái, diệt trừ tâm lỗi lầm và liệt tuệ, tránh xa dục, các bất thiện pháp, vị ấy chứng và trú sơ thiền đầy đủ tầm, tứ, hỷ, lạc do ly dục sinh."
P27:(i, 181, 25-28): Gần giống.

P: có tầm = C: hữu giác, nghĩa là có ý thức, có nhận thức; những dịch giả về sau dùng hữu tầm, nghĩa là có tra tầm.

P: có tứ = C: hữu quán, nghĩa là có tư duy quán sát; những dịch giả về sau dùng hữu từ, nghĩa là tư tưởng đang tra tầm.

b) Thiền thứ hai:

C: (79b, 10-12): "Sau khi bỏ giác và quán, nội tâm tịch tĩnh, nhất tâm, vị ấy chứng và trú thiền thứ hai, không giác không quán, có hỷ và lạc do định sinh."
P:(181, 32-35): Giống như vậy.

c) Thiền thứ ba:

P: (79b, 13-14): "Vị ấy từ bỏ hỷ và lạc, trú xả, không khao khát, với chánh niệm, chánh trí, thân cảm thọ lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, vị ấy chứng và trú thiền thứ ba."
P: (182, 2-6): Gần giống. Hai tiểu dị: bản P bỏ: không khao khát. C: lạc trú = P: sukhavihàrì.

d) Thiền thứ tư:

C: (79b, 14-15): "Vị ấy sau khi xả lạc, xả khổ, diệt hỷ và ưu, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh."
P: (182, 10-14): Giống nhau.

Trong NC30, có một đoạn ba câu hỏi đáp chỉ có trong bản P, đề cập sơ thiền thuộc sắc giới. Hai câu hỏi đáp đầu cũng có trong bản C, nhưng trong NC31, P44: (i, 294, 24-28): Hỏi: Sơ thiền là gì? Đáp: Khi một vị Tỳ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, thì vị ấy chứng và trú sơ thiền với giác, quán, hỷ và lạc do ly dục sinh.

P: (i, 294, 28-32): Hỏi: Sơ thiền có mấy thiền chi? Đáp: Sơ thiền có năm thiền chi. Khi một Tỳ-kheo đạt đến sơ thiền, thì có tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.

P: (i, 294, 32-37; 295, 1-4): Hỏi: Sơ thiền từ bỏ bao nhiêu pháp, có được bao nhiêu pháp? Đáp: Ở sơ thiền, năm pháp được đoạn trừ, và năm pháp được chứng đắc. Đối với Tỳ-kheo nhập sơ thiền, thì tham, sân, hôn trầm, trạo cử, nghi, được trừ diệt và khởi lên tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.

Trong NC37, các thiền thuộc sắc giới được kể như sau:

C217: (vii, 95a, 6-8): Nói đến sự chứng đắc bốn thiền thuộc sắc giới bởi một vị thánh đệ tử trú trong các thiền này, quán pháp phù hợp với pháp. Sau khi trú bốn thiền, quán pháp như pháp, vị ấy hoặc đạt đến lậu tận, hoặc nếu sự trừ diệt lậu hoặc chưa được hoàn toàn vì có tham ái, hoan hỷ trong pháp này, vị ấy sẽ đoạn trừ năm hạ phần kết sử và tự nhiên được hóa sinh vào trong cõi này, và từ đó vị ấy sẽ chứng Niết-bàn, vị ấy đắc quả Bất hoàn.

P52: (i, 349, 29-30; 350, 351, 1-17): Gần giống như trên. Bốn thiền được mô tả dài dòng như thường lệ chứ không ngắn gọn như trong bản C. Sau khi chứng đắc một thiền, vị Tỳ-kheo nghĩ rằng thiền ấy do suy tư tác thành, và bất cứ gì được tạo tác, do suy tư tác thành đều vô thường và phải hoại diệt. Khi an trú trong điều này, vị ấy đạt đến lậu tận và nếu không, do tham ái, hoan hỷ đối với pháp này, vị ấy sẽ đạt đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử và tự nhiên hóa sinh, nhập Niết-bàn tại đấy, không trở lui đời này.

Tất cả những đoạn kinh trên cho chúng ta thấy rằng về phương diện các thiền chứng, không có khác nhiều giữa hai bản dịch.

4. Bốn phạm trú hay bốn vô lượng:

Những pháp này được đề cập trong NC số, 18, 21, 24, 25, 29, 36, 37, 63, 64, 82, 98.
Chúng ta chọn NC6 để khảo sát tỉ mỉ những pháp này.

C93: (vi, 13a, 15-17): "Vị Tỳ-kheo trú, biến mãn một phương với tâm từ, cũng vậy phương thứ hai, thứ ba, thứ tư, bốn phương trung gian, trên, dưới, biến mãn cùng khắp, với tâm câu hữu với từ, không trói buộc, không hận, không sân, không tranh, vô cùng quảng đại, lớn rộng, vô lượng, biến mãn tâm từ khắp thế giới, vị ấy khéo tu tập và an trú tâm từ. Cũng vậy với bi, hỷ và xả...".

P7:(i, 38, 20-30): Gần giống. C: bốn phương trung gian = P: tiriyam. C: không trói buộc, không hận, không sân, không tranh = P:averena abyàbajjhena - không hận thù, không ác ý. C: vô cùng quảng đại, lớn rộng, vô lượng = P: gần giống, bỏ: vô cùng. C: vị ấy khéo tu tập = P: không có.

Cả hai bản C và P đều đồng ý rằng sự tu tập bốn vô lượng sẽ đưa người ta tái sinh vào cõi Phạm thiên như được thấy trong NC63:

C27: (v, 34b, 1-5): Thượng tọa Xá-lợi-tử giảng bốn phạm trú cho Bà-la-môn Đà Nhiên; sự thực hành các pháp này sẽ đưa đến sự nhổ tận gốc tham dục và sau khi chết sẽ đưa đến tái sinh ở cõi trời Phạm thiên.

P97: (ii, 195, 1-17): Gần giống. Ở đây Thượng tọa Xá Lợi Phất giảng cho Bà-la-môn Dhànanjàni về bốn phạm trú được xem là con đường cộng trú với Phạm thiên.

Sự tu tập bốn vô lượng thường đặt giữa sự tu tập bốn thiền sắc giới và sự tu tập bốn thiền vô sắc, như được thấy trong NC37, kinh C217: (vii, 95a,8-13) và P52: (i, 351, 18-36; 352,1-2). Nhưng trong NC25, 21, 64, trong khi bản C trung thành với truyền thống này, nghĩa là, để sự tu tập bốn vô lượng ở giữa sự tu tập các thiền sắc giới và các thiền vô sắc giới, thì bản P không theo.

Đôi khi sự tu tập bốn vô lượng được đặt ngay trước sự chứng đắc quả A-la-hán, do vậy ngụ ý rằng sự tu tập bốn vô lượng này có thể đưa đến quả A-la-hán, như được thấy sau đây:

C183: (vii, 33b, 17-20): "Vị ấy nghĩ, bất cứ tư tưởng gì, thô hay tế, nổi lên và biến mất, vị ấy như thật biết rõ. Khi biết rõ như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Khi giải thoát, vị ấy biết mình đã giải thoát. Sanh đã tận; đời sống phạm hạnh đã được hoàn tất; việc cần làm đã làm xong; không còn sinh trở lại. Tri kiến ấy đúng như thật."

P7: (i, 38, 31-36): Bản P sau khi đề cập bốn phạm trú còn nói đến sự chứng đắc A-la-hán quả, với tri kiến về idam(A-la-hán quả), về hìnam(ô nhiễm, nghĩa đen là thấp kém), và panìtam(phương pháp diệt trừ ô nhiễm, nghĩa đen là thù thắng). Một tri kiến như vậy đưa đến sự tận trừ ba lậu hoặc, sự chấm dứt sinh, sự an lập đời sống phạm hạnh, sự hoàn tất công việc và diệt trừ tái sinh.

Như vậy, nghiên cứu tỷ giáo về sự tu tập bốn vô lượng trong hai bản dịch cho thấy sự gần giống nhau giữa hai truyền thống mà các bản kinh ấy tiêu biểu. Nhưng truyền thống C dường như thích pháp tu này hơn truyền thống P. Khuynh hướng này, một khuynh hướng đã tiềm tàng trong những bản kinh cổ của Phật giáo Sanskrit, có thể giải thích sự đặt nặng tâm từ bi của các nhà Đại thừa, những người đặt từ bi ngang hàng với trí tuệ, và nhấn mạnh việc ăn chay.

5. Bốn thiền vô sắc:

Sự tu tập bốn thiền vô sắc được đề cập trong NC 21,25,30,37,42,67,75.
Trong NC42, sự tu tập này được đề cập như sau:

C205:(vii, 77a, 12-18): "Khi ấy, nhờ vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt trừ tất cả chướng ngại tưởng, không tác ý các tưởng, vị ấy chứng trú Không vô biên xứ... Sau khi vượt qua Không vô biên xứ, vị ấy chứng trú Thức vô biên xứ ... Sau khi vượt qua Thức vô biên xứ, vị ấy chứng Vô sở hữu xứ ... Khi cảm thọ lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc, vị ấy quán sát cảm thọ ấy là vô thường, vị ấy quán sát sự sinh diệt, quán ly dục, quán diệt, quán đoạn tận, quán từ bỏ. Sau khi quán những cảm thọ ấy là vô thường, quán sự sinh diệt của chúng, sau khi quán vô dục, quán diệt, quán đoạn tận, quán từ bỏ, vị ấy không phải sinh lại vào cuộc đời này. Vì không còn phải tái sinh vào đời này, vị ấy sẽ không có sợ hãi, do không sợ hãi, vị ấy nhập Niết-bàn. Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa, vị ấy biết như thật."

P64:(i, 436, 18-26; 437, 1-6): Gần giống. C: Khi ấy nhờ vượt qua mọi sắc tưởng, nhờ tận trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý tất cả tưởng, vị ấy chứng trú không vô biên xứ = P : Bhikkhu sabbaso rùpa sađđànam samatikkamà patigha sađđàna atthagamà nànattasađđàna amanasikàrà ananto àkàso ti àkàsanađcàyatanam upasampajja viharati. Như vậy cũng giống như bản C. Ở đây pháp quán có hơi khác. Vị ấy quán bất cứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức nào cũng là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như một vật xấu xa, một ách vận, xem là xa lạ, là hư hỏng, là trống rỗng, không tự ngã, vị ấy không để tâm đến các pháp này, tập trung vào bất tử giới, nghĩ rằng: "Đây là thiện, đây là thù thắng, sự tịnh chỉ tất cả hành, sự diệt trừ mọi chấp thủ, sự dập tắt khát ái, ly dục, diệt, Niết-bàn". Nếu vững trú ở đây, vị ấy sẽ đạt đến sự tận trừ lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến lậu tận, do tham ái pháp ấy, do thích thú trong pháp ấy, thì nhờ diệt trừ năm kiết sử trói buộc vào hạ giới, vị ấy sẽ hóa sinh và từ đấy sẽ đạt Niết-bàn, không còn trở lui đời này.

Ở đây ta nhận thấy bản P và C bỏ cảnh giới thứ tư là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì cảnh giới này được xem gần như là một chướng ngại cho giải thoát tối hậu, và vì đề tài của kinh này chỉ giới hạn vào sự từ bỏ năm hạ phần kiết sử.

Thông thường, bản C mô tả sự tu tập bốn thiền dưới hình thức ngắn gọn, trong khi bản P thì đề cập đầy đủ tất cả bốn thiền, như được thấy trong NC 25:

C185: (vii, 37b, 2-5): "Chúng ta đã vượt qua các tưởng về hình sắc cho đến sự chứng đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ và trú trong đó."

P31: (i, 208, 31-37): Gần giống. Ở đây bản P giải thích đầy đủ bốn thiền vô sắc giới.

Nhận xét:Như vậy, về bốn thiền vô sắc, không có nhiều dị biệt giữa hai bản kinh.

6. Diệt tận định và vô tưởng định:

Sau khi tu tập bốn thiền vô sắc, bản P thường nói đến một định khác gọi là diệt thọ tưởng, định này thường bị bỏ trong bản C, như được thấy trong P66, kinh Ví dụ con chim cáy: (i, 456, 3-6) và trong P113, kinhChân nhân: (iii, 45, 1-5).
Trong NC30 và 31, có một loạt hỏi đáp liên hệ đến Diệt tận định và Vô tưởng định.

C211:(vii, 86b, 4-6):

H: Gì là sự khác biệt giữa cái chết và nhập diệt thọ tưởng định?

Đ: Trong sự chết, thọ mạng đã tắt, hơi ấm đã dứt, và các giác quan đều hư hoại. Nhưng nơi Tỳ-kheo nhập diệt định, thọ mạng chưa tắt, hơi ấm chưa dứt, và các căn chưa hư hoại.

P43:(i, 296,11-23) :

H: Gì là sự khác nhau giữa một vật đã chết và Tỳ-kheo nhập diệt thọ tưởng định?

Đ: Nơi một người chết, thân hành chấm dứt, lắng xuống, ý hành chấm dứt, lắng xuống, thọ mạng đã tắt, hơi ấm đã nguội lạnh, các căn hư hoại. Về Tỳ-kheo nhập định diệt thọ tưởng, thân hành đã chấm dứt, ngữ hành vị ấy chấm dứt, lắng xuống, ý hành vị ấy chấm dứt, lắng xuống, nhưng thọ mạng không tắt, hơi ấm không nguội lạnh, các căn còn sáng.

C: (vii, 86b, 6-8):

H: Gì là sự khác nhau giữa nhập diệt định và nhập định vô tưởng?

Đ: Khi vị Tỳ-kheo nhập diệt định, thì thọ, tưởng đã tắt. Khi vị Tỳ-kheo nhập định vô tưởng, thì thọ và tưởng chưa tắt.

P: không có.

C: (vii, 86b, 8-11) :

H: Gì là khác nhau giữa người xuất diệt định và xuất vô tưởng định?

Đ: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, vị ấy không nghĩ như sau: "Ta đang xuất diệt định." Khi một Tỳ-kheo xuất khỏi định vô tưởng, vị ấy nghĩ như sau: "Ta có tưởng, ta không tưởng."

P: không có.

C:(vii,86b,11-12):

H: Khi một Tỳ-kheo nhập diệt định, vị ấy từ bỏ pháp nào trước, thân hành, ngữ hành hay ý hành?

Đ: Khi một Tỳ-kheo nhập diệt định, trước hết vị ấy từ bỏ thân hành, kế đến là ngữ hành, và cuối cùng là ý hành.

P: Không có ở đây, nhưng có trong P44: (i,301,36, 362,1-5). Bản P nói rằng ngữ hành chấm dứt trước, rồi đến thân hành, rồi đến ý hành.

C: (vii,86b,12-14):

H: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, pháp nào khởi lên trước, thân hành, ngữ hành hay ý hành?

Đ: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, ý hành khởi lên trước, rồi đến ngữ hành, và cuối cùng là thân hành.

P: Không có ở đây, nhưng có trong P44: (i,302,13-18): Ở đây bản P nói rằng, ý hành xuất hiện trước, rồi thân hành, rồi ngữ hành.

C:(vii, 86b, 14-16) :

H: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, có bao nhiêu loại xúc vị ấy cảm xúc đầu tiên?

Đ: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, vị ấy cảm ba loại xúc: vô tham, vô thực chất và vô tướng.

P: Không có ở đây, nhưng có trong P44: (i,302,18-22). Ở đây bản P nói đến không xúc, rồi vô tướng xúc và vô nguyện xúc.

Trong NC31, lại có một loạt hỏi đáp liên hệ đến hai loại định này:

C210: (vii, 84b,5-7):

H: Khi một người nhập diệt định, vị ấy có nghĩ rằng ta đang nhập diệt định?

Đ: Khi một người nhập diệt định, vị ấy không nghĩ ta đang nhập diệt định. Do sự tu tập và luyện tâm của vị ấy nên đưa đến sự chứng đắc ấy.

P44: (I,301, 30-36): Tương tự:

H: Thế nào là sự chứng đắc diệt thọ tưởng?

Đ: Vị Tỳ-kheo chứng đắc diệt thọ tưởng không nghĩ rằng ta sẽ chứng đắc diệt thọ tưởng, hoặc ta đang chứng diệt thọ tưởng, hoặc ta đã chứng diệt thọ tưởng. Do vị ấy tu tập về trước nên đưa đến sự chứng đắc ấy.

C:(84b,7-9):

H: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, vị ấy có nghĩ ta xuất diệt tận định?

Đ: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt tận định, vị ấy không nghĩ ta xuất diệt tận định. Nhưng do thân thể và sáu giác quan tương ưng với mạng, vị ấy xuất khỏi định ấy.

P:(302, 6-13): Cũng sự khác nhau như đã thấy trong câu hỏi trước. Một điểm khác nữa: C nói: nhưng do thân thể này... = P: do trước kia vị ấy đã tu tập tâm theo cách ấy nên đưa đến trạng thái này.

C:(84b, 9-10):

H: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt tận định, tâm vị ấy thích thú gì, thiên về cái gì, khuynh hướng về gì?

Đ: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt tận định, tâm vị ấy thích thú việc đi, thiên về việc đi, khuynh hướng việc đi.

P: (302, 22-27): Tương tự:

C: độc cư = P: viễn ly.

Nhận xét:Như vậy, về phương diện định diệt thọ tưởng, giữa hai bản C và P không khác nhau nhiều. Mặc dù bản C dùng danh từ định diệt tận, bản P diệt thọ tưởng, định nghĩa cũng giống nhau. Về sự khác nhau giữa hành nào khởi trước hay diệt trước, thật khó mà phân biệt giữa thân hành và ngữ hành, vì nếu miệng cử động để thốt lên một âm thanh, thì điều này bao hàm cả ngữ hành và thân hành. Bởi thế sự khác nhau giữa hành nào khởi trước hay diệt trước trong hai bản C và P không phải là một điều quan trọng.

7. Năm thắng trí hay thần thông:

Năm thắng trí được đề cập trong NC5, 25, 74.
Như trong NC74, các pháp được nói đến như sau:

C81:(v, 114b, 15-17): "Vị Tỳ-kheo có thể đắc như ý túc, thiên nhĩ, tha tâm thông, túc mạng thông, và sanh tử trí; rồi với sự đoạn trừ các lậu hoặc, vị ấy tự mình chứng đắc ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chứng quả A-la-hán."

P119: (iii, 98, 2-28): Tương tự. Nhưng ở đây bản P nói dông dài như thường lệ với cả năm thắng trí.

Trong NC5, vị Tỳ-kheo lập nguyện đắc năm thần thông như được thấy sau đây:

C105: (vi, 29b, 12-13): "Mong ta chứng đắc các thần thông, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, sanh tử trí."

P6: (i, 34, 10-37): Ở đây bản P cũng đề cập vấn đề này nhưng chia thành sáu nguyện, thứ 12 là thần túc, thứ 13 là thiên nhĩ, thứ 14 là tha tâm, thứ 15 là túc mạng, 16 là thiên nhãn và 17 là lậu tận.

a) Thần túc thông:

Trong NC26, thần thông này được nói như sau:
C184: (vii,35a, 14-19): "Vị Tỳ-kheo có đại thần thông, đại công đức, đại oai thần lực, làm chủ vô số thần thông, thi triển vô số thần thông, từ một vị ấy biến thành nhiều, từ nhiều vị ấy trở thành một; vị ấy trở thành một người có tri kiến; vị ấy đi ngang qua vách đá, qua tường không bị chướng ngại như ngang qua hư không; vị ấy độn thổ và trồi lên như đi trong nước; vị ấy đi trên nước không chìm như đi trên đất; vị ấy bay trên trời và ngồi xếp bằng như con chim. Những vật có đại oai thần như mặt trăng, mặt trời, vị ấy với bàn tay sờ chạm thân của mặt trời mặt trăng cho đến phạm thiên giới."

P32: (ii,214, 18-28): Ở đây bản P hoàn toàn khác, khi đề cập sự trả lời của Trưởng lão Ca Chiên Diên về luận thuyết (A-tỳ-đàm). Nhưng trong P108 Gopakamoggallana (tập 3), thì tương đương với bản C, nhưng bỏ: có thần thông lớn, công đức lớn, phước lớn, đại oai thần, làm chủ vô số thần thông và thi triển vô số thần thông; từ một biến thành một, có tri kiến.

C: Vị ấy đi xuyên qua đá, qua tường không chướng ngại như qua hư không = P: Hiện rõ hoặc không ai thấy, vị ấy đi ngang qua tường, qua thành, qua núi như ngang qua hư không.

C: thần thông lớn, công đức lớn, phước lớn, đại oai thần = P: có thần lực như vậy, đại oai thần như vậy. Bản P thêm : vị ấy thi triển năng lực bằng thân thể của mình.

b) Thiên nhĩ:

Trong NC74, C81: (v,114b, 15-17) chỉ nói thiên nhĩ trong khi P 19 nói: "Với thiên nhĩ thuần tịnh siêu nhân, vị ấy nghe được tiếng của chư thiên và loài người, ở xa cũng như gần."

c) Tha tâm:

Lại nữa trong NC74, C81: (v, 114b, 15-17) chỉ nói tha tâm thông trong khi P 119 nói dài như sau: "Với tâm mình vị ấy biết tâm của những hữu tình khác, của người khác. Tâm có tham vị ấy biết tâm có tham; tâm không tham vị ấy biết tâm không tham; cũng vậy, có sân, không sân, có si, không si, có định, không định, quảng đại, không quảng đại, hữu thượng, vô thượng, tập trung, không tập trung, giải thoát, không giải thoát."

d) Túc mạng trí:

Trong NC43, trí biết đời trước được nói như sau:
C194: (vii, 51b, 14-17): "Vị ấy với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không lỗi lầm, không ưu não, nhu nhuyến, tập trung, không giao động, vị ấy nhớ lại những đời trước, sau khi thực chứng với trí tuệ, vị ấy có một đời như thế, dáng vẻ như thế, nhớ lại vô số đời trước, một đời, hai đời, trăm đời, ngàn đời, thành kiếp, hoại kiếp, vô số thành và hoại kiếp, những hữu tình kia có tên như vậy, chúng đã trải qua những đời trước như vậy: Ta sinh ra tại đấy với tên như vậy, họ như vậy, dòng dõi như vậy, ăn uống như vậy, thọ khổ lạc như vậy, thọ mạng như vậy, mạng chung như vậy; sau khi mạng chung tại đấy ta đã tái sinh ở đây. Khi tái sinh ở đây ta đã có tên như vậy, họ như vậy, ăn đồ ăn uống như vậy, thọ khổ lạc như vậy, thọ mạng như vậy, sau khi sống lâu như vậy, đã chết như vậy." Đoạn kinh C này có thể so sánh với kinh P trong NC28 :

P39: Tương tự. Về những tĩnh từ chỉ tâm, bản P thêm pariyodàte-"thuần tịnh", kammaniye-"dễ sử dụng" .

C : không sầu não = P: không cấu uế.

C: với tâm không dao động = P:ànenjjappatte. P bỏ: sau khi chứng đắc với trí tuệ, vị ấy có một đời như vậy, dáng dấp như vậy.

C: vị ấy nhớ vô số đời trước = P: nhớ lại nhiều đời trước.

C: một đời, hai đời, trăm đời, ngàn đời = P: một đời, hai đời, ba, bốn, năm, mười, 20, 30 40,50, 100, 1000, một trăm ngàn đời. Bản P bỏ: sống lâu như vậy, đã chết như vậy, nhưng thêm: với tất cả đại cương và chi tiết.

e) Thiên nhãn hay sinh tử trí:

Trí này được đề cập trong NC26,28,38,43. Như trong NC43, trí này được nói như sau:
C194: (vii, 51b, 18-20): "Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không lỗi lầm, không lo lắng, nhu nhuyến, tập trung, không dao động, vị ấy chứng đắc sinh tử trí. Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, vị ấy thấy những chúng sinh này chết và tái sinh, đẹp, xấu, thanh, thô, hạnh phúc hay bất hạnh tùy theo nghiệp của chúng. Vị ấy thấy phù hợp với chân lý. Nếu những chúng sinh này làm các ác hành về thân, lời, ý, phỉ báng các bậc thánh, có tà kiến, theo tà hạnh; do những nghiệp này sau khi chết, chúng sẽ sanh vào các nơi đau khổ, vào địa ngục. Nếu những chúng sanh này thực hành các thiện hành về thân, lời, ý, không phỉ báng bậc thánh, có chánh kiến, chánh hạnh; do những nghiệp này sau khi chết, chúng sẽ sanh vào các thiện thú, cõi trời."

Đoạn kinh C này có thể so với đoạn P trong NC28:

P39: Tương tự, nhưng bỏ: vị ấy tu tập, chứng ngộ và chứng đắc nhờ trí, và thêm: vị ấy khuynh hướng tâm về. C: đẹp, xấu, thanh, thô, hạnh phúc, bất hạnh tùy theo nghiệp của chúng = P: hìne panìte suvanne dubbanne sugate duggate yathàkammùpage (hạ liệt, cao sang, đẹp, xấu, sanh thiện thú, ác thú, tùy theo hành nghiệp). Bản P bỏ: vị ấy thấy như thật. C: có tà hạnh = P: làm ác nghiệp do tà kiến. C: trong đọa xứ, địa ngục = P: cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C: có chánh hạnh = P: sammàditthikammasamàdànà.

Nhận xét:Như vậy nghiên cứu tỷ giảo về năm thắng trí giữa hai bản C và P cho ta thấy không có gì khác nhau nhiều giữa hai truyền thống, trừ thêm bớt một vài tĩnh từ hoặc hơi khác.

Chúng ta có thể nói rằng về phương diện định uẩn, quan điểm của hai bản C và P gần giống nhau. Ngoại trừ vài dị biệt trong cách trình bày bốn niệm xứ, cả hai bản dường như rút tài liệu từ một nguồn chung, và điều này giải thích sự tương đồng giữa hai bản dịch C và P khi nói về định uẩn.

CHƯƠNG III : VAI TRÒ CÁC NHÂN VẬT TRONG KINH
- NHỮNG CÁCH THUYẾT PHÁP

Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu so sánh 98 kinh, đề cập vai trò của các nhân vật khác nhau trong những kinh này cũng như những cách thuyết pháp. Ở đây chúng ta chỉ giới hạn việc nghiên cứu vào thái độ, oai nghi cử chỉ của những nhân vật trong kinh, còn giáo lý trong đó sẽ được đề cập rộng rãi trong những chương kế tiếp.
Các kinh có thể phân loại thành tám cách thuyết:
1- Phật thuyết pháp không có lý do nào rõ rệt;
2- Phật thuyết pháp để điều chỉnh một tà kiến của đệ tử hay người khác;
3- Phật thuyết pháp vắn tắt rồi một trong những đệ tử của Ngài khai diễn;
4- Phật thuyết pháp để đối đáp với những tông phái phi Phật giáo;
5- Phật thuyết pháp cho những Tỳ-kheo đệ tử;
6- Phật thuyết pháp cho các đệ tử cư sĩ của Ngài hoặc cho những người khác;
7- Những đệ tử của Phật tụ họp để bàn luận Phật pháp;
8- Một trong những đệ tử của Phật giảng toàn thể kinh.

1. Đức Phật thuyết pháp không có lý do rõ rệt:

Đôi khi đức Phật gọi các Tỳ-kheo đến rồi giảng pháp không có lý do rõ rệt cũng không do một cơ hội đặc biệt nào. Ở đây những người nghe phần lớn là Tỳ-kheo, tên của họ không được kể ra. Trong số 98 kinh NC, có 22 kinh được xếp vào loại này: NC 1, 2, 8, 9, 13, 14, 16, 17, 21, 28, 29, 32, 33, 34, 70, 71, 73, 75, 84, 85, 91, 93.

2. Đức Phật thuyết pháp để điều chỉnh một tà kiến nơi những đệ tử hoặc người khác:

Đôi khi một vài đệ tử Phật có tà kiến. Những Tỳ-kheo bạn cố sửa đổi nhưng không thành công, bởi vậy vấn đề được đưa đến trước đức Phật và Ngài triệu tập những người có lỗi để quở trách và nêu lên những lỗi lầm của họ. NC số 19, 27, 35, 47 thuộc về loại này.
Trong NC 27, C201, kinh Trà đế,nói đức Phật hỏi các Tỳ-kheo trước, rồi quở trách Tỳ-kheo Trà Đế (Ch'a-ti), và vị này hối hận. Trong P38, Ái tận đại kinh,Tỳ-kheo Sàti hối hận trước, rồi các Tỳ-kheo khác đáp câu hỏi của Phật. Bản C thêm: "Đức Phật thuyết kinh này xong, ba vạn thế giới chấn động ba lần."

Trong NC 35, một vị Phạm thiên trên cõi trời có tà kiến rằng cõi Phạm thiên là trường cửu. P49 thêm tên của vị Phạm thiên ấy là Baka. Trong C78, Phạm thiên thỉnh Phật, Phật biến mất khỏi Xá Vệ, Shêng-lin, Kei-ku-tu để đi đến cõi Phạm thiên. Trong P49, đức Thế tôn biến mất từ rừng Subhaga tại Ukkatthïà và hiện ra trong cõi Phạm thiên. Bản C nói khi đức Phật nhận ra Ác ma (Màra), thì Ác ma bị thua và biến mất tại chỗ, nhưng bản P ghi rằng Phật nêu lên cho Ác ma thấy rằng có thể Phạm thiên (Brahmà) và quyến thuộc của ông ta ở trong tầm tay của Ác ma, nhưng Phật thì không. Sự đấu phép thần thông của Phật và Ác ma cũng không giống nhau. Trong bản C, Phạm thiên dùng tất cả năng lực thần thông để cố ẩn nấp chỗ này chỗ kia nhưng đức Thế tôn đều thấy được ông ta, bởi thế ông không thể trốn mà phải trở lại trong Phạm thiên giới. Trong bản P, Phạm thiên Baka không thể biến mất trước mặt đức Phật. Trong bản C, Phật phóng hào quang chiếu khắp các Phạm thiên giới, và ẩn trong đó, làm cho Phạm thiên và quyến thuộc chỉ có thể nghe Ngài nói mà không thể trông thấy Ngài. Trong bản P, khi đức Phật biến mất, Ngài làm cho Phạm thiên, tùy tùng (Brahmaparisà) và quyến thuộc (Brahmapàrisajja) không trông thấy Ngài mà chỉ nghe Ngài nói bài kệ:

"Bị vướng vào hữu, ta đi tìm phi hữu.
Vì đã thấy nguy hiểm của hữu,
Ta không thích thú đối với hữu,
Và không dục hỷ trong đó."

Phạm thiên, tùy tùng và quyến thuộc của Phạm thiên sửng sốt kinh ngạc.

3. Phật thuyết pháp vắn tắt rồi một trong những đệ tử của Ngài khai diễn:

Tôn giả Xá-lợi-tử khai diễn lời Phật trong NC số 3, 95; Tôn giả Ca-chiên-diên (C:Chia-chan-yen; P: Mahàkaccàna) trong NC 15, 87, 92.
a) Tôn giả Xá-lợi-tử khai diễn:

Trong NC 3, C88, Cầu Pháp kinh,nói có nhiều đại đệ tử cư trú gần am tranh của Phật, như Tôn giả Xá-lợi-tử, Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà (A-na-lu-t'o), Lệ Việt (Li-yueh), A Nan, nhưng P3, Thừa tự Pháp,bỏ mục này. Trong bản C, đức Thế tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-tử hãy giảng rộng lời Ngài dạy vì đức Phật đau lưng cần nghỉ ngơi chút đỉnh. Đoạn Ngài gấp tư y Uất đa la tăng (C: Yu-to-lo-sêng; P: Uttarà-sanga) mà trải lên giường, cuộn tròn y Tăng già lê (C: Sêng-chia-li; P: Sanghàti) làm thành một cái gối và nằm xuống hông bên phải, hai ống chân xếp chồng lên nhau, thiền định về quang tướng với chánh niệm tỉnh giác và luôn luôn nghỉ đến lúc thức dậy (69). Nhưng bản P chỉ nói rằng bậc Thiện thệ (Sugata) từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá. Trong bản C, Thượng tọa Xá-lợi-tử yêu cầu các Tỳ-kheo giải thích lời dạy vắn tắt của Phật, và hai Tỳ-kheo cố trả lời nhưng không thỏa đáng. Trong bản P, không có lời vắn tắt của Phật và sự trả lời của các Tỳ-kheo, mặc dù Tôn giả Xá Lợi Phất cũng đặt câu hỏi ấy. Sau khi Tôn giả Xá-lợi-tử giải thích xong, đức Thế tôn đã bớt đau lưng, cảm thấy dễ chịu, bèn ngồi dậy khoanh chân kiết già và ca ngợi Tôn giả Xá-lợi-tử. Những chi tiết này không có trong bản P.

Trong NC số 95, bản C nói Tôn giả Xá-lợi-tử đọc một bài kệ tóm tắt bài giảng của Ngài, còn bản P bỏ bài kệ nhưng lập lại lời công bố của sự chuyển Pháp luân tại Ba La Nại, Chư thiên đọa xứ, vườn Nai, lúc mở đầu kinh.

b) Tôn giả Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) khai diễn:

Trong NC 15, đức Phật gặp một người gậy cầm tay tên Sakya muốn hỏi mục đích của giáo lý Ngài. Sự trả lời của đức Phật không làm ông ta thỏa mãn, ông ta không chấp thuận cũng không bác bỏ, đã cất cao đầu và bỏ đi. Trong bản P, bỏ câu "không chấp thuận không bác bỏ", nhưng thêm rằng "ông ta thụt lưỡi, nhíu mày tạo nên ba đường nhăn và tựa mình trên cây gậy". Trong bản C, chính đức Phật đưa ra ví dụ viên mật trong khi bản C lại nói là Tôn giả A Nan. Bản P bỏ chỗ nói Tôn giả A Nan đứng sau lưng đức Phật tay cầm phất trần. Bản P cũng bỏ lời đức Phật khích lệ các Tỳ-kheo ở cuối kinh.

Trong NC 87, Tôn giả San-mi-t'i(Samiddhi) đi đến suối nóng để tắm, khi tắm xong, ông ta gặp một vị tiên có dung sắc hoan hỷ đến đảnh lễ ngài và hỏi ngài có biết bài kệ Nhất dạ hiền giả (C: Pa-ti-lo-ti; P: Bhadde-karatta). Vị Tỳ-kheo nói không biết, vị tiên bảo rằng đức Thế tôn có biết bài kệ rồi khuyên Tỳ-kheo nên đi đến xin Thế Tôn giải thích. Rồi vị tiên đảnh lễ vị Tỳ-kheo, đi quanh ông ba vòng rồi biến mất. Bản Pali thêm rằng vị tiên chiếu sáng cả Tapodà với hào quang rực rở của mình nhưng bỏ qua chyện hỏi vị tỷ kheo về câu kệ và lời khuyên của vị tiên đi đến Thế Tôn. Bàn Pali chỉ đề cập rằng vị tiên khuyên vị tỷ-kheo nên học, tinh thông và ghi nhớ câu kệ đó ở trong lòng. Rồi vị tiên biến mất mà không có đảnh lễ và đi quanh vị tỷ-kheo ba vòng. Bản C nói tên của vị trời này là Chêng-tien, một vị binh tướng trong cõi trời 33, nhưng bản P bỏ chi tiết ấy.

4. Đức Phật thuyết pháp để đối phó các tông phái ngoại đạo :

Trong NC 39 và NC 65, đức Phật bác bỏ quan điểm của Ni Kiền Tử (Jainas); trong NC 6 và NC 61, 62, 64, Ngài bác bỏ lý thuyết và thực hành của những người bà la môn; và trong NC 10, 48, 50, 51, 52, Ngài đối phó với những du sĩ (paribbàjakas).
a) Đối phó với Ni Kiền Tử :

Trong NC 39, Ch'ang-k'u-hsing (Dìghatapassi), Ni Kiền Tử bện tóc có một cuộc đàm luận với Phật, trong đó ông ta trình bày lý thuyết của Ni Kiền Tử (Ch'in-tzu) về hình phạt và vai trò chính yếu của thân phạt trong bất cứ hành vi tội lỗi nào. Nhưng đức Phật trình bày lý thuyết của Ngài về nghiệp và vai trò chính yếu của ý nghiệp trong bất cứ tà hạnh nào. Ni Kiền Tử bện tóc thuật lại cuộc đàm thoại ấy cho thầy của mình (Ch'in-tzu) trước mặt Ưu Ba Ly (Yu-p'o-li). Trong khi ở bản P, Ưu Ba Ly (Upàli) lặp lại lời ca tụng của Ni Kiền Tử (Nàtaputta) tán dương Bện tóc (Dìgha-tapassi) và tỏ ý sẵn sàng đến đối chất với đức Phật, bản C thêm rằng Ưu ba ly cùng đi với 500 cư sĩ trong hội chúng. Ông ta chắp tay hướng về Ni Kiền Tử và hỏi Bện tóc có phải ông ta đã thực sự hạ Sa-môn Cồ Đàm (Ch'u-t'an) ba lần trong vấn đề này. Khi Bện tóc trả lời phải, Ưu Ba Ly nói : vậy thì ông ta cũng có thể đánh bại Sa-môn Cồ Đàm trong vấn đề này và kéo ông ta xuống. Khi ấy Ưu Ba Ly đến thách thức đức Phật, trước sự chấp thuận của vị thầy Ni Kiền Tử và trước sự sợ hãi, bất đồng của Bện tóc. Đức Phật với bốn ví dụ đã làm cho Ưu Ba Ly đổi ý và theo quan điểm của Ngài. Trong ví dụ thứ tư, khi đức Phật hỏi ai đã khiến cho những nơi thanh tịnh này trở thành thanh tịnh, theo bản C, Ưu Ba Ly im lặng một lát, và khi đức Phật hỏi lại một lần nữa, ông ta đã trả lời rằng, không phải ông muốn giữ im lặng, mà chính ông đang nghĩ đến một điều. Ông nghĩ rằng Ni Kiền Tử (Ni-chien) thật điên rồ, ngu si và đã lừa bịp ông ta trong một thời gian dài. Trong bản P, Ưu Ba Ly (Upàli) trả lời ngay rằng những khu rừng này Kandaka, Kàlinga, Mejjha Màtanga trở thành rừng là do những ý tưởng sân hận của những vị trông coi những khu rừng đó. Ở cuối bài kinh, bản C thêm rằng Ưu Ba Ly đạt đến Pháp nhãn ly trần vô cấu, còn Ni Kiền Tử hộc máu tươi, phải đi đến Po-ho (Pàvà) và bệnh chết ở đấy. Bản P bỏ chi tiết về cái chết của Ni Kiền Tử và chỉ nói ông ta hộc ra máu tươi.

b) Đối phó với cách tu và quan điểm của các bà la môn :

Trong NC 6, đức Phật bác bỏ tập tục tắm nước thiêng của những người bà la môn, được xem là để rửa sạch tội lỗi. Kinh C93,Thủy tịnh Phạm chí,nhắc đến bà la môn Thủy Tịnh (Shui-ching) ngay ở đầu kinh, trong khi P7, Ví dụ tấm vải,chỉ nói đến sự hiện diện của bà la môn Sundarika-bhàradvàja vào cuối bản kinh. Trong bản C, vị bà la môn ấy xin quy y Tam bảo và xin Phật nhận ông làm đệ tử. Nhưng trong bản P, Sundarika Bhàradvàja xin đức Phật cho ông được xuất gia và thọ đại giới. Khi lời yêu cầu của ông được chấp thuận, ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đã đắc quả A-la-hán.

Trong NC 61, kinh C151, Phạm chí A nhiếp hòa,nói rằng một số đông bà la môn tại Chu-sa-lo (Kosala) tụ tập trong giảng đường và đang bàn bạc lời công bố của Sa-môn Cồ Đàm (Ch'u-t'an) về sự thanh tịnh của bốn giai cấp, trong khi họ tuyên bố rằng chỉ có giai cấp bà la môn là cao nhất và thanh tịnh nhất. Họ chọn thanh niên bà la môn tên A Nhiếp Hòa (A-shê-ho-lo-yen-to) đến chất vấn đức Phật. Nhưng kinh P93, Assalàyana,nói rằng 500 bà la môn thuộc nhiều vùng khác nhau đến Xá Vệ vì một vài công việc, và họ chỉ nhắc đến lời công bố của Sa-môn Cồ Đàm về sự thanh tịnh của bốn giai cấp. Có thêm rằng thanh niên Assalàyanamới 16 tuổi, đầu tóc cạo. Trong bản C, thanh niên A Nhiếp Hòa nhận lời bằng cách im lặng, trong khi ở bản P, Assalàyana nói rằng quả thật Sa-môn Gotama nói phù hợp với pháp (dhamma), và thật khó mà tranh luận với người nào nói đúng pháp, và anh ta cũng không thể tranh luận với Sa-môn Gotama. Tuy thế anh ta cũng sẽ ra đi như được yêu cầu. Sau khi nghe những luận cứ của đức Phật, theo bản C, thanh niên A Nhiếp Hòa muốn đảnh lễ Phật nhưng hội chúng la lớn tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục. Đức Phật biết tâm họ nên bảo thanh niên hãy trở về chỗ ngồi, dạy rằng chỉ cần tâm anh ta vui mừng là đủ. Rồi đức Phật giảng pháp làm cho anh ta hoan hỷ, thích thú, phấn chấn. Bản P chỉ nói rằng Assalàyana thốt lên rằng thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, rồi xin đức Phật nhận mình làm đệ tử từ nay cho đến trọn đời.

Trong NC 64, kinh P 99, Subha,có thêm một cuộc gặp gỡ giữa Subha và bà la môn Jànussonì, bà la môn hỏi Subha từ đâu đến và hỏi về trí tuệ của Sa-môn Gotama. Sự trả lời và những lời ca tụng của Subha đã khiến bà la môn xuống khỏi chiếc xe bạch mã, trật vai áo, chắp tay hướng về đức Thế tôn và bảo rằng thật là lợi ích lớn, thật là tốt cho vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) xứ Kosala vì có Như lai (Tathàgata) sống trong vương quốc của nhà vua. Bản C bỏ cuộc gặp gỡ này.

c) Đối phó với các ngoại đạo khác :

Trong NC 10, theo kinh C 99, Khổ ấm, các Tỳ-kheo sau khi ngọ trai xong đã tụ họp tại giảng đường vì một vài công việc. Tại đây có một số lớn tín đồ ngoại đạo đến chất vấn họ. Trong kinh P13, Đại khổ uẩn, thì các Tỳ-kheo khi vào thành Xá Vệ (Sàvatthi) khất thực, thấy hãy còn sớm nên đến trú xứ của các du sĩ (paribbàjakas), và cuộc đàm luận đã xảy ra.

Trong NC48, Hsu-hsien-t'i(du sĩ Màgandiya) trông thấy đệm cỏ của Phật ngồi trong nhà bà la môn P'o-lo-p'o (Bhàradvàjagotta) thì rất khó chịu và lên án đức Phật là một người phá hoại (Huai-pai-ti: )(70) . Bà la môn Bà La Bà (P'o-lo-p'o) cảnh cáo du sĩ Hsu-hsien-t'ođừng có nói xấu đức Phật, nhưng du sĩ nói rằng ông cũng sẽ nói như vậy ngay trước mặt Sa-môn Cồ Đàm. Trong kinh C 153,Man nhàn đề, đức Phật lúc ấy đang ngồi thiền trong một ngôi rừng xa; với thiên nhĩ, Ngài nghe được lời ấy nên đi đến nhà Bà la môn Bà-la-bà kia trải tọa cụ ngồi kiết già. Khi bà la môn ra chào, đức Phật hỏi có phải thật ông ta có đàm thoại với du sĩ về đệm cỏ của Ngài không. Bà la môn nói ông muốn báo cho Phật biết nhưng Phật đã biết trước rồi. Ngay lúc ấy du sĩ đến, và cuộc đàm luận xảy ra. Bản P bỏ tất cả chi tiết Phật mang theo tọa cụ và trải ngồi, đẹp đẽ và rực rỡ như trăng sao; nhưng thêm rằng du sĩ Bhàradvàjagotta bị dao động lông tóc dựng ngược khi nghe nói đức Phật đã biết được tư tưởng của mình. Trong bản C, sau khi đức Phật giảng pháp, du sĩ đạt được Pháp nhãn ly trần vô cấu. Rồi ông ta xin Phật cho phép xuất gia học đạo và thọ giới Tỳ-kheo. Rồi đức Phật truyền giới cho ông ta, nói rằng: "Lành thay, Tỷ kheo, hãy sống đời sống phạm hạnh." Sau khi xuất gia làm tỷ-kheo, Hsu-hsien-t'i đắc quả A-la-hán. Bản P bỏ chi tiết du sĩ Màgandiya được Pháp nhãn; nhưng thêm sự tán thán của Màgandiya như thường lệ và xin quy y Tam bảo của ông ta. Ở đây cũng vậy, Màgandiya xin đức Phật cho ông ta thọ giới Tỳ-kheo. Phật bảo những người thuộc giáo phái khác cần trải qua bốn tháng thử thách, nhưng Phật biết rõ sự khác nhau giữa những con người, và Ngài đã cho phép Màgandiyaxuất gia làm Tỳ-kheo. Bản P cũng nói Màgandiya đắc quả A-la-hán nhưng với nhiều chi tiết hơn, và kết luận rằng Trưởng lão Màgandiya trở thành một vị A-la-hán nữa.

Trong NC số 52, Bệ Ma Na Tu (C: Pei-mo-na-hsiu; P: Vekhanassa) nói với đức Phật về dung sắc "vanna" tối thượng. (Danh từ Pàli vanna,dịch là dung sắc, được sử dụng ở đây với hai nghĩa, màu sắc và giai cấp xã hội, nhưng danh từ dung sắc trong Hoa ngữ thì rõ ràng không có hai nghĩa như thế). Nhưng đức Phật nêu lên sự trống rỗng của một quan điểm như vậy. Bản C thêm một đoạn trong đó Bệ Ma Na Tu tỏ thái độ hối hận im lặng hổ thẹn cúi đầu. Khi Bệ Ma Na Tu ca tụng sự giải thích của Phật, Phật ngăn ông lại, bảo rằng vì thuộc vào một quan điểm khác, ông ta không thể hiểu được lời giảng dạy của Ngài, Bệ Ma Na Tu phẫn nộ mạ lỵ đức Phật. Kinh Pali Vekhanassacũng tương tự nhưng bỏ chi tiết Phật ngăn lại. Rồi Phật dùng ba ví dụ (bản P chỉ có một) làm sáng tỏ giáo lý của Ngài và cuối cùng cảm hóa được Bệ Ma Na Tu. Ở đây bản C nói Bệ Ma Na Tu đắc Pháp nhãn vô cấu và xin Phật xuất gia. Sau khi xuất gia, ông nỗ lực tinh tiến và đắc quả A-la-hán. Trong bản P, Vekhanassa tán thán sự giảng dạy của Phật như thường lệ, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật nhận ông làm đệ tử tại gia.

5. Phật thuyết pháp cho đệ tử:

Có 28 NC rơi vào loại này:
- Giảng cho một Tỳ-kheo, NC 5;
- Cho một số Tỳ-kheo, NC 22,74;
- Cho Tôn giả La Vân (C: Lo-yun; P: Ràhula), NC 40;
- Cho Man Đồng Tử (C: Man-tun-tzu; P: Màlunkyaputta), NC 41,42;
- Cho A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anurudha), Nan Đề (C: Nan-t'i; P: Nandiya), Kim Tỳ La (C: Chin-p'i-lo; P: Kimbila), NC 25,45,83;
- Cho Ma-ha-nam (Mahànàma), NC 11;
- Cho Mou-li-p'o-ch'un-na(Moliyaphagguna), NC 18;
- Cho Bạt-đà-hòa-lợi (C: Po-t'o-ho-li; P: Bhaddàli), NC 43;
- Cho Ưu-đà-di (C: Wu-t'o-i; P: Udàyì), NC 44;
- Cho A Nan, NC 53, 55, 67, 72, 76, 78, 98;
- Cho A Nan và chú tiểu Chu Na (C: Chouna; P: Cunda), NC 66;
- Cho A Nan và nhiều Tỳ-kheo, NC 77;
- Cho Lại-tra-hòa-la (C: Lai-cha-ho-lo; P: Ratthapàla), NC 54;
- Cho Fou-mi(Bhùmija), NC 81;
- Cho Lu-i-ch'iang-ch'i (Lomasakangiya), NC 88;
- Cho San-mi-t'i (Samiddhi), NC 90;
- Cho Fu-chia-lo-so-li (Pukkusàti), NC 94;
- Cho Đại Chu Na (C: Ta-chou-na; P: Mahàcunda), NC 7;
- Cho chú tiểu A-i-na-ho-t'i(Aciravata), NC 80.

a) Cho một vị Tỳ-kheo:

Trong NC 5, (P6,kinh Ước nguyện = C 105,kinh Nguyện) có một Tỳ-kheo trong lúc ngồi nơi vắng vẻ, đã tư duy về lợi ích lớn của Phật đối với mình, đã rời chỗ ngồi đứng lên đi đến nơi Phật. Đức Thế tôn sau khi trông thấy Tỳ-kheo này, đã nhân vì ông mà thuyết pháp cho các Tỳ-kheo. Bản P bỏ hoàn cảnh đặc biệt này. Phật thuyết pháp không có một dẫn nhập nào cả.

b) Cho một số Tỳ-kheo:

Trong NC 22 (P26, Thánh cầu = C204,La ma) , Phật đang ở Lộc Mẫu giảng đường (Lu-tzu-mu). Vào buổi chiều, Ngài rời khỏi tòa ngồi đứng lên, từ trên lầu đi xuống và bảo Trưởng lão A Nan cùng đi tắm ở sông A-i-lo-p'o-t'i (Aciravati). Rồi Trưởng lão A-nan cầm chìa khóa đi đến các Tỳ-kheo đang ở trong những chòi của họ và bảo họ đi đến nhà bà la môn La Ma (C: Lo-mo; P: Rammaka). Khi ấy đức Phật và Trưởng lão A Nan xuống sông tắm. Sau khi tắm xong, Phật lên khỏi nước, lau khô thân thể và mặc y. Bản P khởi đầu với đức Phật ở tại Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Rồi đức Phật đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Nhiều Tỳ-kheo đi đến Tôn giả A Nan, thưa rằng họ muốn được trực tiếp nghe Phật thuyết pháp, vì đã lâu họ không có được cơ hội ấy. Tôn giả A Nan bảo họ đi đến nhà bà la môn Rammaka. Khi Phật khất thực về và dùng bữa xong, Ngài cùng Trưởng lão A Nan đi đến Pubbàràma ở vườn của Lộc Mẫu (Migaàramàtu) để nghỉ ban ngày. Vào buổi chiều Phật ra khỏi độc cư thiền tịnh rồi cùng với Trưởng lão A Nan đi đến Pubbakotthaka để ngâm chân tay. Sau khi tắm rửa, Phật ra khỏi nước, đứng trên bờ với một tấm y (cìvara) độc nhất để phơi tay chân. Rồi theo lời yêu cầu của Tôn giả A Nan, Phật đi đến nhà Lo-mo (Rammaka) để thuyết pháp.

c) Cho Tôn giả La Vân (C: Lo-yun; P: Ràhula) :

Trong NC 40, C14, La vân kinh, khi đêm đã tàn, vào sáng sớm Phật đi vào thành Vương Xá (Wang-shê) khất thực. Sau khi ăn xong, Ngài đi đến rừng Suối nóng, nơi có Tôn giả La Vân. Tôn giả La Vân trông thấy Phật từ xa đến, đi ra đón Ngài, cầm lấy y bát, trải tọa cụ và lấy nước rửa chân. Đức Phật rửa chân xong, ngồi trên chỗ ngồi của La Vân đã soạn sẵn. Trong P61, Ambalatthikàràhulovàda,đức Phật vào buổi chiều ra khỏi độc cư thiền tịnh, đi đến Ambalatthikà, nơi Tôn giả Ràhula ở. Tôn giả Ràhula, khi thấy đức Phật từ xa đến, đã sửa soạn chỗ ngồi và nước rửa chân nhưng không đi ra đón Ngài và đỡ lấy y bát. Đức Phật ngồi trên chỗ đã soạn và rửa chân. Để quở trách Tôn giả La Vân, đức Phật đã chỉ một ít nước còn trong chậu, rồi đổ nó đi, lật úp cái chậu và lật ngửa trở lại, và cứ mỗi lần như thế Ngài răn dạy Tôn giả. Bản P thêm một thái độ thứ năm của đức Phật là chỉ ra sự trống rỗng trong cái chậu lật ngửa và tuyên bố rằng cũng trống rỗng như thế là hạnh Sa-môn của người cố ý nói dối mà không biết hổ thẹn.

d) Cho Tôn giả Man Đồng Tử (C: Man-tun-tzu; P: Màlunkyaputta) : NC 41, NC 42:

Trong NC 42 (P64,Mahàmàlunkya, Đại kinh Màlunkya = C205, Ngũ hạ phần kết), đức Phật quở trách Man-đồng-tử về sự hiểu sai của ông đối với năm kiết sử trói buộc con người vào đọa xứ và Man-đồng-tử tỏ thái độ hối hận. Khi ấy Tôn giả A Nan đang đứng sau đức Phật và quạt cho Ngài, đã yêu cầu đức Phật giải thích năm kiết sử, và đức Phật đã chấp thuận lời yêu cầu của Tôn giả A Nan. Trong bản P, đức Phật không công khai quở trách Màlunkyaputta. Cũng không có thái độ hối hận của Màlukyaputta, không có chi tiết về Tôn giả A Nan đứng sau lưng Phật và quạt cho Ngài.

e) Cho Tôn giả A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anuruddha), Nan Đề (C: Nan-t'i; P: Nandiya) và Kim Tỳ La (C:Chin-p'i-lo; P: Kimbila): NC 25, 45, 83:

Không có nhiều khác biệt giữa hai bản trong NC 25 (P31, Tiểu kinh rừng Sừng bò=C 185, Ngưu giác sa la lâm kinh) và NC 45 (P68, Nalakapàna = C77, Sa kê đế tam tộc tánh tử kinh).

Trong NC 83, theo bản C 72,Trường thọ vương bản khởi kinh,muốn giảng hòa các Tỳ-kheo ở Câu Xá Di (C: Chu-shê-mi; P: Kosambì), Phật đã kể câu chuyện dài về sự tha thứ của vua Phạm chí (C:Fan-mo-ta-to; P: Brahmadatta) cho vua Trường thọ (C: Ch'ang-shou; P: Dìghìti), nhưng câu chuyện này không có ảnh hưởng gì các Tỳ-kheo ở Câu Xá Di. Khi ấy đức Thế tôn đọc lên một bài kệ cho thấy rõ sự vô vọng, ngu ngốc của gây gỗ và xúc phạm nhau. Kinh P128 không giống. Kinh này cũng nói các Tỳ-kheo ở Kosambì (Câu Xá Di) tranh chấp nhau, đã thương nhau với binh khí miệng lưỡi, nhưng thêm rằng một Tỳ-kheo đến tường thuật sự việc với đức Thế tôn và Ngài đã đến khuyên bảo họ đừng gây nhau. Ba lần đức Phật khuyên bảo, và cả ba lần đều có một Tỳ-kheo yên cầu Ngài đừng can thiệp vì họ sẽ chịu trách nhiệm về cuộc gây gổ này. Ở đây bản P bỏ câu chuyện về vua Phạm chí. Theo bản C, đức Thế tôn, sau khi đọc bài kệ đã vận thần thông bay lên không để đi đến làng Bà-la-lâu-la (P'o-lo-lou-lo). Tại đấy có một Tỳ-kheo tên Bà Cửu (C: P'o-chiu; P: Bhagu) đêm ngày chuyên tâm thiền định và Phật đã giảng pháp cho ông. Sau đó Ngài vào rừng Hộ Tự (Hu-szu) ngồi kiết già dưới một gốc cây, tại đó Ngài gặp một con voi chúa cũng đi tìm sự cô tịch để thoát ly những huyên náo của đàn voi. Bản P chỉ nói đức Phật gặp Tỳ-kheo Bhagu, không nói gặp con voi; cũng không có chi tiết đức Phật bay trên không. Phần còn lại hai bản gần giống nhau.

f) Cho Tôn giả Ma-ha-nam (C: Mo-ho-nan; P Mahànàma) :

NC 11: (P14, Tiểu kinh khổ uẩn = C100, Khổ ấm kinh):

Hai bản gần giống nhau.

g) Cho Moliya (C: Mou-li-p'o-ch'un-na; P: Moliyaphagguna):

NC 18: (P21, Ví dụ cái cưa = C193, Mâu lê phá quần na):

Hai bản gần giống nhau.

h) Cho Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi (C: P'o-t'o-ho-li; P: Bhaddàli) :

NC 43: (P 65, Bhaddàli= C 194, Bạt-đà-hòa-lợi) :

Hai bản gần giống nhau.

i) Cho Ưu-đà-di (C: Wu-t'o-i; P: Udàyì) :

NC 44: (P 66 Ví dụ con chim cáy = C192, Ca lâu ô đà di):

Không có gì khác nhau lắm giữa hai bản kinh. Trong khi bản C nói về một Tỳ-kheo nào đó đi khất thực về đêm, bản P nói rõ chính là Ưu-đà-di.

j) Cho Tôn giả A Nan:

NC 53, 55, 67, 72, 76, 78, 98:

Trong NC 53, (P81,Ghatikara= C63,Bệ bà lăng kỳ), NC 67 ( P106, Bất động lợi ích = C75, Tịnh bất động đạo kinh), hai bản gần giống nhau. Trong NC 55, kinh C67,Đại thiên nại lâm, dịch từ Ta-t'iencó nghĩa là "Mahàdeva: Đại-thiên" trong khi P83, kinh Makhàdeva Makhàdeva.

Trong NC 72, (P115,Bahudhàtuka= C181,Đa giới kinh), Tôn giả A Nan trong lúc ngồi thiền đã có được tri kiến rằng tất cả sợ hãi, rối ren, tai nạn, sầu ưu đều do vô minh, không do trí tuệ. Tôn giả trình bày ý tưởng ấy với đức Phật và Ngài đồng ý, đưa ra một định nghĩa về một Tỳ-kheo ngu si và một Tỳ-kheo có trí tuệ. Bản P bỏ chi tiết Tôn giả A Nan ngồi thiền, thuật ý tưởng của mình cho đức Phật và sự chấp thuận của đức Phật. Ở đây đức Phật gọi các Tỳ-kheo và dạy rằng mọi sợ hãi, rắc rối, tai nạn đến với người ngu, không phải với người trí. Rồi Ngài khuyên các Tỳ-kheo hãy tu tập để trở thành có trí tuệ nhờ trạch pháp. Ở đây bản P thêm Trưởng lão A Nan hỏi đức Phật đến mức nào thì đủ để gọi là một Tỳ-kheo có trí nhờ trạch pháp.

Trong NC 78, (P123, Acchariyabbhutadhamma= C32, Vị tằng hữu pháp), Tôn giả A Nan sau khi ra khỏi thiền định vào buổi chiều đi đến đức Phật, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên và kể ra những đức tính kỳ diệu của đức Phật. Trong bản P, một số đông Tỳ-kheo sau khi khất thực về ăn xong, tụ họp trong giảng đường và ca tụng đức Như lai (Tathàgata) thật kỳ diệu, có thần thông, biết được chư Phật về trước. Tôn giả A Nan xác nhận lời các Tỳ-kheo nói chư Như lai có nhiều đức tính kỳ diệu. Câu chuyện này được Phật cắt ngang lúc Ngài vừa ra khỏi độc cư thiền tịnh. Ngài hỏi các Tỳ-kheo đang đàm luận về điều gì, họ trình lại với Phật, khi ấy Phật bảo Tôn giả A Nan kể lại những đức tính kỳ diệu của đức Thế tôn.

Trong NC 98, ( P148, Chachakka = C86, kinh Thuyết xứ ), Tôn giả A Nan vào buổi chiều ra khỏi thiền định, đưa các Tỳ-kheo trẻ cùng đi đến đảnh lễ Phật và hỏi đức Thế tôn làm thế nào để dạy dỗ, khích lệ các Tỳ-kheo trẻ. Rồi Đức Phật giảng nhiều pháp môn cho những tỷ kheo trẻ. Bản P hoàn toàn không có chi tiết Tôn giả A Nan và các Tỳ-kheo trẻ, chỉ nói đức Phật cho gọi các Tỳ-kheo rồi giảng pháp.

k) Cho Tôn giả A Nan và chú tiểu Chu Na (C: Chou-na; P: Cunda) :

NC 66: ( P104, kinh Làng Soma= C196,Châu na kinh).

l) Cho Tôn giả A Nan và nhiều Tỳ-kheo:

NC 77: (P122, Mahàsunnatà= C191, Đại không kinh):

Cả hai bản dịch gần giống nhau trong NC 66, 77.

m) Cho Lại-tra-hòa-la (C: Lai-cha-ho-lo; P: Ratthapàla) :

NC 54: (P82, Ratthapàla= C132, Lại-tra-hòa-la kinh):

Câu chuyện Lại-tra-hòa-la không giống nhau trong hai bản. Lại-tra-hòa-la nghe đức Phật thuyết pháp, xin xuất gia, đức Phật từ chối vì chưa có phép cha mẹ, cha mẹ không bằng lòng cho xuất gia, Lại-tra-hòa-la tuyệt thực để gây áp lực đối với cha mẹ, cha mẹ nhượng bộ, Lại-tra-hòa-la xuất gia thọ giới và đắc quả A-la-hán, tất cả những chi tiết này đều giống nhau trong hai bản. Khi ấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la vào sáng sớm cầm y bát đi vào làng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha) để khất thực, nghĩ đến đức Thế tôn khen ngơi hạnh tuần tự khất thực nên ông đi từng nhà và đến nhà cha, lúc ấy người cha đang tỉa râu tóc, khi trông thấy Tôn giả ông nói: "Bọn Sa-môn trọc đầu này chuyên làm việc hắc ám, không có con, không người kế tự, những kẻ phá hoại gia đình ta. Ta có một đứa con trai yêu quý, nhưng chúng đã đem đi mất và cạo trọc đầu nó, đừng cho Sa-môn này cái gì để ăn cả." Thế là Lại-tra-hòa-la không nhận được một sự bố thí nào từ nhà cha mình, ngoại trừ lời chưởi rủa. Khi ấy một người tớ gái đem ra một rỗ đầy thức ăn thối để đổ vào đống rác. Lại-tra-hòa-la trông thấy cô ta bèn yêu cầu đổ thức ăn ấy vào bát của mình. Khi người tớ gái đem đồ ăn đổ vào bát khất thực, cô nhận ra ngài nhờ giọng nói và chân tay. Cô đi vào báo cho người cha, được tin ông hết sức vui mừng. Tay phải cầm áo, tay trái vuốt râu tóc, ông vội vàng đi đến chỗ Lại-tra-hòa-la đang ngồi tựa vào một bức tường để ăn thức ăn đã thối. Người cha hỏi con trai sao có thể ăn được thức ăn thối ấy khi con ông vốn có thân thể mềm mại và đã quen với mỹ vị cao lương. Ông cũng hỏi con trai sao không đi vào nhà cha mẹ mình. Lại-tra-hòa-la trả lời ông có vào nhà cha mẹ, nhưng không nhận được gì ở đấy, ngoại trừ lời nguyền rủa. Người cha xin lỗi con trai, kính cẩn đưa ông vào nhà, trải chỗ và mời ngồi. Sau đó ông báo tin cho mẹ Lại-tra-hòa-la và bảo bà dọn cơm cho con. Bà vui vẻ đi làm thức ăn. Rồi bà chất một đống lớn những đồng tiền ra giữa sân, lớn đến nỗi một người đứng bên này không trông thấy người đứng bên kia. Rồi bà đi đến Lại-tra-hòa-la mà bảo đống tiền này là của mẹ dành cho ông, còn tiền của cha dành cho ông thì vô số, không thể đếm hàng trăm, hàng ngàn. Tất cả tiền này dành cho ông nếu ông hoàn tục. Lại-tra-hòa-la khuyên mẹ hãy đem tiền ấy đổ xuống sông vì chính do tiền này mà người ta trải qua đau khổ, tuyệt vọng. Khi ấy bà mẹ biết không thể đem tiền mà dụ ông hoàn tục. Rồi bà bảo những người vợ trước kia của ông mặc đồ đẹp và trang sức các chuỗi đeo cổ, đi đến nơi ông, ôm chân ông mà nói: "Hỡi người chồng tệ bạc, có những tiên nữ nào đẹp hơn chúng tôi để cho ông vì họ mà đi tu?" Những bà vợ cũ của Lại-tra-hòa-la theo lời chỉ dẫn của mẹ chồng. Nhưng Lại-tra-hòa-la gọi họ bằng chị và bảo ông xuất gia không phải vì tiên nữ nào hết, chỉ vì để được Phật pháp, và bây giờ mục đích của ông đã thành tựu. Những bà vợ đứng lên khóc lóc bảo rằng họ không phải chị nhưng Lại-tra-hòa-la lại gọi họ bằng chị. Khi ấy Lại-tra-hòa-la yêu cầu cha mẹ dọn đồ ăn ra vì đã đến giờ, chớ có phiền nhiễu ông nữa. Khi ấy cha mẹ ông đứng lên, đưa nước cho ông rửa tay và tự tay mình bồi tiếp những thức ăn mỹ vị. Sau khi ăn xong, Tôn giả Lại-tra-hòa-la giảng pháp cho cha mẹ, làm họ vui mừng hoan hỷ phấn chấn. Rồi ngài đứng lên đọc một bài kệ. Bản P hơi khác. Khi Ratthapàla đi đến Thullakotthita, bản P thêm rằng ông ở lại trong vườn nai của vua Kuru. Trong khi đi khất thực, Ratthapàla đi từng nhà, nhưng bản P bỏ chi tiết ông nghĩ đến đức Phật thường khen ngợi sự tuần tự khất thực. Khi Ratthapàla vào nhà cha mẹ, người cha đang chải tóc ở giữa gian phòng có cửa. Trong bản C, người cha mắng các Tỳ-kheo là bọn chuyên làm việc đen tối, không con cái, không kế tự, phá hoại gia đình mình. Bản P chỉ nói ông ta bảo đứa con trai yêu quý độc nhất đã bỏ nhà đi tu vì những Sa-môn trọc đầu này, và thế là Trưởng lão Ratthapàla tại nhà cha mẹ đã không nhận được của bố thí cũng không nhận được lời từ chối mà nhận được lời nguyền rủa. Ở đây thức ăn người nữ tỳ đem đổ là đồ ăn thừa của ngày hôm trước. Trong khi bản C nói người tớ gái đi vào báo thẳng với người cha, bản P nói nàng báo tin trước cho người mẹ và bà này kể lại với chồng. Bản P thêm rằng bà mẹ của Ratthapàla khi được tin ông trở về đã nói với người tớ gái rằng nếu tin này là đúng thì cô ta sẽ thoát vòng nô lệ. Bản P không nói đến thái độ của người cha vui mừng trước tin tức ấy. Khi người cha của Ratthapàla trông thấy con trai mình tựa lưng vào bức tường để ăn đồ ăn còn thừa ngày trước, ông đã hỏi : "Có thật là con đang ăn đồ thừa đấy không? Con hãy nên đi vào nhà của con." Và Ratthapàla đã trả lời rằng ông không có nhà vì đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình. Ông đã đi đến nhà gia chủ nhưng không nhận được bố thí hay sự từ chối mà nhận được sự nguyền rủa. Khi ấy người cha mời ông vào nhà nhưng Ratthapàla từ chối, nói rằng đã ăn xong. Khi ấy người cha mời ông đến để ăn bữa trưa ngày hôm sau, và ông đã im lặng nhận lời. Trong bản C, chính bà mẹ đã chất tiền thành từng đống và bảo các bà vợ cũ của ông trang sức. Trong bản P, người cha làm những việc ấy. Trong bản C, người mẹ đem tiền ra dụ rồi đến các bà vợ; nhưng trong bản P, người cha sử dụng cả hai phương pháp cùng một lúc. Trước hết ông chất một đống lớn tiền vàng và che khuất nó sau một bình phong. Rồi ông bảo các bà vợ trước của Ratthapàlatrang sức đẹp đẽ. Khi thức ăn đã sẵn sàng, ông cho mời Tôn giả và khi Ratthapàla ngồi xuống, ông mở cho thấy đống tiền vàng và bảo Ratthapàlarằng một đống của mẹ, một đống của cha, một đống của ông nội. Chàng có thể thừa hưởng của cải và thực hành những việc phước. Bởi thế ông yêu cầu con trai hãy từ bỏ đời sống phạm hạnh, trở về đời sống thế tục, hưởng thụ của cải và hành thiện. Sự trả lời của Ratthapàla, vai trò các bà vợ cũ cũng gần như trong bản C, ngoại trừ trong bản P, các bà vợ té xỉu xuống đất khi nghe Ratthapàla gọi họ bằng chị. Bản P bỏ chi tiết Ratthapàla giảng pháp cho cha mẹ. Theo bản C, Lại-tra-hòa-la bay về rừng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha) ngang qua hư không, đi vào rừng ngồi trên tọa cụ. Lúc ấy vua Câu Lao Bà (Chu-lao-p'o) ngồi với đình thần trong cung, đang ca tụng Lại-tra-hòa-la và tỏ ý muốn gặp Tôn giả. Rồi vua ra lệnh cho quan săn bắn sửa soạn rừng Thâu Lô Tra để đi săn. Khi viên quan đi vào rừng, trông thấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la bèn trở về tâu vua, vua đi gặp Tôn giả. Khi Tôn giả thấy vua đến, ngài mời vua ngồi. Vua trả lời, mặc dù nơi này là sở hữu của vua, vua vẫn muốn được Tôn giả mời ngồi, và Tôn giả Lại-tra-hòa-la mời vua ngồi xuống. Vua hỏi phải chăng Tôn giả đi tu vì thiếu tiền, nếu vậy vua sẵn sàng cung cấp tất cả tiền bạc cần thiết để Lại-tra-hòa-la hoàn tục hưởng dục lạc, bố thí và làm các việc phước. Khi ấy Tôn giả bảo vua đã hiến cho mình những vật bất tịnh, không phải là tịnh pháp. Khi vua hỏi thế nào là hiến tịnh pháp, Tôn giả bảo vua nên nói xứ sở và thần dân của vua được hạnh phúc, không sợ hãi, không xáo trộn, không lo lắng, không bị làm nô lệ. Khi ấy vua nói muốn hiến cho Tôn giả tịnh pháp, không phải vật bất tịnh. Bản P không nói Ratthapàla bay trở về ngang qua hư không. Tôn giả chỉ trở về vườn Nai của vua Kuru, ngồi dưới một cây để nghỉ ban ngày. Bản P không nói vua Chu-lao-p'ongồi với đình thần trong cung, khen ngợi Tôn giả Ratthapàla và ngỏ ý muốn gặp ngài, mà chỉ nói vua sai người săn nai đi sửa soạn khu đất trong vườn Nai để vua đi ngắm cảnh. Người săn nai đến trông thấy Tôn giả đang ngồi dưới cây, về tâu vua, và vua sai thắng xe để đi gặp Tôn giả. Khi vua gặp Tôn giả, vua chào và mời Tôn giả ngồi trên tấm thảm lót lưng voi, nhưng Tôn giả từ chối và mời vua hãy ngồi lên đấy vì ngài đã có tọa cụ riêng. Ở đây bản P bỏ đoạn vua dụ Tôn giả từ bỏ đời sống phạm hạnh, như được tìm thấy trong bản C. Rồi vua hỏi những lý do đã khiến Ratthapàla sống đời phạm hạnh, và Tôn giả giải thích cho vua những lý do đã khiến ngài trở thành tu sĩ.

n) Giảng cho Tôn giả Phù Di (C: Fou-mi; P: Bhumija):

NC81: ( P126, Bhùmija= C173, kinh Phù Di ):

Tôn giả Phù Di ở trong thiền thất vô sự. Một buổi sáng, ông sửa soạn đi vào thành Vương Xá khất thực. Rồi ông hoãn việc khất thực mà đi đến nhà vương tử Kỳ Bà Tiên Na (Ch'i-p'o-hsien-na). Ở đấy, Tôn giả được vương tử chào đón một cách kính cẩn, mời ngồi và xin phép được hỏi Tôn giả. Sau khi được cho phép, vương tử đặt những câu hỏi và Tôn giả trả lời. Rồi vương tử mời Tôn giả ăn trưa, tự tay mang nước đến và phục vụ ngài với những thực phẩm hảo hạng. Sau khi ăn xong, vương tử ngồi xuống trên một chỗ ngồi thấp để lắng nghe thuyết pháp. Tôn giả thuyết pháp làm cho vương tử hoan hỷ, thỏa mãn, phấn chấn tinh thần bằng nhiều cách thuyết pháp. Khi bài pháp đã xong, Tôn giả đi đến chỗ Thế tôn, đảnh lễ Ngài và kể lại cuộc đàm thoại với vương tử. Bản P bỏ chi tiết Tôn giả sửa soạn đi khất thực, hoãn việc khất thực, sự chào đón tôn kính của vương tử và xin phép đặt câu hỏi. Bản P chỉ nói Bhùmija vào buổi sáng đắp y cầm bát đi đến trú xứ vương tử Jayasenavà ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Rồi vương tử đến chào ngài và hỏi những câu hỏi. Trong khi kinh C nói dông dài về chuyện vương tử mời dùng cơm, phục vụ Tôn giả với những đồ ăn thượng hạng, Tôn giả thuyết pháp cho vương tử; kinh P chỉ nói vương tử cúng dường Tôn giả cơm nấu với sữa. Sau khi kể lại cho đức Phật nghe cuộc đàm thoại này, bản P nói Tôn giả hỏi đức Phật, có phải khi được hỏi và trả lời như thế là ông đã nói đúng những gì Thế tôn đã dạy, không xuyên tạc lời Thế tôn. Và đức Phật hỏi Tôn giả vì sao không nói cho vương tử nghe về bốn ví dụ.

o) Giảng cho Tôn giả Lu-i-ch'iang-ch'i (Lomasakangiya):

NC88: (P134, Lomasakangiiya, Nhất dạ hiền giả = C166, Thích trung thiền thất tôn) :

Có một việc khác nhau quan trọng cần chú ý giữa hai bản dịch. Bản C nói đức Phật giảng bài kệ về Bạt địa la đế (C: Pa-ti-lo-ti; P: Bhadde-karatta) tại thành Vương Xá, trong rừng Trúc, ở vườn Ca Lan Đà (Chia-lan-to), nhưng bản P nói đức Phật giảng bài kệ này tại cõi trời 33, giữa thiên chúng, ở gốc cây Pàricchattaka, trên Pandukambalasilà.

p) Giảng cho Tôn giả San-mi-t'i (Samiddhi):

NC 90: (P136, Đại nghiệp phân biệt = C171, Phân biệt đại nghiệp kinh):

Trong bản C, chính Tôn giả A Nan có tà kiến của Samiddhi và bị Phật quở. Nhưng trong bản P Tôn giả Ưu-đà-di (Udàyì) có tà kiến như Samiddhi và bị đức Phật quở trách.

q) Giảng cho Tôn giả Fu-chia-lo-so-li (Pukkusàti):

NC94: (P140, Giới phân biệt = C162,Phân biệt lục giới kinh):

Theo bản C, sau khi đức Phật giảng xong, Tôn giả Pukkusàtiđắc Pháp nhãn. Rồi ông thú nhận lỗi lầm đã gọi Phật bằng bạn và Phật nhận sự sám hối của ông. Ở đây bản P hoàn toàn khác. Tôn giả Pukkusàti cũng sám hối, và sau khi sám hối, còn xin đức Phật xuất gia làm Tỳ-kheo, nhưng đức Phật từ chối vì Tôn giả không có y bát sẵn sàng. Trong lúc đi tìm y bát, Tôn giả bị bò húc chết. Những Tỳ-kheo đưa tin ấy đến Phật và bạch hỏi về cảnh giới tương lai của Pukkusàti. Đức Phật trả lời Pukkusàti đã đoạn trừ năm kiết sử, đã hóa sinh và đạt Niết-bàn (Nibbàna) ngay ở đấy, không còn trở lui đời này. Tất cả những chi tiết này không có trong bản C.

r) Giảng cho Đại Châu Na (C: Ta-chou-na; P: Mahàcunda) :

NC7: (P8, Đoạn giảm = C91, Châu na vấn kiến kinh) :

Hai bản kinh gần giống nhau.

s) Giảng cho sa di A-i-na-ho-t'i (Aciravata):

NC80: (P125, Dantabhùmi= C198,Điều ngự địa):

Hai bản dịch không có gì khác nhau đáng chú ý.

6. Đức Phật thuyết pháp cho tu sĩ và những người khác :

Có 10 NC rơi vào loại này:
- Giảng cho Kiều-đàm-di (Ch'u-t'an-mi) : NC96: (P142,Dakkhinà-vibhanga = C180,Cù đàm di kinh);
\
- Giảng cho bà la môn Sinh Văn (Shêng-wên): NC23: (P27, Ví dụ dấu chân voi = C146, Tượng tích dụ kinh) ;
- Giảng cho Po-li-to (Potaliya) : NC38: (P54,Potaliya= C203, Bổ lợi đa kinh);

- Giảng cho Tiễn Mao (Chien-mao): NC49: (P77,Mahàsakuludàyi = C207, kinh
Tiễn mao);

- Giảng cho vua Ba-tư-nặc (Po-ssu-ni) : NC56: (P87,Piyajàtika= C216,Ái sinh); NC58: (P89,Dhammacetiya = C213, Pháp trang nghiêm); NC59: (P90,Kannakatthala= C 212, Nhất thiết trí kinh);

- Giảng cho bà la môn Phạm Ma (Fan-mo): NC60: (P91, Brahmàyu = C161, kinh Phạm ma)

- Giảng cho bà la môn Toán số Mục-kiền-liên (Suan-shu-mu-chien-lien) : NC68 : (P107,Ganakamoggallàna= C144, Toán số Mục-kiền-liên kinh);

- Giảng cho Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu): NC89: (P135, Tiểu nghiệp phân biệt = C170, Anh vũ kinh).

a) Giảng cho Kiều-đàm-di (C: Ch'u-t'an-mi; P: Gotamì),NC96: Hai bản gần giống nhau.

b) Giảng cho bà la môn Sinh Văn ((C: Shêng-wên; P: Jànussonì),NC23:

Tỳ Lô (Pei-lu), một tín đồ ngoại đạo sau khi nghe đức Thế Tôn giảng trở về gặp bà la môn Sinh Văn đang đi trong một cỗ xe toàn trắng với 500 đệ tử ra khỏi thành Xá Vệ để đến một nơi vắng vẻ và đọc kinh điển. Bản P bỏ đoạn Tỳ Lô đi đến đức Phật và được Ngài thuyết pháp, đề cập trực tiếp bà la môn Jànussonì sáng sớm ngồi trong xe do ngựa trắng kéo, gặp du sĩ Pilotika từ xa đến và nói chuyện. Phần còn lại hai bản gần giống nhau.

c) Giảng cho Bổ Lợi Đà (C: Pu-li-to; P:Potaliya),NC38:

Theo bản C, gia chủ Bổ Lợi Đà vận y phục trắng sạch, đầu quấn khăn trắng, chống gậy, cầm dù, mang giày thế tục đi ngao du. Khi gặp Phật, đầu tiên ông bỏ cây gậy, tháo giày, rồi mở dãi khăn trắng ra. Trong bản P, Potaliya được mô tả là ăn mặc bảnh bao, đi giày cầm dù, nhưng không có những chi tiết khác. Ông không bộc lộ những vẻ cung kính bên ngoài như được thấy trong bản C. Sau khi nghe Phật thuyết pháp, Potaliya được con mắt pháp thanh tịnh, lặp lại ba lần xin quy y Tam bảo và được nhận làm đệ tử tại gia. Bản P không nói Potaliya đắc Pháp nhãn. Ông chỉ bày tỏ sự tán thán như thường lệ và xin quy y Tam bảo, xin được nhận làm đệ tử Phật.

d) Giảng cho Tiễn Mao (C: Chien-mao; P: Sakuludàyì),NC49:

Trong khi bản C nói Phật sau khi ăn xong đi đến vườn chim công, bản P nói Phật vào thành Vương Xá (Ràjagaha) khất thực, nhưng thấy còn quá sớm nên Ngài đi đến vườn chim công. Bản P bỏ chi tiết Sakuludàyi đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đắp vai chừa ra một bên, chắp tay hướng về Phật, nhưng thêm rằng Sakuludàyi lấy một ghế thấp ngồi bên cạnh. Sau khi Phật thuyết pháp, Tiễn Mao ca tụng bài pháp của đức Phật vi diệu, hy hữu, làm ông khoan khoái, như mật ngọt, như nước mưa trên trời rơi xuống thấm khắp những vùng đất cao và thấp. Rồi ông xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử. Đoạn này không có trong bản P.

e) Giảng cho vua Ba-tư-nặc (C: Po-ssu-ni; P: Pasenadi),NC 56, 58, 59:

Cả hai bản gần giống nhau, chỉ có thêm bớt vài chi tiết nhỏ. Trong NC56, theo kinh C216, Ái sinh, vua Ba-tư-nặc sai bà la môn Na Lị Ương Già (C: Na-li-yang-chia; P: Nàlijangha) đi đến đức Phật, trước hết hỏi thăm sức khỏe của Ngài, rồi hỏi quan điểm của Ngài. Trong kinh P90, Piyajàtika,hoàng hậu Mallikà phái bà la môn Nàlijangha đi đến đức Phật, trước hết đảnh lễ và hỏi thăm sức khỏe, sau xin Ngài giải thích quan điểm của Ngài.

f) Giảng cho Bà la môn Phạm Ma (C: Fan-mo; P: Brahmàyu),NC 60:

Hai kinh gần giống nhau. Những dị biệt sau đây cần chú ý: Về lưỡi dài rộng, theo kinh C161, trùm khắp mặt đức Phật, trong kinh P91, đức Phật đưa lưỡi ra sờ đến hai mang tai, hai lỗ mũi và bao trùm khắp mặt và trán. Trong kinh C, Ưu Đa La (Yu-to-lo) xin phép bà là môn Phạm Ma xuất gia với Sa-môn Cù Đàm (Ch'u-t'an) và bà la môn đồng ý. Và Ưu Đa La thọ đại giới với đức Phật. Những chi tiết này không có trong bản P. Trong bản C, bà la môn Phạm Ma muốn đảnh lễ đức Phật, nhưng chúng đông gia chủ và bà la môn hô lớn lời hoan nghênh và thán phục. Đức Phật biết tâm của hội chúng, bảo Phạm Ma hãy trở về chỗ ngồi. Rồi Ngài thuyết pháp cho ông, làm cho ông hoan hỷ, phấn khởi, hài lòng. Sau khi đức Phật thuyết pháp, Phạm Ma được Pháp nhãn. Rồi ông đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cúi đầu dưới chân đức Phật, xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử. Trong bản P, bà la môn thực sự đảnh lễ Phật, sửa thượng y chừa lại một vai, hôn quanh chân Phật, dùng hai tay vuốt khắp chân Phật và cho biết tên của ông, nhưng không bị chúng hội ngăn chận.

g) Giảng cho Toán số Mục-kiền-liên (C: Suan-shu-mu-chien-lien; P: Ganakamoggallàna),NC 68: Hai bản gần giống nhau.

h) Giảng cho Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (C: Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu; P: Subha mànava Todeyyaputta),NC 89: Kinh C170 khởi sự với câu chuyện về con chó, đời trước là cha của Đô Đề (Todeyya), trong khi P135 hoàn toàn loại bỏ chi tiết này.

7. Sự thảo luận giữa các Tỳ-kheo

Có 3 NC thuộc về loại này :
NC20 : (P24, Trạm xe = C9,Thất xa), kể cuộc đàm luận giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và Mãn-từ-tử (Man-tz'u-tzu).

NC26: (P32, Đại kinh rừng Sừng boø= C185,Ngưu giác lâm kinh), nói đến một cuộc luận bàn giữa các Tôn giả Xá-lợi-tử, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà (A-na-lu-t'o), Ly-bà-đa (Li-yueh-to) và A Nan.

NC30: (P43, Mahàvedalla = C211, Đại-câu-thi-la kinh), kể cuộc pháp đàm giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo).

a) Giữa Xá-lợi-tử và Mạn Từ Tử,NC20:

Hai bản gần giống nhau.

b) Giữa Xá-lợi-tử, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà, Ly-bà-đa và A Nan,NC26:

Bản C nói đến bảy Tôn giả, nhưng bản P chỉ nói sáu, bỏ Đại Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna). Trong bản C, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên nói đến vị Tỳ-kheo nào thiện xảo về đàm luận pháp A tỳ đàm (Abhidharma), vị Tỳ-kheo ấy sẽ chói sáng khu rừng Sừng bò. Nhưng trong bản P, câu trả lời này được đặt vào miệng của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna). Trong bản C, câu trả lời của Đại Mục-kiền-liên nói đến vị Tỳ-kheo nào giỏi về năng lực thần thông.

c) Pháp đàm giữa Xá-lợi-tử và Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo),NC 30:

Trong bản C, Tôn giả Xá-lợi-tử đặt câu hỏi cho Tôn giả Đại-câu-thi-la và Đại-câu-thi-la trả lời câu hỏi. Trong bản P, Đại-câu-thi-la (Mahàkotthita) hỏi và Xá Lợi Phất trả lời.

8. Những bài pháp do đệ tử Phật nói:

Có 14 NC thuộc về loại này. Tôn giả Xá-lợi-tử thuyết pháp trong NC4, 24, 46, 63, 97. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thuyết pháp trong NC12, 36. Tôn giả A Nan thuyết bốn bài pháp trong NC37, 57, 69, 86. Tôn giả A-na-luật-đà giảng một bài pháp trong NC82. Tỳ-kheo ni Pháp Lạc nói một bài pháp trong NC31 và Tôn giả Bạc-câu-la (Po-chu-lo) nói một bài pháp trong NC 79.

a) Do Tôn giả Xá-lợi-tử thuyết:

NC4: (P5, Vô uế = C87,Uế phẩm kinh);
NC24: (P25, Dụ dấu chân voi = C178, Tượng tích dụ kinh);

NC46: (P69, Gulissàni = C26, Cù ni sư kinh);

NC63: (P97, Dhànanjàni = C27, Phạm chí Đà nhiên kinh);

NC97: (P143, Anàthapindikovàda = C28, Giáo hóa bệnh kinh);

Không có gì khác nhau nhiều giữa hai bản trong NC4, NC24, NC46. Nhưng có nhiều khác nhau trong NC63, nói đến sự gặp gỡ giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và bà la môn Đà Nhiên (T'o-jan). Sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-tử mang y cầm bát vào thành Xá Vệ khất thực. Sau khi khất thực, ngài đến nhà bà la môn Đà Nhiên, lúc ấy Đà Nhiên vừa ra khỏi nhà đi đến bờ sông để hành hạ dân chúng. Khi thấy Tôn giả Xá-lợi-tử từ xa, ông ta đứng dậy khỏi chỗ ngồi (?), mặc y phục để lộ một vai, chắp tay chào đón Tôn giả, đưa Tôn giả vào nhà, sửa soạn chỗ và mời Tôn giả ngồi xuống, rồi cúng dường thực phẩm cho Tôn giả trong đồ đựng bằng vàng. Nhưng Tôn giả từ chối. Ba lần bà la môn năn nỉ, và Tôn giả từ chối cả ba lần. Bản P không hẳn vậy, nói bà la môn Dhànanjàni đang ở ngoài thành vắt sữa bò trong một chuồng bò. Bản này bỏ các chi tiết: bà la môn đứng dậy khỏi chỗ ngồi, mặc y chừa một vai, đưa Tôn giả vào nhà, sai sửa soạn chỗ ngồi, dâng thực phẩm trong bát bằng vàng. Bản P chỉ nói rằng khi trông thấy Tôn giả Xá Lợi Phất từ xa, bà la môn Dhànanjàni đi đến mời Tôn giả uống sữa chờ đến khi có thức ăn, nhưng Tôn giả từ chối bảo rằng ngài đã ăn xong, và mời bà la môn cùng đi đến dưới một gốc cây. Phần còn lại hai bản gần giống nhau. Trong NC97, cả hai bản kinh nói đến Cấp Cô Độc (Kei-ku-tu) bị ốm, yêu cầu Tôn giả Xá-lợi-tử đến giảng pháp cho ông. Tôn giả đến giảng pháp cho Cấp Cô Độc. Nhưng trong bản C, Tôn giả Xá-lợi-tử bảo Cấp Cô Độc đừng sợ hãi vì ông ta có đức tin lớn, có giới, đa văn, bố thí, trí tuệ, chánh kiến, mục tiêu chân chính, và do vậy khổ và ưu sẽ chấm dứt, vô thượng an lạc sẽ khởi lên, do điều này người ta có thể đạt đến cõi Nhất lai hay Bất hoàn; và Cấp Cô Độc đã đắc quả Dự lưu. Trong bản P, Tôn giả Xá Lợi Phất khuyên Cấp Cô Độc (Anàthapindika) đừng bám víu cái gì. Và sau khi Tôn giả Xá Lợi Phất giảng xong, Cấp Cô Độc đã khóc. Sau khi Tôn giả ra đi, Cấp Cô Độc chết và được tái sinh lên cõi trời Đâu Suất. Ở đây hai bản khác nhau khá xa. Rồi theo bản C, Cấp Cô Độc được khỏi bệnh, kể lại cho Tôn giả nghe lần đầu tiên ông gặp đức Phật, lắng nghe Ngài thuyết pháp, thấy đựơc bốn chân lý, mua vườn Kỳ Viên (C: Shêng-lin; P: Jetavana) và dâng cúng cho đức Phật. Nhưng bản P nói rằng sau khi Cấp Cô Độc chết và tái sinh lên cõi trời Đâu suất (Tusita), vị thiên Cấp Cô Độc còn trẻ, chói sáng vườn Kỳ Viên với hào quang của mình, đi đến đức Phật, chào Ngài và đọc một bài kệ tán thán Phật, Pháp và Tôn giả Xá Lợi Phất. Rồi vị trời trẻ Cấp Cô Độc biến mất tại chỗ.

b) Những bài kinh do Đại Mục-kiền-liên thuyết (Ta-mu-chien-lien):

NC12: (P15, Tư lượng = C89,Tỳ-kheo thỉnh);
NC36: (P50, Màratajjaniya= C131, Hàng ma kinh):

Hai bản gần giống nhau.

c) Do A Nan thuyết:

NC 37: (P52, Bát thành = C217, Bát thành kinh);
NC 57: (P88, Bahitika = C214,Bệ ha đề);

NC 69: (P108, Gopakamoggàllana = C145, Cù mặc Mục-kiền-liên kinh);

NC 86: (P132, A nan nhất dạ hiền giả = C167, A nan thuyết):

Không có nhiều dị biệt giữa hai bản trong NC 37, 57, 86. Nhưng trong NC69, bản C nói vào lúc ấy quan đại thần Vũ Thế (C: Yu-chih; P: Vassakàra) xứ Ma-kiệt-đà (C: Mo-chieh-t'o; P: Magadha) đang chỉnh đốn thành Vương Xá để chống lại dân Bạt Kỳ (P'o-ch'i). Nhưng trong bản P, vua A Xà Thế (Ajàtasttu) xứ Ma-kiệt-đà chỉnh đốn thành Vương Xá chống lại vua Pajjota. Phần còn lại gần giống nhau.

d) Do A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anuruddha) giảng:

NC82: (P127, A na luật = C79 ,Hữu thắng thiên):
Hai bản gần giống nhau.

e) Do Tỳ-kheo ni Pháp Lạc (C: Fa-lo; P: Dhammadinnà) giảng :

NC31: (P44, Tiểu kinh Phương quảng= C210, Pháp lạc Tỳ-kheo ni kinh):
Ở đây bản C nói Tỳ Xá Khư (C: P'i-shê-ch'u; P: Visakhà) là nữ đệ tử danh tiếng của thành Xá Vệ đi đến Tỳ-kheo ni Pháp Lạc tham vấn về Pháp. Theo bản P, Visàkha là chồng cũ của Pháp Lạc. Theo bản C, Tỳ-kheo ni Pháp Lạc đến Phật thuật lại sự thuyết pháp của bà, trong khi bản P nói chính cư sĩ Visàkha đến Phật thuật lại cuộc đàm thoại.

f) Do Bạc-câu-la (C: Po-chu-lo; P: Bakkula) thuyết :

NC79: (P124, Bakkula = C34, Bạc-câu-la kinh):
Ở đây bản P thêm tên của người hỏi Tôn giả Bakkula Acela Kassapa nhưng bỏ chi tiết ông ta là một người ngoại đạo. Sau khi Tôn giả Bakkula thuyết pháp, bản P thêm một đoạn dài, trong đó Acela Kassapa xin Tôn giả Bakkula cho ông xuất gia thọ đại giới. Sau khi thọ giới không lâu Acela Kassapa đắc quả A-la-hán, rồi sau một thời gian Tôn giả Bakkula cầm chìa khóa và thông báo cho các Tỳ-kheo khác biết mình sắp nhập Niết-bàn ngày hôm ấy, và Tôn giả Bakkula nhập Niết-bàn trong khi đang ngồi giữa chúng hội. Những chi tiết này không có trong bản C.


NHẬN XÉT CHUNG

Điểm qua vai trò của các nhân vật trong 98 kinh được so sánh, ta thấy rõ ràng có một nguồn gốc chung cho cả hai bản C và P, từ đó những nhà kết tập chọn những tài liệu và dữ kiện cho bản kinh của họ, nhưng không thiếu những dị biệt về chi tiết, và điều này hoặc do sự chọn lựa của các nhà kết tập hoặc do đặc điểm của các bộ phái mà họ tiêu biểu.
Như về phương diện nhân vật, trong NC15, kinh C 115,Mật hoàn du,ïnói chính Phật dẫn ví dụ về viên mật; trong kinh P18, nói Tôn giả A Nan dẫn. Trong NC 10, kinh C 99,Khổ ấm, kể một số đông tín đồ ngoại đạo đến gặp các Tỳ-kheo trong giảng đường khi họ đang tụ hội sau bữa ăn trưa. Nhưng trong P13, Đại kinh khổ uẩn, các Tỳ-kheo sau khi vào thành Xá Vệ khất thực, thấy còn sớm nên đi đến trú xứ của các du sĩ và cuộc đàm thoại bắt đầu. Trong NC 26, C184 nói Đại Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) trả lời Tỳ-kheo thiện xảo về luận thuyết (Abhidharma) (sẽ làm sáng chói khu rừng), nhưng theo kinh P32, đó là câu trả lời của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna) ; trong khi ở kinh C, Đại Mục-kiền-liên trả lời là Tỳ-kheo thiện xảo về thần thông. Như vậy bản C ở đây trung thực và đáng tin cậy hơn, vì Đại Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna) nổi tiếng là chuyên môn về luận nghị, Mục-kiền-liên nổi tiếng là chuyên môn về thần thông. Chúng ta trích dẫn ở đây một nhận xét của tiến sĩ Anesaki(71): "Trong kinh P, Gosinga(72), chúng ta thấy nói đến sáu đệ tử của đức Phật; trong bản C tương đương có thêm một người nữa là Ca-chiên-diên (Katyàyana) . Trong cuộc đàm luận giữa những Tỳ-kheo ấy, Mục-kiền-liên ở bản P đóng vai trò một đệ tử tinh thông về các nguyên lý của pháp và phân tích pháp. Trong bản C, vai trò này do Ca-chiên-diên đóng, và Mục-kiền-liên (Maudgalyàyana) là một người nổi tiếng về thần thông. Khi so sánh điều này với những tài năng của các đệ tử như được nói trong kinh Tăng chi bộ (Anguttara) I,14, chúng ta có thể thấy rằng bản C phù hợp với truyền thống chung. Vì như trong kinh Tăng chi I nói, Mục-kiền-liên là người thần thông (iddhimantànam) đệ nhất, Ca-chiên-diên (Kaccàna) là 'người thiện xảo về nói pháp và phân tích ý nghĩa' (sankhittena bhàsitassa vitthàrena attham vibhajantànam). Kinh Tăng-nhất-A-hàm (Ekottara) C cũng nói như vậy. Có thể sự khác nhau này chứng tỏ rằng không phải bản P luôn luôn thuần túy và nguyên chất hơn bản C."

Trong NC31, ta thấy một bất đồng khác nữa. Ở đây bản kinh C 210 nói đến tín nữ Tỳ Xá Khư ở thành Xá Vệ đi đến hỏi pháp Tỳ-kheo ni Pháp Lạc. Nhưng kinh P44 nói Visàkha là một nam cư sĩ, chồng cũ của Dhammadinnà. Trong Từ điển Tên riêng(D.P.P.N)(73)cũng nói Visàkha là chồng của Dhammadinnà. Ông là một thương gia giàu của thành Vương Xá, sau khi chứng quả Bất hoàn (Anàgàmì) , lối hành xử của ông đối với vợ hoàn toàn đổi khác. Khi ông tặng bà tất cả tài sản, trả lại tự do cho bà, bà xin được gia nhập tăng đoàn. Khi bà đắc quả A-la-hán, bà trở về Vương Xá. Visàkha đến thăm bà và hỏi bà nhiều câu hỏi liên hệ đến giáo lý Phật, và bà trả lời tất cả các câu hỏi ấy.(74)Cuộc đàm thoại của họ được ghi lại trong kinh Tiểu phương quảng (Cullavedallasutta). Sau đó Visàkha đến viếng đức Phật, thuật lại cuộc đàm thoại của họ và được nghe đức Phật tán thán Dhammadinnà. Như vậy có thể rằng những nhà kết tập kinh C đã nhầm lẫn tên Visàkha.

Trong NC30, kinh C 211 nói Tôn giả Xá-lợi-tử (Shê-li-tzu) đặt câu hỏi cho Tôn giả Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo) và ông này trả lời; nhưng theo P 43 thì Đại-câu-thi-la (Mahàkotthita) hỏi, Tôn giả Xá Lợi Phất (Sàriputta) trả lời. Lại trong NC56, kinh C 16 nói vua Ba-tư-nặc (Po-ssu-ni) phái một người bà la môn đến hỏi Phật về ý nghĩa giáo lý Ngài, trong khi kinh P 87 nói hoàng hậu Mallikà gởi sứ giả đến. Chúng ta cũng chú ý rằng trong NC53, theo kinh C63, Bệ bà lăng kỳ, vua Hiệp Bệ (Chia-pei) sai mang 500 xe bò đầy gạo trắng và đủ thứ thực phẩm của vua dùng để đến cúng dường Nan Đề Bà La (Nan-t'i-po-lo) . Nhưng Nan Đề Bà La từ chối, nói rằng vua có nhiều trách nhiệm lớn đối với quốc gia, và sự tốn kém của vua đã khá nặng nề nên ông không thể nhận. Nhưng bản P 81 nói vua Kikì sai chở 500 xe lúa, gạo vàng và cà ry đến cho người thợ gốm Ghatìkàra; ở đây người thợ gốm nhận quà và nói vua có nhiều phận sự, chừng ấy quà đã đủ cho anh ta. Như vậy những sự tường thuật mâu thẫn này cho chúng ta thấy hoặc do những nhà kết tập không nhớ kỹ, hoặc vì câu chuyện đã quá xa mờ trong dĩ vãng, nên những nhà kết tập chỉ còn nhớ mang máng, mơ hồ.

Về việc cải đạo của những người thuộc giáo phái khác sau khi nghe Phật thuyết pháp, ta thấy các chi tiết giống nhau giữa hai bản kinh trong các NC sau:

NC64: (P99, kinh Subha = C152, Anh vũ kinh);
NC23: (P27,Tiểu kinh dụ dấu chân voi = C146, Tượng tích dụ);
NC60: (P91, Brahmàyu = P161,Phạm ma);
NC68: (P107,Ganakamoggallàna= C144, Toán số Mục-kiền-liên);
NC89: (P135, Tiểu nghiệp phân biệt = C170, Anh vũ kinh).

Nhưng những chi tiết không giống trong các NC :

NC6: (P7,Ví dụ tấm vải = C93, Thủy tịnh Phạm chí);
NC61: (P93, Assalàyana= C151, Phạm chí A nhiếp hòa);
NC62: (P96, Esukari= C150, Uất sậu ca la);
NC48: (P75,Màgandiya= C153,Man nhàn đề);
NC52: (P80, Vekhanassa = C209, Bệ ma na tu);
NC38: (P54, Potaliya = C203, Bổø lợi đà kinh);
NC49: (P77,Mahàsakulùdayi = C207, Tiễn mao kinh);
NC56: (P87, Ái sinh= C216, Ái sinh kinh);
NC63: (P97,Dhananjàni= C27,Phạm chí Đà nhiên).

Trong NC6, bà la môn Thủy Tịnh (Shui-Ching) trong kinh C93 xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử tại gia. Nhưng kinh P 37 thêm rằng bà la môn Sundarika Bhàradvàjaxin đức Phật xuất gia thọ đại giới. Sau khi được phép, ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đắc quả A-la-hán. Trong NC 48, theo bản C 153, sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, Man Nhàn Đề (Hsu-hsien-t'i) đạt đến Pháp nhãn ly trần vô cấu. Ông được đức Phật cho xuất gia và đắc quả A-la-hán. Nhưng bản kinh P75 không nói Màgandiyađắc pháp nhãn ngay tại chỗ. Kinh này thêm lời tán thán của Màgandiyanhư thường lệ, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật xuất gia. Ở đây Phật nói Màgandiya vì thuộc ngoại đạo đáng lẽ cần qua bốn tháng thử thách, nhưng Phật biết căn tánh khác nhau của các hạng người nên ngài cho phép Màgandiyaxuất gia. Ở đây bản P cũng nói Màgandiya đắc quả A-la-hán nhưng với nhiều chi tiết hơn.

Chúng ta nhận thấy rằng bản C thích trình bày những thần thông của Phật, trong khi bản P không nhắc tới, như trong NC 27, sau khi Phật thuyết pháp, kinh C 201, Trà đế,còn thêm, lúc ấy ba vạn thế giới rung động. Trong NC83, kinh C72, Trường thọ vương bản khởi,đức Thế tôn sau khi đọc lên bài kệ, đã vận thần thông bay ngang hư không và đến làng Bà-la-lâu-la (P'o-lo-lou-lo) trong khi kinh P128,Tùy phiền não,không nói. Cũng vậy trong NC54, kinh C132, Lại-tra-hòa-la,nói Tôn giả Lại-tra-hòa-la bay về rừng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha). trong khi kinh P82 quên chi tiết ấy. Bản C cũng ưa nói đến Tôn giả A Nan đứng sau đức Phật quạt cho Ngài hoặc hầu đức Phật tay cầm phất trần, trong khi bản P hoàn toàn không nhắc đến những chi tiết ấy như ở NC15, NC42, NC67, NC96, NC22. Đôi khi một trong hai bản thêm một chi tiết. Như trong NC35, bản P49,Brahmanimantanika,thêm tên bà la môn là Baka. Trong NC44, kinh P66, Latukìkopana, tên của Tỳ-kheo là Udàyì; trong NC39, kinh P56,Upàli, tên người thợ nhuộm là Rattapàni. Những tên này không có trong bản C. Đôi khi bản P thêm một chi tiết. Như trong NC64, P99, kinh Subha,thêm cuộc gặp gỡ giữa Subha và bà la môn Jànussonì. Trong NC94, kinh P140, Giới phân biệt,thêm rằng Pukkusàtixin đức Phật xuất gia thọ giới, nhưng đức Phật từ chối vì ông không có y bát. Trong khi đi tìm y bát, ông bị bò húc chết. Đôi khi, ta để ý điều ngược lại là bản C cho nhiều chi tiết hơn. Như trong NC3, C88, Cầu pháp kinh, đức Thế tôn đau lưng muốn nằm nghỉ, gấp tư y Uất đa la tăng (yu-to-lo-sêng) trải lên giường, cuộn tròn y Tăng già lê (sêng-chia-li) làm thành cái gối và nằm xuống bên hông phải hai chân duỗi ra chồng lên nhau. Nhưng bản P chỉ nói rằng đấng Thiện thệ đứng lên khỏi chỗ ngồi và đi vào tinh xá. Trong NC89, kinh C170, Anh vũ kinh, thêm câu chuyện về con chó của Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu), trong NC83, kinh C72, Trường thọ vương bản khởi kinh, thêm câu chuyện về Phạm-ma-đạt-đa (C: Fan-mo-ta-to; P: brahmadatta), về đức Phật làm bạn với voi.

Như vậy những điểm tương đồng mà ta thấy được ở đây chứng tỏ có một nguồn chung các dữ liệu mà hai bản C và P đều theo, những điểm dị biệt biểu lộ đặc tính của mỗi bộ phái hoặc lỗi lầm của những người kết tập. Chúng cũng chứng tỏ rằng vào thời gian kết tập, nhiều dữ kiện quá mờ nhạt lẫn lộn nên đã đưa đến những tường thuật mâu thuẫn trong hai bản kinh C và P.

 


(69)Câu này được tìm thấy trong kinh Hữu học P 53, Sekhasutta, do Tôn giả Aønanda giảng.
(70)Lời giải thích này theo các nhà luận giải Pàli. Nhưng nguyên ngữ Pàli Bhunahu tương đương với từ Sanskrit Bhruna-ha, người giết bào thai, dịch sát từ này.
(71)JRAS, 1901, p. 899.
(72)Treckner 212 f.
(73)ii, p. 898.
(74)MA, I, 514 f; Thig A 15, 19.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com