Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Phẩm Quán Chúng Sinh

23/03/201107:55(Xem: 8682)
07. Phẩm Quán Chúng Sinh

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Bảy
Phẩm Quán Chúng Sinh

(Observing Living Beings)

Lúc bấy giờ Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng:

- Đối với chúng sinh, Bồ-tát quán chiếu và thấy như thế nào?

Ông Duy Ma Cật nói:

- Bồ-tát quán thấy chúng sinh như nhà huyễn thuật thấy người huyễn do huyễn thuật hóa ra. Lại ví như người trí thấy trăng trong nước , như bóng trong gương, như sóng nắng lúc trời nóng gắt của ngày hè, như vang của tiếng, như mây trong không, như bọt trên mặt nước, như bong bóng dưới cơn mưa, như sự bền chắc của cây chuối, như sự dừng lâu của tia chớp lưng trời, như đại thứ tám, như ấm thứ sáu, như nhập thứ mười ba, như giới thứ mười chín.

Bồ-tát quán thấy chúng sinh như thế ấy.

Lại nữa, Bồ-tát quán thấy chúng sinh: như sắc chất trong cõi vô sắc, như mầm của thóc rang, như thân kiến của người được quả Tu Đà Hoàn, như sự nhập thai của người được quả A La Hán, như tham-sân-si của Bồ-tát được chứng pháp nhẫn vô sanh, như phiền não tập khí của Phật, như sự thấy màu sắc của người mù, như dấu chim trong hư không, như con của thạch nữ, như phiền não của huyễn nhân, như chiêm bao lúc thức, như lửa không khói.

Bồ-tát quán thấy chúng sinh như thế đấy. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi!

Quán trong kinh nầy hàm nghĩa quán chiếu tức là cái thấy mà không cần phải nhìn ở nơi sự vật, đối tượng. Quán chiếu là cái thấy, biết bằng trí tuệ chớ không bằng nhục nhãn. Chúng sinh ở đây thì bao gồm tất cả muôn loài có sự sống như hữu tình và vô tình. Hữu tình chúng sinh là động vật còn vô tình chúng sinh là thực vật, khoáng vật đã lăn lộn lên xuống trong sáu nẻo sinh tử luân hồi. Bồ-tát quán chiếu thấy biết chúng sinh chỉ là giả huyễn như trăng dưới nước, như bong bóng dưới cơn mưa. Qua tuệ nhãn của Bồ-tát thì chúng sinh không thật có vì nó không trường cữu, không bền không chắc mà tất cả chỉ là hiện tượng trong vô vàn hiện tượng vạn pháp mà thôi. Chủ yếu của phẩm nầy là thuyết minh về sự sinh diệt giả huyễn để phá cho được chúng sinh tướng mà quay về với Bản Thể bất sanh bất diệt vĩnh hằng trong tất cả mọi chúng sinh.

Bồ-tát Văn Thù hỏi:

- Bồ-tát đã khởi quán chúng sinh như vậy, thế còn hạnh từ bi Bồ-tát phải thực hiện hạnh từ bi của mình đối với chúng sinh bằng cách nào?

Ông Duy Ma Cật nói:

- Bồ-tát khởi quán như thế rồi tự nghĩ rằng ta sẽ vì chúng sinh mà nói pháp như thế đó là Hạnh Chơn Thật Từ.

Tiếp đến, Bồ-tát vận dụng:

- Hành tịch diệt từ biết rõ các pháp vốn không sanh.

- Hành bất nhiệt từ không để cho phiền não sanh khởi trong lòng.

- Hành bình đẳng từ với quá khứ, hiện tại và vị lai thời nào tâm cũng bình đẳng.

- Hành vô tránh từ không khởi ý tranh cải thị phi.

- Hành bất nhị từ cắt đứt ý phân biệt ngoại cảnh, nội tâm.

- Hành bất hoại từ biết rõ tánh rốt ráo không của các pháp.

- Hành kiên cố từ tâm thâm tín chánh pháp không gì lay động nổi.

- Hành thanh tịnh từ biết rõ tánh của vạn pháp vốn thanh tịnh.

- Hành vô biên từ tâm rỗng lặng cởi mở như hư không.

- Hành La hán từ đề cao cảnh giác hóa giải hết những phiền não kiết sử.

- Hành Bồ-tát từ sẳn sàng đem lại mọi an ổn hạnh phúc cho chúng sinh.

- Hành Như lai từ thể nhập cái tướng Như của vạn pháp.

- Hành Phật đà từ đem hết cuộc đời mình truyền bá tư tưởng tỉnh thức giác ngộ cho chúng sinh.

- Hành tự nhiên từ biết rõ quả sở chứng không hề có đắc.

- Hành Bồ-đề từ biết rõ tất cả giáo pháp Phật chỉ có một vị đó là vị giải thoát.

- Hành vô đẳng từ cắt đứt trọn vẹn các ái tưởng nhiễm tâm.

- Hành đại bi từ dắt dẫn mọi người vào đại thừa đạo.

- Hành vô yểm từ tâm luôn luôn trụ trong quán trí: vô ngã và không.

- Hành pháp thí từ không giấu giếm chúng sinh về sự hiểu biết chánh pháp của mình.

- Hành trì giới từ sẳn sàng giúp đở, cảm hóa những ai phạm giới.

- Hành nhẫn nhục từ giúp đở người khác như giúp đở cho chính ta.

- Hành tinh tấn từ gánh vác trọng trách giáo hóa chúng sinh.

- Hành thiền định từ không đam mê vị khinh an của thiền định.

- Hành trí tuệ từ luôn luôn biết việc, biết thời, biết tà biết chánh.

- Hành phương tiện từ tất cả thi vi hành động đều là việc làm của Thị Hiện.

- Hành vô ẩn từ tâm lúc nào cũng Trực và luôn luôn thanh tịnh.

- Hành thâm tâm từ dù hành các hạnh mà không có tạp hạnh.

- Hành vô cuống từ không làm những gì có tánh dối gạt phỉnh phờ.

- Hành an lạc từ bằng mọi cách khiến cho mọi người thọ dụng được cái vui của Phật đạo.

Thưa ngài Đại Trí Văn Thù! Thực hiện hạnh từ của Bồ-tát là như thế đấy.

Bồ-tát Văn Thù hỏi:

- Thưa cư sĩ! Thế nào là Bi tâm của Bồ-tát?

Ông Duy Ma Cật đáp:

- Tất cả công đức của Bồ-tát làm đều cho chúng sinh hết.

- Hỉ tâm của Bồ-tát thế nào?

- Chúng sinh được những lợi lạc gì, Bồ-tát đều tán thán vui mừng không có hối tiếc.

- Xả tâm của Bồ-tát thế nào?

- Bồ-tát làm bao nhiêu việc phước đức, cứu độ cho chúng sinh được những gì không có niệm ta là kẻ thi ân và đặt hy vọng chờ ngày đền trả.

Mặc dù chúng sinh là không thật có, là giả huyễn không bền chắc, nhưng Bồ-tát vẫn thực hành tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) dùng pháp huyễn để độ chúng sinh huyễn mà chứng đắc quả vị huyễn. Nếu đứng về Chân đế mà nói thì tất cả là giả huyễn, là sinh diệt còn dựa theo Tục đế thì có thế gian, có người, có ta, có phương pháp tu hành và dĩ nhiên có quả vị để chứng cho nên các vị Bồ-tát còn phải vào đời để cứu giúp chúng sinh. Vì tướng trạng của thế gian vũ trụ là sinh diệt nên khi Bồ-tát thực hành tâm từ thì các ngài thấu suốt những chân lý của thế giới tương đối là Vô thường, Vô ngã, Không và Khổ để chẳng những mang lại an vui hạnh phúc cho chúng sinh mà còn giúp họ phát huy ánh sáng trí tuệ hằng sáng trong họ. Tâm từ của đạo Phật không nhất thiết chỉ thu gọn bằng một chữ làm lành mà có thể được nới rộng như: Tịch diệt từ, Vô tránh từ, Bất hoại từ, Kiên cố từ, Thanh tịnh từ, Vô biên từ, La hán từ, Bồ-tát từ, Như Lai từ, Phật đà từ, Tự nhiên từ, Bồ-đề từ, Vô đẳng từ, Đại bi từ, Vô yểm từ, Pháp thí từ, Trì giới từ, Nhẫn nhục từ, Tịnh tâm từ, Thiền định từ, trí tuệ từ, Phương tiện từ, Vô ẩn từ, Thâm tâm từ, Vô cuống từ và An lạc từ. Lòng bi của một Bồ-tát là khi Bồ-tát làm được bao nhiêu công đức lành đều cho hết cho chúng sinh. Thấy chúng sinh được lợi lạc, được vui thì Bồ-tát cùng vui, cùng nhau hoan hỷ nếu sự lợi lạc nầy không xây dựng trên tư tưởng lợi mình hại người. Sau cùng tâm xả là khi Bồ-tát làm tất cả việc lợi ích cho chúng sinh mà không thấy mình là kẻ thi ân và không mong cầu hy vọng ở sự đền ơn đáp nghĩa. Bồ-tát làm xong thì quên, buông xả hết. Thí dụ nếu chúng ta giúp ai một việc gì mà tâm không chịu buông xả cứ nhớ hoài vì còn mong sự đền đáp của người. Đây chính là con đường dẫn đến phiền não khổ đau bởi vì thói thường con người hay quên ơn bội nghĩa cho nên cái gì cho mình vì mình thì nhớ hoài không quên còn cái gì cho người thì quên không cần nhớ. Do đó làm rồi quên đi thì không còn thất vọng và dĩ nhiên phiền não cũng tan biến. Nên nhớ bất cứ việc làm nào của chúng ta dù thiện hay ác thì cũng đã được ghi nhận lại trong A-Lại-Da thức cho nên chúng ta có mong đợi hay không thì cái quả kia một ngày nào đó khi gặp duyên sẽ hiễn hiện ra. Vì thế việc làm của chúng ta đã có kết quả rồi đâu cần phải mong chờ kẻ đền ơn người đáp nghĩa.

Bây giờ Bồ-tát Văn Thù lại hỏi:

- Đường sanh tử rất đáng sợ, Bồ-tát phải nương tựa nơi gì để được an ổn?

Ông Duy Ma Cật đáp:

- Nương tựa nơi nghị lực và công đức Như Lai.

- Bồ-tát muốn nương tựa nghị lực và công đức Như Lai cần phải trụ tâm ở nơi nào?

- Trụ ở nơi tâm độ thoát tất cả chúng sinh.

- Muốn độ thoát tất cả chúng sinh, Bồ-tát phải trừ bỏ những gì?

- Phải trừ bỏ tất cả những phiền não.

- Muốn trừ bỏ phiền não, Bồ-tát phải thực hành những gì?

- Phải thực hành chánh niệm.

- Thực hành chánh niệm phải làm sao?

- Muốn thực hành chánh niệm phải hành bất sanh, bất diệt.

- Pháp nào bất sanh, pháp nào bất diệt?

- Pháp bất thiện bất sanh, pháp thiện bất diệt.

- Pháp thiện và bất thiện lấy gì làm gốc?

- Thân là gốc.

- Thân lấy gì làm gốc?

- Tham dục làm gốc.

- Tham dục lấy gì làm gốc?

- Hư vọng phân biệt làm gốc.

- Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc?

- Tưởng điên đảo làm gốc.

- Tưởng điên đảo lấy gì làm gốc?

- Vô trụ làm gốc.

- Vô trụ lấy gì làm gốc?

- Vô trụ thì không có gốc.

Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ông Duy Ma Cật nói:

- Từ chỗ VÔ TRỤ mà an lập tất cả pháp.

Thấy biết sanh tử, ưu bi, khổ não là việc đáng sợ, người trí phải tìm cho mình một con đường mà y theo nghị lực và công đức của Như Lai để cứu độ chúng sinh thoát khổ. Muốn độ chúng sinh trước hết chính mình phải dũng mãnh trừ bỏ phiền não, thực hành chánh niệm để biết rằng thân là vô thường, vô ngã, do tham dục, phân biệt, mộng tưởng điên đảo tạo thành. Mà mộng tưởng điên đảo là do vô trụ làm gốc, nhưng sau cùng thì vô trụ cũng không có gốc. Không có gốc ở đây có nghĩa là chẳng có gì mà sanh ra tất cả các pháp. Do đó vạn pháp gốc của nó là chẳng có gì nghĩa là Không. Nói một cách khác bản chất của vạn pháp là giai không. Chơn Không mà sinh ra tất cả nghĩa là bất biến mà tùy duyên tức là Chơn Không mà sinh ra Diệu Hữu vậy.

Bấy giờ trong tịnh thất của ngài Duy Ma Cật có vị Thiên nữ. Thấy hàng nhân thiên nghe pháp, Thiên nữ bèn hiện thân và dùng hoa cõi trời tung rãi trên các hàng Bồ-tát và đại đệ tử Thanh văn cúng dường. Hoa rơi đến các Bồ-tát, rớt xuống bình thường. Những hoa rơi nhằm các đại đệ tử thì dính trên người không rớt. Các đại đệ tử dùng hết thần lực phủi bỏ những hoa kia nhưng phủi mãi mà hoa không rớt được.

Thiên nữ hỏi ông Xá Lợi Phất:

- Vì sao ngài Xá Lợi Phất lại phủi hoa như thế?

- Vì hoa nầy không đúng pháp đối với một tu sĩ như chúng tôi.

Thiên nữ nói:

- Đừng cho rằng hoa nầy không đúng pháp. Vì sao? Vì hoa không có phân biệt, tại vì Xá Lợi Phất ngài có cái tưỡng phân biệt đấy thôi. Ở trong Phật pháp, xuất gia mà còn có phân biệt đó là không đúng pháp. Nếu không phân biệt thế mới là đúng pháp.

Xá Lợi Phất! Ngài hãy xem kia, các Bồ-tát hoa không dính các ngài vì Bồ-tát đã dứt hết tưởng phân biệt. Ví như người hay sợ thì quỷ mị có dịp khuấy phá khủng bố. Các hàng đệ tử Thanh văn sợ sanh tử cho nên sắc, thanh, hương, vị, xúc trở thành đối tượng nhiễu loạn cõi lòng. Nếu đã ly sự sợ hãi thì ngũ dục không làm gì được. Chỉ vì tập khí kiết sử của ngài chưa hết cho nên hoa dính mắc vào thân, khi nào tập khí hết hoa sẽ không còn dính nữa.

Trong đoạn kinh nầy hoa cõi trời mà Thiên nữ tung rãi cúng dường là tượng trưng cho chánh Pháp của Đức Phật. Tuy là đại đệ tử của Phật, nhưng tất cả các vị trong hàng Thanh văn vì chưa phát tâm Bồ-tát nên họ vẫn còn tâm phân biệt, chấp trước nên hoa dính trên người không rớt. Tâm phân biệt nên họ thấy có khổ vui, đẹp xấu, khen chê, trong sạch ô nhiễm… cho dù thấy hoa vừa thơm vừa đẹp mà không dám thưởng thức vì họ sợ rằng mình bị phạm giới tham hoa đắm sắc. Tâm còn chấp pháp nên họ thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng và có quả vị Bồ-đề để thành nên lòng trông cầu mong đợi chưa xả được. Vì tâm còn phân biệt, chấp trước nên các vị A La Hán lòng còn thương ghét, sợ sinh tử và cầu chứng Niết bàn nghĩa là tâm vẫn còn trụ tức là dính mắc. Ngược lại các vị Bồ-tát thực hành tâm vô phân biệt đến chỗ vô trụ tức là thấy biết vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn mà đạt được tâm thanh tịnh. Không còn phân biệt thì không còn sự đối đãi của nhị nguyên là tốt xấu, cao thấp, khen chê, giàu nghèo, thương ghét.. vì tất cả chỉ là một. Thanh văn có Thức phân biệt nên còn thương người nầy ghét kẻ nọ, thích món nầy chê món khác…trong khi đó Bồ-tát chuyển Thức thành Trí nghĩa là tuy thấy biết sự khác biệt nhưng tâm vẫn như như bất động thì lòng không còn thương ghét, nêm mùi vị thức ăn nhưng không chê dở thích món ngon, thấy nhà to xe đẹp nhưng không tham muốn. Tâm vô trụ nên Bồ-tát thong dong vào chốn nhiễm ô ngay cả những nơi trà đình tửu điếm để độ chúng sinh mà không hề bị tham đắm trong khi các vị A La Hán tránh xa cảnh trái ý nghịch lòng, lánh xa trần thế và không dám lăn lộn vào chốn bụi trần để độ chúng sinh vì họ chưa đủ dũng mãnh, chưa hàng phục và an trụ được tâm mình. Do đó cho dù Thiên nữ có rãi hoa trời, màu sắc tuyệt đẹp và hương hoa thơm ngát thì các vị Bồ-tát vẫn như như bất động, có xem hoa cũng như không. Đó chính là:”Kiến sắc phi can sắc, văn hương bất nhiễm hương” vậy.

Ông Xá Lợi Phất hỏi:

- Thiên nữ ở tại tịnh thất nầy đã lâu rồi chứ?

Tôi ở tại tịnh thất nầy như sự giải thoát của bậc kỳ cựu cao niên.

- Vậy có lâu chưa?

- Sự giải thoát của bậc lỳ cựu cao niên hà cũng có lâu sao?

Ông Xá Lợi Phất lặng thinh không biết phải nói gì.

Thiên nữ nói:

- Bậc kỳ cựu đại trí như ngài Xá Lợi Phất sao lại lặng thinh?

- Sự giải thoát vượt ra ngoài ngôn thuyết văn tự cho nên tôi không biết phải nói gì.

- Văn tự ngôn thuyết là tướng giải thoát đấy chứ! Vì sao? Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở trung gian. Văn tự cũng không ở trong, không ở ngoài, cũng không ở trung gian.

Thế cho nên không rời văn tự mà nói giải thoát thưa ngài Xá Lợi Phất! Bởi vì sao? Vì tất cả các pháp là tướng giải thoát.

- Không xa lìa dâm nộ si vẫn được giải thoát sao?

- Đúng vậy. Phật vì hạng người tăng thượng mạn nói: Phật xa lìa dâm nộ si để được giải thoát. Nếu không phải hạng tăng thượng mạn, Phật nói tánh của dâm nộ si là tánh giải thoát.

Ông Xá Lợi Phất là hàng Tiểu thừa nên chấp tướng sinh diệt bên ngoài mà thấy có mới có củ, có lâu có mau, có già có trẻ. Nhưng thật ra đâu có cái móc thời gian thì lấy gì làm tiêu chuẩn để đo lường. Một ngày trên cung trăng nhanh gấp mấy lần một ngày trên trái đất. Bây giờ là ngày trên đất Mỹ lại là đêm tại Việt nam. Người già 70 tuổi nầy đâu có giống người già 70 tuổi khác. Hai cây trồng ba năm như nhau mà có cây cao cây thấp. Vì thế triết lý đại thừa khẳng định là bất cứ một đời nào cũng đã ngầm chứa ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai cho nên chúng sinh chỉ cần sống an vui tự tại trong giây phút nầy mà đừng quan tâm đến quá khứ và cũng đừng lo lắng cho tương lai. Các vị A La Hán thì sợ dâm nộ si vì nó là cội nguồn của sự sa đọa, nhưng đây là lối nhìn của những người thiếu bản lĩnh, tâm còn chấp tướng sinh diệt bên ngoài. Ngược lại các vị Bồ-tát đã lìa Tướng sinh diệt mà nhập Bản Thể thanh tịnh nên tâm vô cùng tự tại cho dù họ có vào trong trà đình tửu điếm, chốn phong trần ô nhiễm thì không gì làm hại họ được. Các ngài vào nơi tội lỗi xấu xa để cứu vớt và đưa chúng sinh thoát vòng chìm đắm, khổ nạn mà không hề bị tham đắm. Vì thế đối với hàng Thanh văn thì sợ dâm nộ sát còn các vị Bồ-tát thì dâm nộ sát mới chính là giải thoát vậy.

Người tăng thượng mạn là những người kiêu căng tự phụ, có ít nói nhiều, chưa chứng nói chứng, chứng ít nói nhiều để thỏa mãn bản ngã của mình. Vì chạy theo bản ngã nên những người nầy khi gặp dâm nộ sát thì bị chìm đắm sa đọa ngay nên Phật mới khuyên họ nên tránh xa những thứ nầy. Ngược lại nếu người không còn chấp ngã, chấp pháp, tâm hằng tự tại thì dâm nộ sát sẽ là phương tiện rốt ráo đi đến giải thoát giác ngộ.

Ông Xá Lợi Phất tán thán: Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiên nữ! Cô đắc gì? Cô chứng được gì? Mà cô có được sức biện tài như thế?

- Tôi không đắc gì hết cũng không chứng gì hết nên tôi mới có được biện tài như thế. Vì sao? Bởi vì có chứng có đắc ở trong Phật pháp là người tăng thượng mạn.

Thói thường thì con người lấy bằng cấp, chứng đắc để định giá trị trong nhân quần xả hội hay nhiều người nghĩ rằng phải có chứng đắc mới có thần thông, trí tuệ, biện tài nhưng trong giáo lý Đại thừa thì khẳng định rằng vì không có chứng đắc gì cả nên mới có được những thứ như thần thông, trí tuệ và biện tài vô ngại. Tại sao? Bởi vì khi chúng sinh đạt đến đỉnh cao của trí tuệ mà con người gọi là chứng đắc thì thật ra chẳng có chứng đắc gì cả vì con người chẳng qua là quay về với cái tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình đã có vậy thôi tức là “bản lai diện mục”, trở về với Như Lai Viên Giác Diệu Tâm vốn trong sáng mầu nhiệm của mình chớ không phải nó có từ bên ngoài hay là do bất cứ một ai tặng cho mà được. Vì quả vị Phật là “vô tại vô bất tại” nghĩa là nó ở đâu cũng có mà ở đâu cũng chẳng có. Nếu con người biết dẹp tan vọng thức mê lầm, phiền não vô minh thì Bồ-đề hiễn hiện trong tâm của chúng ta ngay. Do đó người tu hành không hề mong cầu bất cứ điều gì ngay cả việc chứng đắc, vì còn mong cầu là tâm còn tham tức là còn khổ và dễ bị sa ngã. Trong thời mạc pháp ngày nay, có rất nhiều người tự xưng mình là chứng đắc thế nầy, có hào quang sáng chói thế kia hay tự cho mình là Phật sống, Bồ-tát hay Quán Thế Âm…Theo Phật giáo thì họ đều là những người lừa đảo bịp bợm, thật đáng thương xót cũng chỉ vì mù quáng chạy theo danh văn lợi dưỡng nhất thời. Còn những người nhẹ dạ tin vào những người bịp kia để được ân sủng thì cũng là những người đáng thương xót. Ngày xưa Đức Phật xuất thân là vị Thái tử danh vọng cao sang trong xả hội, nhưng khi xuất gia thì Ngài đã trở thành người khất sĩ. Khất sĩ là người phải đi xin cơm hằng ngày của tín chúng. Do đó triết lý cao thượng của đạo Phật là đi ngược lại với cuộc sống của thế gian. Cái mà thế gian xem là cao quý thì nhà Phật coi như cỏ rát, còn cái mà thế nhân không thể thực hành thì nhà Phật mới cho là cao quý. Thí dụ ngày nay có nhiều vị sư khoe mình có bằng Tiến sĩ nầy hay Thạc sĩ nọ để đề cao cái trí thức của mình. Rõ ràng đây là người tăng thượng mạn vì trí thức càng cao thì khó phát triển trí tuệ vì sự phân biệt tư tưởng trong tâm thức của họ còn quá nhiều. Tất cả bằng cấp, chứng chỉ là chuyện thế gian nằm trong vòng lẩn quẩn của vô minh, là sinh diệt, là vô thường vô ngã. Còn chân lý của Phật là xuất thế gian, là chơn tâm, là Phật tánh thì có dính dáng gì tới bằng Tiến sĩ đâu. Dầu cho có bằng Tiến sĩ mà không làm khất sĩ được nghĩa là không buông bỏ, tâm còn dính mắc thì có ích gì!

Vì thế trình độ hiểu biết của ông Xá Lợi Phất cũng chưa vượt ra cái lẽ thông thường đó.

Ông Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ:

- Ở trong ba thừa cô cầu thừa nào?

- Khi cần pháp Thanh văn giáo hóa chúng sinh tôi cầu Thanh văn thừa. Khi cần pháp nhân duyên giáo hóa chúng sinh tôi cầu Bích chi Phật thừa. Khi cần pháp Đại bi giáo hóa chúng sinh tôi cầu Đại thừa.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Vì như người vào rừng chiêm bặc chỉ ngửi hương chiêm bặc, không ngửi hương khác. Cũng vậy, nếu người vào tịnh thất nầy chỉ nghe hương công đức của Phật, không ưa nghe hương công đức của Bích Chi Phật, của Thanh văn.

Một lần nữa, ông Xá Lợi Phất lại cố chấp có thừa nầy, thừa nọ tức là chấp phương tiện. Với trí tuệ Đại thừa thì không chấp phương tiện mà chỉ cần cứu cánh. Tuy có Thanh văn, Duyên giác, hay Đại thừa thì đây cũng chỉ là phương tiện để giáo hóa cứu độ chúng sinh. Ví cũng như trăm sông cùng đổ về biển lớn cho nên tất cả cũng chỉ là Nhất thừa Phật đạo. Thí dụ như lúc bình thường thì các người tu hành nên theo Thanh văn là tránh xa đàn bà con gái giữ gìn giới hạnh, nhưng khi thấy nhà cháy mà có cô gái ở bên trong thì bây giờ không chấp luật nữa mà sử dụng tâm đại bi của Đại thừa mà nhảy vào trong nhà ẳm cô gái chạy ra. Nếu chấp theo giáo luật thì cô gái kia chắc sẽ bị chết cháy và thấy chết mà không cứu thì tu hành để làm gì? Do đó cái huyền diệu của giáo lý Đại thừa là tùy duyên, tùy cảnh mà áp dụng, mà tu hành. Không cố chấp, cứng ngắt, giam mình trong một khuông khổ cố định nào. Không chấp ngã và chấp pháp thì làm việc gì cũng thanh tịnh, không dính mắc, làm xong là bỏ.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ở tịnh thất nầy, thỉnh thoảng có Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương, Chư Thiên Long, quỷ thần vào và nghe Duy Ma Cật thượng nhân thuyết chánh pháp. Tất cả đều vui ưa hương công đức Phật phát tâm rồi đi.

Ngài Xá Lợi Phất này! Tôi ở tại tịnh thất nầy đã mười hai năm. Ngay từ ban đầu, không bao giờ nghe thuyết pháp Thanh văn, Bích chi Phật, tôi chỉ nghe pháp đại từ, đại bi của Bồ-tát và pháp bất tư nghì của Phật.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tịnh thất nầy thường hiện tám pháp chưa từng có và khó được:

1) Tịnh thất nầy thường dùng ánh sáng sắc vàng soi sáng ngày cũng như đêm mà không cần đến ánh sáng của mặt trời, mặt trăng vì mặt trời chỉ chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm còn ánh sáng vàng là ánh sáng của trí tuệ thì lúc nào cũng chiếu soi phá tan màn vô minh hắc ám.

2) Người vào tịnh thất nầy không bị các sự cấu uế làm não loạn thân tâm, giữ tâm thanh tịnh, không còn ô nhiễm tham-sân-si.

3) Tịnh thất này thường có Đế Thích, Phạm Vương và chư Bồ-tát ở phương khác đến nhóm hợp thường xuyên. Các vị trời tu phước còn Bồ-tát tu huệ nên lúc nào cũng có phước huệ song tu.

4) Ở tịnh thất này thường có thuyết giảng về lục ba-la-mật và những pháp bất thối chuyển để làm lợi ích chúng sinh vì người quên mình ngay cả nghịch cảnh trái lòng cũng không thoái bước.

5) Ở tịnh thất nầy thường ngân vang những pháp âm vi diệu, tác động cho nhơn thiên tiếp nhận tiếng nói của tâm thanh tịnh vi diệu nhiệm mầu khiến người nghe tin hiểu mà thực hành.

6) Ở tịnh thất này có kho tàng tứ đại chứa đầy các báu vật. Đó chính là tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) có khả năng ban vui cứu khổ và giúp chúng sinh được giải thoát giác ngộ.

7) Ở tịnh thất này khi Duy Ma Cật thượng nhân khởi tưởng niệm thì Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật A Súc, Phật Bảo Đức, Phật Bảo Viêm, Phật Bảo Nguyệt, Phật Bảo Nghiêm, Phật Nan Thắng, Phật Sư Tử Hướng, Phật Nhất Thiết Lợi Thành…vô lượng chư Phật trong mười phương cùng đến nói hết những pháp yếu bí tàng của chư Phật. Nói xong rồi, chư Phật trở về bản quốc. Chư Phật là muốn ám chỉ Phật tánh của chúng sinh. Khi chúng sinh nghĩ thiện, làm lành thì Phật tánh hiện còn chúng sinh làm dữ nghĩ ác thì Phật tánh biến mất.

8) Ở tịnh thất này tất cả cung điện lộng lẫy, đẹp đẽ của chư Thiên và các Tịnh độ của chư Phật đều hiển hiện ở tịnh thất nầy. Cung điện của các vị trời là phước báu, cõi tịnh độ của chư Phật là công đức. Vì thế tâm thanh tịnh chứa đầy cả công đức và phước đức cũng như bao hàm cả thế gian và xuất thế gian.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tịnh thất này thường hiện tám pháp chưa từng có, khó được như vậy. Ai đã thấy biết những việc bất tư nghì như thế mà lại còn ưa thích những pháp Thanh văn?

Mới nghe đoạn kinh nầy chúng ta nghĩ rằng khi một người tu hành chứng đắc thanh tịnh như cư sĩ Duy Ma Cật thì dĩ nhiên sẽ có nhiều vị Trời, quỷ thần…đến thăm viếng và nghe pháp. Nhưng thật ra tất cả các vị trời Đế Thích, Thiên Long hay quỷ thần chẳng qua là ám chỉ cho tâm của chúng ta. Nếu chúng ta có tâm thiện thì nó khởi ý thiện đưa đến lời nói thiện và hành động thiện thì cũng như có người, Trời, Thanh văn, Bồ-tát hay chư Phật xuất hiện trong ta rồi. Tại sao? Bởi vì nếu chúng ta luôn có chánh niệm, chánh định thì sẽ có tâm giải thoát, an lạc và hân hoan như đang nói chuyện với Thanh văn, Bồ-tát hay chư Phật vậy. Khi chúng sinh có tâm niệm lành, tu theo thập thiện thì tâm mình sẽ cảm thông với tâm của các vị Trời. Nếu chúng ta tu theo Bát chánh đạo, Tứ Diệu Đế thì tâm của chúng ta sẽ cảm thông với tâm các vị Thanh văn. Nếu sống an vui theo sáu pháp lục độ thì cũng như chúng ta đang nói chuyện với Bồ-tát hay chư Phật. Ngược lại nếu tâm của chúng ta cực tham, cực sân, cực si thì cái tâm của ta ví cũng như cái nhà của ta ở sẽ được thăm viếng bằng ngạ quỷ, súc sanh hay địa ngục. Do đó cái tịnh thất của ông Duy Ma Cật hay cái nhà của chúng ta được thăm viếng bởi Thiên Long bát bộ hay ngạ quỷ súc sanh địa ngục là đều do tâm của chúng ta biến hiện. Chính Kinh Hoa Nghiêm cũng xác định:”Vạn pháp duy tâm tạo” là như vậy.

Ông Xá Lợi Phất hỏi:

- Tại sao Thiên nữ không chuyển đổi nữ thân?

Thiên nữ nói:

- Từ mười hai năm, tôi tìm cái tướng nữ thân không có. Tôi biết phải chuyển gì? Ví như huyễn sư hóa làm người nữ huyễn. Nếu có người hỏi:”Vì sao không chuyển nữ thân”. Câu hỏi đó có đúng lý không?

Ông Xá Lợi Phất đáp:

- Không đúng. Đã huyễn thì không có tướng cố định. Biết chuyển cái gì.

Thiên nữ nói:

- Tất cả các pháp cũng như vậy. Không có tướng cố định. Thế tại sao ngài hỏi tôi:”Vì sao không chuyển đổi nữ thân?”

Liền đó, thiên nữ dùng sức thần thông biến ông Xá Lợi Phất y như Thiên nữ. Thiên nữ hóa mình y như ông Xá Lợi Phất và hỏi:”Vì sao ngài Xá Lợi Phất không chuyển nữ thân?”

Trong dáng mạo Thiên nữ, ông Xá Lợi Phất đáp:

- Tôi không biết chuyển thế nào mà biến làm thân nữ như vầy.

Thiên nữ nói:

- Ngài Xá Lợi Phất mà có thể chuyển ra thân nữ như thế thì tất cả người nữ cũng sẽ có thể chuyển được. Ngài Xá Lợi Phất không phải nữ mà hiện thân nữ thì tất cả người nữ không phải nam lại cũng có thể hiện thân nam. Ngài Xá Lợi Phất dù hiện thân nữ mà không phải nữ. Thế cho nên Phật nói:”Tất cả pháp phi nam phi nữ”.

Ngay bây giờ, Thiên nữ thâu nhiếp thần lực, ông Xá Lợi Phất hoàn hình như cũ.

Thiên nữ hỏi:

- Hình mạo nữ thân của ngài ở đâu?

- Hình mạo nữ thân của tôi không ở đâu, không đâu chẳng ở.

- Tất cả các pháp cũng lại như vậy. Không ở đâu, không đâu chẳng ở.

Cái đạo lý: không ở đâu, không đâu chẳng ở là chân lý Đức Phật đã nói ra.

Tại sao Thiên nữ lại dùng con số mười hai năm thay vì mười năm hay mười lăm năm? Mười hai năm ở đây là muốn ám chỉ cho thuyết Thập nhị nhân duyên. Đó là Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão-Tử. Chúng sinh vị bị cái màn vô minh đen tối phủ lên tâm trí bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp nên không thấu biết chân lý mà sống trong lầm lẩn, lấy khổ làm vui. Họ nghĩ rằng thân họ là chắc thật, tài sản vật chất chung quanh cũng chắc thật nên cuộc sống mới trở thành sô bồ điên đảo. Cũng vì thế mà nguyên nhân của phiền não là Ái, Thủ, Hữu mới tha hồ sinh khởi mà phải chịu trầm luân trong sinh tử luân hồi.

Trong xã hội Ấn độ thời Đức Phật còn tại thế thì vai trò của người nữ rất hạn chế. Còn đối với người Đông Phương vì chịu ảnh hưởng nặng nề của phong kiến nên người nữ sống trong những quốc gia như Trung Hoa, Nhật bản, Việt nam…cũng chẳng sáng sủa chút nào. Trai năm thê bảy thiếp còn gái thì chính chuyên một chồng. Để an ủi đạo lý Khổng Mạnh tặng cho họ huy chương “liệt nữ”. Đàn ông thì được ăn trên ngồi trước và ngày nay người đàn bà Nhật còn phải đi sau chồng họ ba bước. Ngay cả trong Phật giáo thì mặc dầu Đức Phật lúc nào cũng chủ trương nam nữ bình đẳng vì ai ai cũng đều có Phật tánh như nhau, nhưng các vị Ni phải giữ tròn tám điều luật (Bát Kỉnh Pháp) cung kính đối với chư Tăng mà ngày xưa khi dưỡng mẫu Ma-Ha-Ba-Xà-Ba được Đức Thế Tôn cho phép nhập tăng đoàn. Lý do Đức Phật chế ra Bát Kỉnh Pháp là vì muốn kiềm chế tập khí ngã mạn của dưỡng mẫu Ma-Ha-Ba-Xà-Ba cùng các vị vương phi khác để giúp quý bà phá chấp ngã mà có cơ hội chứng ngộ Thánh quả. Thí dụ dưỡng mẫu Ma-Ha-Ba-Xà-Ba vừa là vợ vua vừa là mẹ của Phật thì bà ta dễ bị tình cảm riêng tư mà làm rối loạn Tăng đoàn. Vì thế dựa theo luật trên thì một người Ni cho dù xuất gia mấy chục năm vẫn phải tôn kính vị Tăng mới thành Tỳ kheo. Theo quan niệm cổ xưa thì người nữ nặng nghiệp hơn người nam vì thế trước khi được giải thoát giác ngộ thì họ phải chuyển thân nữ thành nam.

Ông Xá Lợi Phất chấp hình tướng bên ngoài nên thấy có sự phân biệt nam, nữ hay nói rộng rãi hơn là trọng nam khinh nữ. Vì còn kẹt trong vòng phân biệt, chấp tướng nên ông chưa tự tại biến hóa trong khi đó Thiên nữ tu theo Bồ-tát đạo nên tâm không còn phân biệt chấp trước khiến cho có sức thần thông tự tại biến hiện mọi thân hình. Nếu nhìn vạn pháp qua trí tuệ thì không có tướng nữ, tướng nam vì chúng chỉ là do nhân duyên biến hiện. Mà đã là do nhân duyên thì nam, hay nữ cũng đều là giả huyễn, là sinh diệt, là vô thường vô ngã mà thôi.

Thiên nữ! Người chết ở cõi nầy rồi sẽ sanh ở đâu?

- Đức Phật hóa sanh thế nào, tôi cũng hóa sanh thế ấy..

- Sự sanh của Đức hóa Phật không có chết và cũng không có sanh.

- Chúng sinh cũng vậy. Không có chết và cũng không có sanh.

Theo tướng trạng thì có sanh có tử, có già có chết, nhưng đứng về bản thể thì bất sinh bất diệt, chỉ tùy duyên biến hiện tức là bất biến mà tùy duyên. Theo giáo lý Đại thừa thì chẳng có ai gọi là thật sinh hay thật chết cả mà chỉ hiện tượng trùng trùng duyên khởi mà thôi. Khi duyên hết thì lục đại tan rã, thành phần nào trở về với thành phần ấy. Thí dụ như đất, nước, gió, lửa và không gian thì mỗi thứ trở về với trạng thái nguyên thủy ban đầu. Và khi duyên hợp thì thần thức kết hợp với tứ đại mới để tạo thành con người mới vậy thôi. Chu kỳ tái sinh nầy tiếp diễn mãi không ngừng mà nhà Phật gọi là sinh tử luân hồi. Ngay như Đức Phật Thích Ca cũng phải trải qua ba tăng kỳ kiếp sinh tử luân hồi mới thành Phật được. Chỉ có những người có tâm thanh tịnh, tâm tịch diệt Niết bàn thì mới thoát vòng sinh tử nghĩa là họ không còn có sinh và dĩ nhiên sẽ không còn chết.

Ông Xá Lợi Phất hỏi:

- Chừng nào người được vô thượng Bồ-đề, thưa Thiên nữ?

- Chừng nào ngài Xá Lợi Phất trở lại làm phàm phu thì tôi mới thành vô thượng Bồ-đề.

- Tôi không bao giờ trở lại làm phàm phu.

- Thì tôi cũng không bao giờ được quả vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-đề “vô sở trụ” . Thế nên Bồ-đề không có cái “được”.

- Chư Phật đã được, đang được và sẽ được vô thượng Bồ-đề nhiều như cát sông Hằng. Điều đó gọi là gì?

- Đó là dựa trên văn tự và số mục của thế gian tục đế mà có ba đời, chứ không phải quả vô thượng Bồ-đề có quá khứ, hiện tại, vị lai.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ngài được quả A La Hán chứ?

- Không có được, mà được.

- Chư Phật và Bồ-tát cũng vậy. Không có được cho nên được.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với ông Xá Lợi Phất:

- Thiên nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức Đức Phật, đã được thần thông du hí, đầy đủ sở nguyện Bồ-tát được vô sanh nhẫn, trụ bất thối chuyển địa. Do giáo hóa chúng sinh, có thể hiện thân tùy theo ý muốn.

Chứng đắc Niết bàn hay quả vị Bồ-đề là “vô tại vô bất tại” nghĩa là ở đâu cũng có mà ở đâu cũng chẳng có. Nếu chúng sinh biết diệt trừ tham sân si ái dục để tâm hằng thanh tịnh thì bất cứ ở đâu và lúc nào cũng có Niết bàn, cũng có Bồ-đề. Ngược lại nếu chúng sinh chạy theo tham đắm vô minh thì ở đâu và mãi mãi vẫn trôi nổi trong sinh tử khổ đau. Nói chứng đắc là ngôn ngữ của con người để diễn tả vậy thôi chứ thật ra đâu có ai cấp chứng chỉ, cấp bằng cho ai đâu mà gọi là chứng với đắc. Ngày xưa các vị trong hàng Thanh văn nói là chứng quả A La Hán, nhưng thật ra Phật đâu có cấp bằng A La Hán cho ai đâu! A La Hán là danh từ dùng để diễn tả những ai có khả năng đoạn diệt hết kiến hoặc và tư hoặc ngay cả vi tế hoặc trong tâm thức của họ để không còn phiền não khổ đau. Khi tâm mình không còn phiền não chi phối thì chính mình có được cuộc sống an vui tự tại và cái an vui nầy chỉ có mình biết mà thôi. Vì thế ngay cả tôn giả La Hầu La là con của Phật mà cũng phải tự mình giải thoát chớ Phật ngồi kế bên cũng không giúp gì được. Cái mà con người gọi là chứng đắc chẳng qua là trở về với bản tánh cố hữu của mình tức là bản lai diện mục vậy thôi. Thí dụ như khi sanh ra đâu có ai ghiền cà phê, thuốc lá, cờ bạc rượu chè hay xì ke ma túy…Sau khi thấy nghiện nhập là khổ đau, hành thân hoại xác, tan nhà nát cửa thì phản tỉnh đi cai. Khi đã bỏ được cái thói hư tật xấu nầy thì chúng ta vui mừng đi khoe với mọi người rằng bây giờ cuộc sống của tôi rất ung dung tự tại, gia đình tràn đầy hạnh phúc. Nhưng nghĩ lại cái ung dung tự tại hay tràn đầy hạnh phúc thì nó đã có sẳn trước khi chúng ta bị ghiền chớ đâu phải sau khi cai nghiện mới có. Cho nên nếu chúng sinh biết thức tỉnh, biết hồi đầu thị ngạn tức là biết quay thuyền trở lại bến xưa thì có hạnh phúc vậy thôi. Quả vị Bồ-đề thì cũng thế, nếu đứng về tướng thì có các pháp môn để tu và có quả vị để chứng, nhưng đứng về Thể Tánh thì tất cả là một, là Không, là Chân Như, là tự tánh thanh tịnh bản nhiên có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh thì cái mà con người gọi là chứng đắc chẳng qua là trở về với cái tánh giác sẳn có của mình chớ có chứng đắc gì đâu. Chúng sinh vì sống trong trầm luân vô minh mê muội như kẻ mang dây tự trói mình, nay biết thức tỉnh, giác ngộ thì tự mình cởi trói thì gọi là giải thoát cũng như người trở lại quê củ làng xưa thế thôi.

Khi nói chư Phật đã được, đang được và sẽ được vô thượng Bồ-đề nhiều như cát sông Hằng là dựa trên văn tự, ngôn ngữ của thời gian tức là có quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhưng Bồ-đề không có quá khứ, hiện tại, vị lai nghĩa là Bồ-đề không tùy thuận thời gian.

Thí dụ như khi trái đất quay trọn một vòng thì có 24 tiếng đồng hồ tức là một ngày đêm, nhưng phi thuyền con thoi cũng bay chung quanh quỷ đạo địa cầu chỉ mất có khoảng 16 phút thì thời gian trên không gian và thời gian dưới trái đất đâu có giống nhau. Vậy thời gian nào là thời gian thật? Vì thế thời gian nghĩa là quá khứ, hiện tại, vị lai là do con người đặt ra vậy thôi chớ không có cái gì là chân thật cả. Do đó kinh mới có câu:”Như Lai giả vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ” nghĩa là Vô thượng Bồ-đề là quả vị vô thỉ vô chung. Khi mê thì thấy có Phật, có Bồ-tát, có chúng sinh, nhưng khi thức tỉnh giác ngộ thì thấy tất cả chúng sinh đều là Phật bởi vì ai ai cũng đều có Phật tánh cả.

Quả vị A La Hán hay ngay cả quả Vô thượng Bồ-đề là vô thực mà vô hư. Tại sao? Bởi vì cái quả vị A La Hán mà ông Xá Lợi Phất chứng đắc hay quả vị Phật mà Như Lai thành tựu thì không có hình tướng, không có màu sắc, không có văn tự ngôn ngữ diễn tả cho nên cái chứng đắc nầy là không thật có, không tìm đâu ra. Nhưng nếu không thật thì phải là hư? Thế mà cái chứng đắc trên lại là vô hư! Tại sao? Mặc dù không ai thấy được hình tướng của sự chứng đắc, nhưng Ông Xá Lợi Phất có được tâm thanh tịnh Niết bàn nên không còn bị vô minh phiền não quấy phá. Thế thì quả chứng đắc chính là vô hư tức là có thật. Đó chính là sắc tức là Không và Không chính là sắc vậy.

Vô thượng Bồ-đề tức là Bản Thể Chân Như của vạn pháp. Vì thế nếu chúng sinh sống đúng và hợp với chân lý của vạn pháp cũng như người trở về nguyên quán, về lại Bảo Sở Chân Như mà mình lưu lạc từ bấy lâu nay.

Tóm lại cho dù chúng sinh có mang thân nam, thân nữ hay dù chỉ tu phước như các vị trời thì ai ai cũng có thể phát tâm tu hạnh Bồ-tát để làm lợi ích chúng sinh với tâm vô cầu vô sở đắc thì tâm sẽ được thanh tịnh tức là Phật tánh hiện bày. Cốt tủy của tu hành là chuyển tâm chớ không chuyển cảnh vì thế khi tâm được thanh tịnh thì hình tướng sinh diệt bên ngoài cũng như gió thoảng mây bay thì tướng nam, nữ có gì phải bận lòng.
Chương Thứ Sáu
Phẩm Bất Tư Nghì
(The Inconceivable Liberation)

Bất khả tư nghì có nghĩa là vượt ra ngoài những khái niệm suy tư phân biệt về sự hiểu biết thông thường của con người. Vì thế sự kiện bất khả tư nghì cũng được hiểu là những hiện tượng chưa từng có, chưa từng xảy ra mà nay có.

Dựa trên định nghĩa trên thì ông Duy Ma Cật là người bất tư nghì. Ông thuyết bất tư nghì pháp và trình diễn bất tư nghì cảnh cho bất tư nghì đại chúng để khởi động bất tư nghì tâm.

Ông Xá lợi Phất thấy trong tịnh thất không có giường cũng chẳng có chiếc ghế nào. Ông bèn khởi ý nghĩ: Tịnh thất trống trơn như thế nầy, chư Bồ-tát và Thanh Văn chúng tôi sẽ ngồi vào đâu?

Biết ý nghĩ của ông Xá Lợi Phất, trưởng giả Duy Ma Cật bèn hỏi:

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! ngài vì pháp đến đây hay vì chỗ ngồi mà đến?

- Tôi vì pháp mà đến chớ không phải vì chỗ ngồi. Ngài Xá Lợi Phất đáp.

Trưởng giả Duy Ma Cật là người giàu có, vợ con tôi tớ đầy nhà nhưng ông dùng thần thông làm cho bàn ghế biến mất chỉ còn căn tịnh thất trống không. Nhà trống không tiêu biểu cho tâm thanh tịnh và bàn ghế biến mất là ám chỉ cho vạn pháp giai không. Muốn thấy được Chân lý, chúng sinh bên trong phải phá cho được ngã chấp và bên ngoài đánh tan mọi pháp chấp thì tâm được như như bất động.

Người Phật tử thông thường thì đến chùa lạy Phật vì thấy chùa đẹp, Phật to. Đây chỉ là phương tiện để gieo duyên dành cho những người sơ cơ có cơ hội quy y trở về với đạo Phật và chưa thấu hiểu đạo lý huyền diệu của liễu nghĩa Đại thừa. Vì chùa to, Phật lớn chỉ là Phật Tướng sinh diệt mà Phật tâm tức là tự tánh thanh tịnh bản nhiên bất sinh bất diệt mới quan trọng. Phật tánh là Bản Thể chân không thì không hình tướng, màu sắc, kích thước, trọng lượng thì đã có sẳn trong tâm của tất cả mọi chúng sinh. Vì thế chỗ ngồi, nơi lạy Phật là sắc tướng sinh diệt thì quan tâm làm gì cho nên khi về chùa thì ngồi đâu cũng được thậm chí ngồi ngoài hiên mà tâm thanh tịnh thì vẫn thông đạt giáo pháp như thường. Cầu pháp là tu học để thấy được Phật tâm của mình mà có được giải thoát giác ngộ thì mới là cứu cánh. Do đó từ nay về chùa nghe Pháp mới là cứu cánh chớ đừng quan tâm đến cơm chay hay cảnh chùa to Phật lớn vì người Phật tử đến với Tam Bảo thì chùa to, chùa nhỏ có khác gì nhau. Tuy nhiên cổ nhân cũng có câu:”Chùa đất Phật vàng” nghĩa là tuy là chùa tranh vách lá nhưng lại có cao Tăng đắc đạo.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! người thực tâm cầu pháp, thân mạng còn không đáng tiếc hà huống phải quan tâm nghĩ đến chỗ ngồi. Cầu pháp phải quên đi cái thân ngũ uẩn. Cầu pháp phải đóng bít kín lục căn, cắt dứt lục trần và vô hiệu hóa tất cả lục thức.

Đi nghe pháp cốt là để học chánh pháp, hành chánh pháp và sống đúng theo chánh pháp vì thế người cầu pháp cho đến thân mạng của mình cũng không tham tiếc thì chỗ ngồi có xá gì. Do đó khi đã sống đúng với chánh pháp thì không còn gì để bám víu cả ngay cả chánh pháp cũng phải bỏ, quên đi thì tâm không còn dính mắc và sẽ được an vui tự tại. Lúc đó con người mới trở về được với Căn Bản Trí tức là Vô Phân Biệt Trí nghĩa là thấy tất cả mà như không thấy gì hết hay là như không thấy gì hết mà thật ra thấy tất cả. Biết tất cả mà như không biết gì hết hay là như không biết gì hết mà biết tất cả.

Cầu pháp không cầu những phiền trược tương quan trong cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc.

Tất cả những pháp như sắc, tài, danh, lợi…là những pháp ràng buộc con người vào trong các cõi Dục, cõi Sắc và cỏi Vô Sắc thì không nên cầu.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất!

Người cầu pháp không phải vì ham quả vị Phật.

Chúng sinh đến chùa nghe pháp với tâm cầu một ngày nào đó sẽ được thành Phật, nhưng đây chỉ là giáo lý phương tiện Tiểu thừa, là giáo lý bất liễu nghĩa. Còn kinh điển giáo lý liễu nghĩa tối thượng thừa thì cầu pháp là không cầu gì hết vì bất cứ cầu việc gì cho dù đó là cầu thành Phật thì cũng là tham. Dù là tham Bồ-đề, tham Niết bàn thì vẫn là tham, vẫn còn dính mắc thì tự tánh thanh tịnh không hiễn bày. Nếu vì tham mà cầu Bồ-đề, cầu Niết bàn, cầu thành Phật…thì đã quên đi Bồ-đề, Niết bàn đã có sẳn trong chúng sinh chớ còn ở đâu nữa mà cầu. Nói một cách khác nếu cầu như vậy là chúng sinh đã bỏ mất quả vị Phật của chính mình rồi. Một khi đã quên đi quả vị Phật của mình tức là quên đi Phật tánh, quên đi tự tánh thanh tịnh bản nhiên hay là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm của chính mình thì tìm ở đâu cho có quả vị Phật. Vì thế chúng sinh đi trên con đường Bồ-tát thì làm bất cứ việc gì có lợi ích cho chúng sinh mà không cần phải cầu cho thành Phật. Khi đạt đến đỉnh cao tột cùng của trí tuệ Bát nhã Ba-la-mật thì chúng sinh nhận chân Chân lý tức là thành Phật. Cũng như trăm ngàn con sông, con suối mà nếu có được nước trong thì ánh trăng vẫn chiếu rọi được như thường. Và cho dù đồi cao núi thẳm mà không có mây đen che lấp thì bầu trời trong sáng như nhau. Nếu tâm hồn không còn phiền não vô minh thì tự tánh Niết bàn tịch diệt hiện ra mà không cần mong cầu trông đợi và khi Bồ-đề tự tánh đạt đến đỉnh cao giác ngộ thì chúng sinh là Phật chớ Phật ở đâu nửa mà cầu.

Tóm lại, dựa theo Lý Tánh tuyệt đối thì Phật Bảo cũng không cầu, Pháp Bảo cũng không đắc và Tăng Bảo cũng không trụ bởi vì trong thế giới Chân không thì Phật, Pháp, Tăng vốn là Một tức là Nhất Thể Tam Bảo thì đã có sẳn trong chúng ta. Vì thế nếu chúng sinh bỏ được tâm mong cầu, không còn ngã chấp, pháp chấp thì Chân lý sẽ hiện bày.

Cầu pháp không phải vì đam mê giáo pháp.

Giáo pháp của Như Lai chính là ba tạng kinh điển: Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng cũng chỉ là phương tiện, là ngón tay chớ không phải là cứu cánh giải thoát giác ngộ hay là ánh sáng huyền diệu của mặt trăng. Nếu chúng sinh cầu pháp, học kinh mà đam mê theo giáo pháp thì cũng như xuống bè rồi ham mê chiếc bè mà quên đi cứu cánh là đến bờ bên kia. Dầu giáo pháp có huyền diệu hay ho đến đâu cũng chỉ là phương tiện mà chúng sinh có thực hành mới được thực chứng tức là dùng bè để qua sông chớ không tham đắm say mê chiếc bè. Cũng như nương theo ngón tay để thấy ánh trăng chân lý và khi thấy được ánh sáng chân lý thì nên bỏ quên ngón tay cũng như bỏ quên chiếc bè mới có thể bước được lên bờ giác ngộ.

Cầu pháp không phải vì cảm tình với chúng Tăng.

Người Phật tử thường sống với cảm tình nên nghĩ rằng chỉ đi chùa của mình và chỉ ủng hộ chùa hay thầy của mình mà thôi. Nhưng thật ra cầu pháp là cốt để học chánh pháp, hành chánh pháp và sống theo chánh pháp cho nên bất cứ vị thầy nào nói đúng theo chánh pháp, đúng với chân lý và có thể đem lại sự lợi lạc cho việc tu học của mình thì chúng sinh thọ pháp. Cảm tình vì thương thầy, muốn bố thí cúng dường để được gọi là thí chủ hạng nhất mà không nghe được giáo pháp để tu tập hướng về giải thoát giác ngộ là mê muội, là thiếu sáng suốt, là lổ lã, là tự chuốc lấy khổ đau về sau.

Không vì thấy Khổ mà cầu pháp. Không vì đoạn Tập mà cầu pháp. Không vì chứng đắc Niết Bàn mà cầu pháp. Và cũng không vì nguyên nhân chứng đắc Niết Bàn mà cầu pháp.

Tại sao? Bởi vì pháp không phải hý luận.

Nếu nói rằng ta vì thấy Khổ, vì đoạn Tập, vì chứng Niết Bàn, vì tu Đạo mà cầu pháp thì pháp đó trở thành hý luận, không phải cầu pháp.

Đối với người tu tiểu thừa tức là giáo lý phương tiện thì họ thấy có mình tu tức là còn chấp ngã, thấy có pháp môn để tu, có chúng sinh để độ và còn Niết bàn để chứng đắc tức là còn chấp pháp nên họ còn lanh quanh lẩn quẩn trong thế giới của sắc tướng hữu vi nên không thể nào chứng nghiệm thế giới thanh tịnh vô vi được. Nói chứng đắc chứ thật ra không có chứng đắc gì cả. Tại sao? Cái mà chúng ta gọi là chứng đắc chính là “bổn tính cố hữu” hay “bản lai diện mục” tức là Phật Tánh vốn đã có sẳn trong tất cả mọi người. Chúng sinh không thấy biết nó là vì bị màng vô minh dày đặc che lấp. Nếu xóa tan được màng vô minh hắc ám nầy thì ánh sáng huyền diệu của chân lý sẽ hiễn hiện ra ngay. Nếu chúng sinh lìa xa tham đắm lợi danh thì tự tánh Niết bàn xuất hiện mà không cần phải cầu mong trông đợi gì hết. Đối với hàng tiểu thừa thì họ nhìn đời tức là thế giới hữu vi tục đế bằng nhục nhãn nên họ thấy sự sinh diệt vô thường của vạn pháp khiến tâm bất tịnh mà cố tu để cầu chứng Niết bàn ngỏ hầu tìm sự an vui tự tại. Trong khi đó giáo lý liễu nghĩa tối thượng đại thừa thì nhìn thế giới vũ trụ bằng trí tuệ Bát nhã ba-la-mật nên trong tướng Không chẳng có cái gì gọi là Khổ, chẳng có cái gì là nguyên nhân của sự khổ và dĩ nhiên tự tánh thanh tịnh bản nhiên luôn luôn có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh thì Niết bàn còn dùng vào đâu được mà cầu với chứng.

Thưa ngài Xá Lợi Phất!

Pháp là tịch diệt. Nếu biểu hiện qua hành vi sanh diệt thì đó là cầu sanh diệt, chớ không phải là cầu pháp.

Pháp là vô nhiễm. Nếu nhiễm ở pháp cho đến nhiễm Niết Bàn thế là cầu nhiễm chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không năng hành, sở hành. Nếu dụng ý hành ở nơi pháp, đó là cầu năng hành, sở hành chớ không phải cầu pháp.

Pháp không có thủ xả. Đối với pháp mà có ý thủ xả, đó là cầu thủ xả chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không có xứ sở. Nếu chấp nê xứ sở, đó là cầu xứ sở chớ không phải cầu pháp.

Pháp là vô tướng. Nếu dựa trên tướng để nhận biết, đó là cầu tướng chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không được trụ. Nếu trụ ở nơi pháp, đó là cầu trụ chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không phải là thấy, nghe, hiểu biết. Nếu biểu hiện qua thấy, nghe, hiểu biết đó là cầu thấy, nghe, hiểu biết chớ không phải cầu pháp. Vì vậy cho nên:

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu là người cầu pháp, đối với tất cả không nên khởi ý niệm Cấu.

Pháp là tịch diệt, không sanh diệt cho nên nếu để tâm thanh tịnh thì sẽ được an nhiên tự tại. Pháp là vô nhiễm cho nên nếu còn tham đắm ngay cả chứng đắc Niết bàn thì đó là ô nhiễm. Pháp không tạo tác cho nên bất cứ việc gì có lợi ích cho chúng sinh thì làm mà làm xong thì bỏ không nhớ đến. Pháp không có thủ xả và xứ sở bởi vì người biết nhập chủng Tánh đại thừa thì chỗ nào tu cũng được. Tu nhà cũng tốt, tu chợ cũng hay và tu chùa cũng tiện. Thật ra tu nhà hay tu chợ thì khó hơn tu chùa bởi vì ở nhà và ở chợ thì gặp nhiều cảnh trái ý nghịch lòng và tiếp xúc nhiều chúng sinh xấu ác nên có nhiều cơ duyên thực hành Bồ-tát đạo. Pháp là vô tướng vì nếu còn chấp có tướng giàu nghèo, cao thấp, đẹp xấu là tâm còn phân biệt, chấp trước, không bình đẳng. Pháp không được trụ ở bất cứ pháp môn nào mà phải tùy thuận theo chúng sinh mà hoan hỷ hướng dẫn họ tu hành. Căn cơ chúng sinh sai khác nên nếu ai thích niệm Phật thì cùng họ niệm Phật, ai muốn tham thiền thì cùng họ tham thiền nhập định, ai muốn trì chú thì cùng họ tu trì thần chú mật ngữ. Pháp môn nào cũng tốt cả như trăm sông cùng đổ về biển lớn là giải thoát giác ngộ.

Dựa theo giáo lý Tiểu thừa tức là pháp sắc tướng sinh diệt thì thấy cuộc đời khổ đau nên họ cầu vui, cầu hạnh phúc. Mà có cầu, có xin là tâm còn tham đắm. Nhưng dựa theo triết lý Đại thừa thì khi chúng sinh làm một việc thiện thì chính họ đã có sự lợi ích rồi. Bởi vì làm việc thiện thì tâm thức được tự tại, thân tâm được an vui và dĩ nhiên luật nhân duyên quả báo sẽ tự động đền bù cho họ những phước đức sau nầy cho dù họ có cầu hay không. Thêm nữa chúng sinh thường hồi hướng việc làm tốt của mình cho mọi loài chúng sinh để cùng sớm thành Phật đạo. Một lần nữa tư tưởng nầy chỉ áp dụng cho giáo lý tiểu thừa tức là giáo lý phương tiện vì chúng sinh còn cầu mong sớm được thành Phật. Giáo lý tiểu thừa thì nương vào năng cầu sở cầu, năng nguyện sở nguyện mà một khi còn năng nở thì con người vẫn còn vướng mắc vào vòng bất ý, bất toại nguyện. Ngược lại giáo lý liễu nghĩa đại thừa thì không cần phải hồi hướng, không mong cầu bất cứ việc gì ngay cả quả vị Phật vì bản nguyên chúng sinh đã là Phật rồi.

Nói tóm lại, cầu pháp theo tinh thần Đại thừa là không cầu một cái gì hết vì nếu chúng sinh biết học chánh pháp, biết hành chánh pháp và biết sống theo chánh pháp thì trong ta đã có đầy đủ những đức tính Thường, Lạc, Ngã, Tịnh rồi. Bởi vì các pháp không sanh không diệt nên nói là Thường, lúc nào cũng an nhiên tự tại nên gọi là Lạc, là chủ sinh là muôn pháp nên gọi là Ngã và không bị cấu nhiễm nên gọi là Tịnh. Thêm nữa, Bồ-đề và Niết bàn là vô tại vô bất tại tức là nó không có ở đâu hết mà không ở đâu chẳng có Bồ-đề, Niết bàn. Nó không có trong con người nào hết nhưng không có con người nào là không có Bồ-đề, Niết bàn. Do đó kinh nói :”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là một khi tâm mình đã tịnh thì thế giới chung quanh mình sẽ là cõi Tịnh độ. Vì thế nếu tâm đã thanh tịnh thì có Bồ-đề, Niết bàn mà khỏi phải cầu cái gì hết. Còn tâm không thanh tịnh thì có cầu cũng không bao giờ có. Cũng như khi đào ao thì khỏi phải trông chờ trăng sao gì hết, miễn là cái ao làm xong có nước trong đứng lặng thì trăng sao sẽ rọi vào mà thôi.

Ông Duy Ma Cật nói xong những điều trên, bấy giờ có năm trăm thiên tử đối với các pháp có được cái nhận thức thanh tịnh (đắc pháp nhãn tịnh).

Các vị trời nhờ tu mười điều thiện mà có phước báo lành. Nay nhờ nghe được những lời mầu nhiệm của ông Duy Ma Cật mà thấy được thế giới của Bản Thể Chân Như thì tâm không còn mong cầu tham đắm mà chỉ thực hành Bồ-tát đạo cho được viên mãn. Họ như người mù được sáng, người mê được tỉnh và thấy được chân lý.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi Bồ-tát Văn Thù rằng:

- Nhân giả từng vân du vô lượng vô số cõi nước. Ngài biết cõi Phật nào có tòa sư tử đẹp nhất do công đức trang nghiêm thành tựu?

- Có. Thưa cư sĩ. Bồ-tát Văn Thù đáp.

Ở về phương Đông, từ đây phải trải qua ba mươi sáu hằng hà sa nước, có thế giới tên Tu Di Tưởng, đức Phật ở cõi nước đó hiệu Tu Di Đăng Vương đang trụ thế. Thân Phật lớn hơn tám muôn bốn ngàn do tuần. Tòa sư tử của Phật cũng cao tám muôn bốn ngàn do tuần, lộng lẫy trang nghiêm bậc nhất.

Ông Duy Ma Cật vận dụng hiện sức thần thông khiến ba muôn hai ngàn tòa sư tử lộng lẫy trang nghiêm cao rộng tự chuyển vào trong tịnh thất của ông trong khoảnh khắc.

Chư Bồ-tát, các đệ tử, Đế Thích, Phạm Thiên nghĩ rằng việc nầy từ trước đến nay chưa từng thấy. Chu vi ngôi tịnh thất hữu hạn chừng ấy, lại bao dung cả ba muôn hai ngàn tòa sư tử đồ sộ thế kia mà không chướng ngại gì nhau. Thành Tỳ Xá Ly cũng có chừng mực phạm vi của nó thế mà mọi hiện trạng đều y nguyên như cũ, không chật chội hơn chút nào!

Cư sĩ Duy Ma Cật bây giờ mới bắt đầu biểu diễn chân lý Bất khả tư nghì giải thoát. Giải thoát Bất tư nghì là sự giải thoát mà chỉ có một mình mình biết và một mình mình hay mà thôi. Người kế bên cũng không hề cảm biết ngoại trừ những bậc có trí huệ tức là trình độ nhận thức chân lý và trình độ trí tuệ tu tập ngang nhau thì mới biết được. Nhưng người học Phật nếu muốn thể nhập sâu sắc chân lý huyền diệu nầy mà không bị rơi vào mê tín dị đoan và có thể cắt nghĩa được những Bất Tư Nghì Sự của Bồ-tát thi thố để hiểu đúng những Bất Tư Nghì Pháp của Bồ-tát nói và có thể thật thấy mà không phải thấy thật những Bất Tư Nghì Cảnh Giới mà Bồ-tát trình diễn thì tuyệt đối không được khởi niệm tin rằng ông Duy Ma Cật có tài phép biến hóa như một nhà ảo thuật hay một vị thôi miên, phù thủy.

Bồ-tát trụ trong Pháp Môn Bất Tư Nghì nên có thể làm tất cả việc Bất Tư Nghì bởi vì Bồ-tát biết sử dụng Quán Trí Bất Tư Nghì để thấy và biết rõ tánh duyên khởi huyền diệu của vạn pháp. Vì thế khi nói đến Bất khả tư nghì mà chúng sinh không vận dụng công phu trong việc “Tư Duy” “Quán Chiếu” để thể nhập Thập Huyền Duyên Khởi thì không thể nào hiểu đúng được tông chỉ mục đích của kinh.

Thập Huyền Duyên Khởi là mười sự duyên khởi huyền diệu của tất cả vạn pháp trong thế giới nhân sinh vũ trụ nầy mà được giải thích trong bộ Kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao và bộ Tham Huyền Ký của ngài Hiền Thủ. Đó là:

1)Đồng Thời Cụ Túc Tương Ưng: Trong mỗi một pháp nào đồng thời cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ trụ. Thí dụ một giọt nước có đủ của muôn ngàn sông biển.

2)Nhất Đa Tương Dung Bất Đồng: Nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau mà không phá hoại cái tướng riêng biệt của mỗi vật. Thí dụ như có ngàn cây nến đang cháy trong một gian phòng, nhưng ngọn đèn này lẫn hiệp với ngọn đèn kia mà ngọn đèn nào cũng có ánh sánh riêng của nó.

3)Chư Pháp Tương Tức Tự Tại: Pháp nầy dung thông pháp kia và pháp kia dung thông pháp nầy tức là trong pháp nầy hàm chứa chủng tử của tất cả pháp kia và trong pháp kia có chứa chất liệu chủng tử của chất nầy. Vì thế chủng tử của vạn pháp trùng trùng duyên khởi cho nhau, tương tức tương nhập một cách tự tại. Thí dụ như chất vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời nhau.

4)Quảng hiệp tự tại vô ngại: Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa hẳn là lớn. Một vật gọi là nhỏ, chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái Lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mảy lông có thể chứa cả càn khôn vũ trụ mà không chật. Nói một cách khác, trong pháp giới, sự sự đã vô ngã, dung thông thì quan niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những danh từ suông.

5)Nhân Đà La Võng Cảnh Giới: Nhơn-đà-la tức là phiên âm chữ Indra là cõi trời Đế Thích. Theo Bà-la-môn giáo thì trên cõi trời Nhơn-đà-la có các màn lưới bằng bửu châu; mỗi hạt bữu châu chói hiện đến muôn trượng, hạt này, hạt khác chói sáng lẫn nhau lớp lớp không cùng tận. Pháp môn nầy thì cũng thế. Trong mỗi pháp có nhiều pháp khác và trong nhiều pháp khác lại có nhiều pháp khác nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng vô tận. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:”Tất cả thế giới đều như thế giới màn lưới Nhơn-đà-la.

6)Vi Tế Tương Dung An Lập: nghĩa là rộng hẹp tự tại vô ngại. Dù vật nhỏ cách mấy như một mảy may hay ở một điểm vi tế nào cũng hàm dung chất liệu của tất cả hiện tượng vạn pháp. Thí dụ như một giọt nước thì bao gồm bởi nhiều hạt nước, mà mỗi hạt nước gồm nhiều hóa chất. Mỗi hóa chất gồm biết bao nguyên tử và mỗi nguyên tử thì gồm nhiều điện tử và cái nhân. Mỗi thứ đều dung nhau và an lập trong nhau.

7)Bí Mật Ẩn Hiện Câu Thành: Nghĩa là một pháp có nhiều phương diện, khi phương diện này hiện thì phương diện kia ẩn và khi phương diện kia ẩn thì phương diện nầy hiện. Trong ẩn có hiện, trong hiện có ẩn, ẩn hiện đắp đổi nhau mà thanh tựu. Sự ẩn hiện cũng không nhất định cái nào sau cái nào trước, cũng không ngăn ngại chống đối nhau. Thí dụ có một pho tượng bằng vàng. Nếu chúng ta chú ý đến vàng thì không chú ý đến cái đẹp của pho tượng. Ngược lại khi chú ý đến cái đẹp của pho tượng thì không chú ý đến chất vàng. Nói tóm lại, khi cái đẹp hiện thì vàng ẩn và khi vàng hiện thì cái đẹp ẩn.

8)Mười Đời Cách Pháp Dị Thành: Đây muốn nói thời gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua tương lai, nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành tựu một cách dễ dàng. Đáng lẽ ra chỉ nói quá khứ, hiện tại và tương lai là đủ, nhưng muốn chia một cách rốt ráo, tinh vi thì Kinh chia làm mười đời. Đó là trong quá khứ cũng gồm có quá khứ, hiện tại, vị lai, trong hiện tại và tương lai cũng thế. Như vậy có tất cả chín đời, nhưng nếu chia nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ với nhau thì cũng không có ý niệm với thời gian. Vì thế cho nên ngoài chín niệm riêng biệt cộng thêm một niệm tổng quát thành ra mười.

9)Chủ, bạn,viên minh công đức: Nếu ta lấy một pháp làm chủ thì các pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy công đức, lớp lớp không cùng tận. Thí dụ như mặt trăng sáng trên không trung chiếu rọi khắp sông ngòi, đồi núi, ao hồ làm cho cảnh vật khắp nơi càng thêm rạng rỡ.

10)Thác Sự Hiểu Pháp Sanh Giải: Nghĩa là nhờ Sự mà hiểu được Lý, nhưng khi Lý đã rõ thì Lý lại lan rộng làm cho chúng ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác. Thí dụ như vết dầu lan ra trên mặt nước, chỉ một tia lửa có thể bừng cháy rất xa.

Thập Huyền Duyên Khởi giúp chúng sinh có được một cái nhìn sâu xa về sự duyên khởi của tất cả vạn pháp trong thế gian vũ trụ nầy. Theo tinh thần của Hoa Nghiêm thì giải thoát mà vẫn không phá hoại thế gian tướng nghĩa là không phải phủ nhận thế gian tướng mà có thể tìm thấy giải thoát ở một nơi nào khác. Nói một cách khác nếu chúng sinh phân biệt được chân, vọng để khử trừ điên đảo khiến cho tâm được thanh tịnh thì có giải thoát. Có thấu hiểu Thập Huyền Duyên Khởi thì khi đọc đến phẩm Bất Tư Nghì mới không còn nghĩ rằng Bồ-tát làm những chuyện phi lý, ảo tưởng, hoang đường.

Trong Phật giáo thì sự phát triển trí tuệ tùy theo khả năng nhận biết chân tướng của nhân sinh vũ trụ.

1)Đối với phàm nhân thì họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng nhục nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có hình sắc, kích thước, âm thanh, mùi vị…thì họ cho là thật. Họ tin thân mình là thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ trụ là thật nên còn chấp pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời.

2)Nhất Thiết Trí: Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn như phàm nhân mà họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy thân mình là không thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội nguồn của những nổi khổ nên họ cố tu để chứng đắc sự an lạc của Niết bàn và tìm sự giải thoát quả vị Bồ-đề. Chẳng những nhìn thân mình không thật mà họ còn nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không thật nên chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm. Vì thế hàng Thanh văn thì chấp ngã không còn tức là Ngã Không, nhưng vì còn thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có đạo quả Bồ-đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là Pháp có. Cho nên cái trí tuệ của họ không phải là trí tuệ giải thoát tự tại mà vẫn còn dính mắc của Pháp nên trí tuệ nầy là Nhất Thiết Trí.

3)Đạo Chủng Trí: Đối với các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian vũ trụ bằng Tuệ nhãn tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật để thấy rằng ngũ uẩn giai không. Dưới mắt của họ thì thế gian vũ trụ là do duyên khởi tạo thành nên tất cả đều là giả huyễn, là không thật, là Không. Vì ta là giả, là không thật nên họ có ngã không. Ta không thật thì người và thế gian vạn vật cũng không thật nên họ có pháp không. Nói một cách tổng quát dưới mắt của Bồ-tát thì thế gian vũ trụ là Không. Mặc dù biết thế gian là Không, nhưng Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên tâm không được hoàn toàn tự tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng suốt triệt để nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí.

4)Nhất Thiết Chủng Trí: Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì vẫn còn chấp Không. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có và chấp Không tức là không còn chấp có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp thế gian vũ trụ là Không thì có được trí tuệ viên mãn, dung thông tự tại mà nhà Phật gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng Trí thì thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là không của cái trống không. Vì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã chia ly thì vạn pháp diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà người được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên không cần phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ nhận tất cả như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp nầy có mà không phải có thật. Mặc dầu không phải có thật mà hiện giờ nó vẫn có vì thế nên người có Nhất Thiết Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù chúng sinh là không có thật. Đây chính con đường trung đạo dung thông giữa cái Có và cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái trí tuệ nầy.

Khi Bồ-tát trụ Bất Tư Nghì Giải Thoát để làm những việc Bất Tư Nghì là cách vận dụng ngôn ngữ để chuyên chở trí tuệ Bất Tư Nghì của con người đã thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí tức là trí huệ của một vị Phật, của một bậc Chánh đẳng Chánh giác.

Cách nay trên mấy ngàn năm khi khoa học chưa phát triển như ngày nay mà Đức Phật Thích Ca đã cho chúng sinh một khái niệm về thế giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận. Ngài thường ví mỗi thế giới như một hạt cát của sông Hằng. Trong kinh nầy Bồ-tát Văn Thù đại diện Phật mà nói rằng ở về phía hướng Đông cách trái đất của chúng ta ba mươi sáu lần cát của sông Hằng thì có một quốc độ là Tu Di Tưởng và Đức Phật hiệu là Tu Di Đăng Vương Như Lai.

Kinh điển Phật giáo Đại thừa, mỗi khi giới thiệu một vị Phật hay một vị Bồ-tát thì kinh thường ám chỉ một đức tính cao quý, một ý nghĩa thiêng liêng huyền diệu như trong phẩm Bồ-tát có nói đến Đức Nan Thắng Như Lai. Trong phẩm nầy, kinh lại giới thiệu Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai nghĩa là ngọn đèn vua tức là ngọn đèn sáng nhất, chiếu soi xa nhất và cao nhất trên núi Tu Di. Nhưng thật ra tất cả những đức tính trên là muốn ám chỉ cho Chân tâm, Phật tánh bất sanh bất diệt sáng soi vô cùng vô tận có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh.

Mỗi tòa sư tử cao rộng 84,000 do tuần mà một do tuần dài 30 km. Cho nên tòa sư tử cao rộng 2,520,000 cây số vuông. Vậy mà ông Duy Ma Cật dùng sức thần thông đem về 32,000 tòa sư tử cao rộng như thế và đặt hết vào trong cái tịnh thất của ông, ngay cả thành Tỳ Xá Ly và xóm làng cũng không chật chội hơn chút nào.

Dựa trên sự kiện này, kinh Duy Ma Cật muốn nói gì đây? Và chúng ta là người Phật tử phải tin hiểu cách nào?

Tại sao đem 32,000 tòa sư tử to lớn như thế mà đặt vào tịnh thất cho được? Phải chăng đây là chuyện ảo tưởng, hoang đường?

Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát tức là Bồ-tát đã thành tựu Bát nhã ba-la-mật. Tất cả những vật chất trong thế gian nầy mà kinh Lăng Nghiêm gọi là Sắc thì gọi là địa đại. Khi Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát cũng giống như Quán Tự Tại Bồ-tát trong Tâm Kinh đã xác định rằng:” Quán tự tại Bồ-tát hành thâm bát nhã ba-la-mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Vì thế ông Duy Ma Cật cũng hành thâm bát nhã ba-la-mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không để thấy sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc và sắc tức là không và không tức là sắc, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Trong khi đó kinh Lăng Nghiêm cũng nói thêm rằng:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Khi Bồ-tát đã có trí tuệ sáng suốt triệt để thì họ nhìn sắc tức là không. Không ở đây chính là đương thể bất không tức là không chẳng khác sắc. Vì Thể Tánh của Sắc có tính thanh tịnh bản nhiên nhưng sở dĩ nó có là tùy theo tâm lượng hay theo sự yêu cầu của chúng sinh mà ứng hiện. Cho nên nếu Bồ-tát có tâm cầu cở nào thì nó phát hiện cở ấy còn không cầu thì nó không có. Nói một cách khác là Bản Thể của vật chất là Không nghĩa là Sắc tức là Không.

Nếu đứng về phương diện sắc Tướng thì mới có sự phân biệt cao thấp, to lớn, rộng hẹp. Nhưng ở đây kinh muốn nói đến Thể Tánh tức là tánh Không của Bát nhã thì làm gì có lớn nhỏ, cao thấp. Tánh Không thì không có hình tướng, kích thước nên tất cả vạn pháp dung thông rất tự tại. Thể Tánh, Chân Không tức là Phật Tánh, Chơn Tâm là tâm thanh tịnh bản nhiên của tất cả chúng sinh. Chính cái Chơn Tâm có khả năng chuyển biến xoay vần, duyên khởi tác dụng vạn pháp vào nhau hình thành một cách mầu nhiệm mà chúng ta gọi là thần thông biến hóa. Ngày xưa các vị đại đệ tử của Phật như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... sau khi đã được tâm thanh tịnh thì tự nhiên họ cũng phát hiện những thần thông tự tại. Còn ở đây ông Duy Ma Cật đã thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí tức là trí tuệ của một vị Phật thì khả năng thần thông biến hóa còn xa biết bao, không thể nghĩ bàn.

Thêm nữa, muốn đừng hiểu đây là chuyện phi lý, hoang đường, thần thoại thì chúng sinh phải biết Quảng Hiếp Tự Tại Vô Ngại tức là rộng hẹp tự tại vô ngại mà tư duy quán chiếu về Thập Huyền Duyên Khởi để hiểu hiện tượng nầy bằng trí, thấy bằng trí cho nên thấy thật chân lý mà không phải thật thấy. Không thật thấy vì không thể nào đặt 32 ngàn tòa sư tử vào trong cái tịnh thất được, nhưng chúng có thể thấy thật là vì chúng ta thấy hiện tượng nầy bằng trí vì Nhất Đa Tương Dung tức là một và nhiều tương dung nhau, Chư Pháp Tương Túc Tự Tại nghĩa là cái nầy là cái kia và cái kia có cái nầy, Đồng Thời Cụ Túc Tương Ứng tức là một pháp có đủ, chất liệu của vạn pháp.

Vi Tế Tương Dung An Lập là bất cứ vật chất nào trong thế giới vũ trụ nầy thì cái nhỏ (vi tế) vẫn tương dung trong cái lớn và ngược lại tức là nếu chúng ta lấy một mẫu cực nhỏ của vật chất thì nó cũng bao hàm tất cả những đặc tính của vật chất ấy cho dù vật chất nầy to lớn như hành tinh vũ trụ. Thí dụ như khoa học ngày nay, chúng ta chỉ cần lấy một mẫu DNA của bất cứ con người, súc vật hay vật chất nào thì mẫu DNA nầy là bao gồm tất cả những tính đặc thù của vật chất đó. Bây giờ hãy quan sát pháp Đồng Thời Cụ Túc Tương Ứng môn. Đó là bất cứ một vật gì trong thế gian vũ trụ nầy cũng bao hàm đầy đủ tất cả những chất liệu của vạn pháp và tự nó ứng hợp, duyên khởi mà hình thành. Nói một cách khác bất cứ vật chất gì cũng từ lục đại duyên khởi mà ra. Đó là chúng phải có đầy đủ đất, nước, gió, lửa, không gian và thức mà duyên sanh và khởi sanh để tạo thành con người, cây cỏ, nhà cửa, áo quần, xe cộ, ly chén, bát đỉa, thức ăn thức uống và hành tinh vũ trụ. Khi nói là vật và tâm nhưng Bản Thể của chúng vẫn là một. Vật là hình tướng và tâm là năng lực để hình tướng có thể hoạt động. Thí dụ như khi cầm cái ly thì cái ly nầy đã có đủ đất, nước, gió, lửa, không khí và thức (năng lực) để duyên khởi mà kết thành cái ly. Còn nếu đem cái ly ra phân tích dựa theo khoa học thì nó có biết bao hóa chất như khoáng, nước, khí, đồng, kẻm, chì, oxgen…hợp lại. Bây giờ chúng ta nên biết pháp Nhất Đa Tương Dung Bất Đồng nghĩa là một là một của tất cả và tất cả là tất cả của những cái một dung nhiếp quyện chặt vào nhau. Nói một cách khác một là tất cả và tất cả là một. Trong thế giới vô cùng vô tận nầy thật ra cũng bắt đầu từ những vật chất rất vi tế mà duyên khởi tác tạo hình thành. Đây chính là sự biến hiện thay đổi của không gian và thời gian.

Ngày nay khoa học đã chúng minh sự hình thành của tất cả thế giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận cũng bắt nguồn từ sự nổ tung của một vi tử mà khoa học gọi là Vụ Nổ Lớn (The Big Bang) cách nay khoảng 13.7 tỷ năm về trước. Theo lý thuyết nầy thì tất cả vật chất và năng lượng được chất chứa trong một vi tử cực nhỏ, nhỏ hơn cả kích thước của một nguyên tử. Điểm vi tử nầy có mật độ vật chất và nhiệt độ vô hạn lớn hàng tỷ tỷ độ C (lớn hơn 1030 độ C). Vì chịu áp xuất quá lớn và độ nóng cùng cực nên vi tử nầy bị nổ tung và từ đó không gian từ từ mở rộng dựa theo tiến trình nguội dần của những phần phân tán vi tử. Dựa theo sự đo lường của khoa học thì khoảng 300,000 năm sau đó thì những nguyên tử mới được hình thành và nhiệt độ vẫn còn nóng đến 10,000 độ C. Khoảng một tỷ năm sau đó thì khí Hydrogen và Helium mới được tạo tác và những đám mây cũng như hành tinh bắt đầu xuất hiện và lực hút quân bình giữa các hành tinh cũng hình thành. Khi nhiệt độ giảm dần thì không gian cũng từ từ nới rộng và những dãy thiên hà cũng vì thế được kiến tạo cho đến ngày nay. Hiện nay thì vũ trụ vẫn còn trong trạng thái nới rộng nên sẽ có nhiều dãy thiên hà mới được tạo dựng. Khi không gian được mở rộng cùng với thời gian làm cho các dãy thiên hà di chuyễn xa nhau hơn. Để có một cái nhìn đơn giản về sự hình thành của nhân sinh vũ trụ, các khoa học gia đã giới thiệu cuốn Lịch Vũ Trụ (the Cosmic Calender) như sau: Bắt đầu từ ngày một tháng giêng thì vi tử nổ tung (The Big Bang) và dãy Ngân Hà (Milky Way) được tạo thành ngày 31 tháng giêng. Mãi đến tháng tám thì Thái dương hệ (Solar System) mới hình thành. Nhưng khoảng ngày 16 đến ngày 17 của tháng tám thì cuộc sống của các sinh vật mới hiện hữu trên trái đất nầy. Và sau đó loài người được hình thành ngày 31 tháng tám. Nhưng trong tương lai khi vũ trụ giản nở đến một kích thước cực đại thì nó sẽ bắt đầu co lại. Dấu hiệu của tận thế là khi tất cả các hành tinh và vũ trụ từ từ nguội dần và tắt hẳn cũng như mặt trời trong thái dương hệ không còn cháy và toàn thái dương hệ sẽ chìm trong bóng tối. Thế giới sẽ trở thành băng giá và tan biến vào tháng ngày 16 tháng năm năm tới của Lịch Vũ Trụ. Sau đó, vũ trụ sẽ trở nên đặc hơn, nóng hơn và sau cùng thu gọn bằng một vi tử như lúc ban đầu. Những tôn giáo thờ phượng Thượng đế thì họ lý luận rằng nếu thế gian vũ trụ bắt đầu từ một vi tử thì đây chính là điểm khởi đầu tức là thỉ? Nếu đã có thỉ thì Phật giáo làm sao giải thích nguyên lý vô thỉ vô chung? Chẳng những thế mà họ còn tự nhận Thượng đế chính là vi tử trên đã sáng tạo ra tất cả. Chỉ có Phật giáo là có quan niệm rất chính xác và tương đồng với khoa học vì Phật giáo xác định vũ trụ là vô thỉ vô chung tức là không có điểm bắt đầu hay có ngày cùng tận mà chẳng qua là những chu kỳ duyên khởi sinh diệt mà thôi. Vi tử nổ tung tạo thành vũ trụ và khi vũ trụ thu trở lại thì sẽ thành vi tử. Chu kỳ nầy xảy ra vô cùng vô tận thì cái nào là cái bắt đầu? Còn nếu nói Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ thì sau bao nhiêu tỷ năm vũ trụ thu dần nhỏ lại thành vi tử thì ai chịu trách nhiệm cho việc nầy? Thánh kinh xác định là Thượng đế đã tạo ra trái đất nầy khoảng mười ngàn năm, nhưng ngày nay khoa học đã chứng minh trái đất hiện diện trong vũ trụ nầy gần năm tỷ năm rồi. Nếu nói chỉ có mười ngàn năm thì làm sao nói xưa như trái đất được! Tóm lại, khoa học cũng chứng minh rằng khi đũ nhân duyên thì từ một vi tử mà sanh ra vũ trụ và khi hết nhân duyên thì vũ trụ bao la vô cùng vô tận cũng trở về thành một vi tử mà thôi.

Hiện tượng nầy không có gì xa lạ đối với Phật giáo. Đó chính là bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến của Pháp giới duyên khởi của đại thừa. Khi nhân duyên hòa hợp thì tạo thành con người và vũ trụ nghĩa là bất biến mà tùy duyên. Còn nhân duyên tan rã thì con người, vũ trụ sẽ trở về với bản thể ban đầu tức là tùy duyên mà bất biến. Thế thì đâu có cái gì Có và Mất đâu. Đây chẳng qua là tiến trình của Duyên Khởi mà thôi.

Khoa học thì cũng chứng minh như thế. Nguyên lý bảo tồn năng lượng xác định rằng năng lượng luôn luôn được bảo tồn tức là năng lượng không bao giờ mất mà chỉ thay hình đổi dạng (dU=dQ-dW). Thí dụ như chúng ta mở cái nút điện thì đèn sáng nghĩa là năng lượng chuyển từ điện năng sang quang năng. Một thí dụ khác là khi mở máy xay sinh tố thì máy chạy nghĩa là năng lượng chuyển từ điện năng sang cơ năng. Cũng như nước chảy của đập thủy điện là cơ năng làm cho các trục biến điện di động tạo thành điện năng. Một nguyên lý thứ hai của vật lý học xác định rằng tất cả tổng số sự bất ổn của vật chất luôn luôn tăng trưởng nghĩa là vật chất sẽ hư hoại, tan biến dựa theo thời gian (Q/T≥0). Đây chính là luật vô thường vô ngã của nhà Phật vậy.

Vì có Nhất Thiết Chủng Trí nên ông Duy Ma Cật có thể hiểu biết tất cả các pháp và Thể Tánh chân thật của nó. Khi sử dụng Nhất Thiết Chủng Trí thì ông Duy Ma Cật thấy, biết rõ ràng một pháp có đủ chủng tử, chất liệu của vạn pháp và tự nó ứng hợp lại với nhau mà hình thành. Pháp nầy hàm chứa chủng tử của pháp kia và chủng tử của vạn pháp trùng trùng duyên khởi cho nhau. Mặc dù một pháp là yếu tố cấu tạo nên vạn pháp nhưng tướng một pháp và tướng vạn pháp vốn không hai mà cũng không phải là một tức là bất nhị. Thêm nữa, ông Duy Ma Cật quán chiếu Nhân Đà La Võng Cãnh Giới để thấy biết vạn pháp tương ứng, tương túc và tương nhập tác dụng lẫn nhau như sự ánh hiện trùng trùng phản chiếu vô cùng vô tận. Do đó khi đem 32 ngàn tòa sư tử to lớn như thế vào nhà mà không hề bị chật hẹp đó chính là Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại. Tất cả những tòa sư tử vì không có tướng trạng mà chỉ là tư tưởng nên chúng không bị giới hạn bởi không gian hữu hạn nên không bị chật hẹp. Chân tâm thì vô cùng vô tận, không những đem 32 ngàn tòa sư tử mà có thể thu nhiếp cả thế giới vũ trụ vào mà không bao giờ đầy cả. Thí dụ như khi nhìn ngọn Hy Mã Lạp Sơn thì chúng ta liền đem ngọn núi to lớn nầy vào trong tâm tưởng của mình mà không thấy to lớn, chật hẹp bởi vì ngọn núi chỉ là tư tưởng chớ không phải thật có. Ở đây hàng thấp nhất là A La Hán đều đã đoạn tất cả phiền não lậu nên có được tâm thanh tịnh tức là có được Chân tâm nên ông Duy Ma Cật dùng Chủ, Bạn Viên Minh Công Đức khiến mọi người thấy biết những hiện tượng bất khã tư nghì nầy một cách rõ ràng như thật.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật mời Bồ-tát Văn Thù và chư đại Bồ-tát an tọa. Các Bồ-tát được thần thông tự biến thân cao lớn bốn muôn hai ngàn do tuần, mới lên tòa ngồi được. Các Bồ-tát tân phát ý và hàng Thanh Văn đại đệ tử đều không lên ngồi được.

Trưởng giả Duy Ma Cật mời ông Xá Lợi Phất thăng tòa.

Ông Xá Lợi Phất nói:

- Thưa cư sĩ! tòa cao quá tôi không lên được.

Trưởng giả Duy Ma Cật nói:

- Xá Lợi Phất! Ngài hãy làm lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai rồi có thể lên tòa ngồi được.

Hàng tân phát ý Bồ-tát và tất cả đại đệ tử Thanh Văn làm lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai, bấy giờ mọi người đều lên được tòa ngồi.

Quả vị Phật, trí tuệ Bồ-đề ngay cả Niết Bàn thanh tịnh không phải chỉ dành riêng cho Phật, nhưng Phật và Bồ-tát có Bồ-đề, có Niết bàn, riêng về phần Như Lai có vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn phàm phu chúng sinh thì cũng có tự tánh Bồ-đề, tự tánh Niết bàn như vậy, nhưng họ không hưởng được Niết bàn an lạc nầy và không sử dụng được trí tuệ vô thượng Bồ-đề của mình mà còn chìm đắm trong vòng sắc tài danh lợi thị phi phải quấy hơn thua tốt xấu nên phải chịu chập chùng đau khổ hàng ngày cho đến hết kiếp. Sau khi đảnh lễ đức Tu Di Đăng Vương Như Lai có nghĩa là họ đã hồi đầu thị ngạn thì họ mới có thể lên tòa ngồi được. Tại sao? Phật ví như người đã ở trên bờ còn phàm phu chúng sinh thì vốn cũng đã ở trên bờ như Phật nhưng họ vì sự tham đắm sắc dục và vô minh che lấp trí tuệ nên đã lên thuyền vượt ra biển cả mênh mông mà phải bị sóng dập gió biển trùng trùng. Bây giờ nếu nghe lời ông Duy Ma Cật mà chịu quay thuyền trở lại thì cũng có thể lên bờ và được an vui tự tại như Phật. Đó chính là hồi đầu thị ngạn tức là có hồi thuyền mới có ngày đến bến. Người học Phật nếu thấu hiểu đạo lý nầy để cảm nhận được chân lý huyền diệu của Thế Tôn mà không rơi vào mê tín dị đoan. Tuy Phật và Bồ-tát thương tất cả chúng sinh như con một của các Ngài, nhưng chính chúng sinh phải tự mình hồi đầu thị ngạn bằng cách áp dụng những chân lý nhiệm mầu của Phật. Đó chính là ba từng kinh điển giáo pháp. Đừng hiểu lầm chỉ đường để chúng sinh quay về bờ không có nghĩa là Phật ra biển đưa chúng sinh về bờ mà chúng sinh phải tự mình chèo lái dựa theo tấm hải đồ mà Đức Phật đã ban cho. Thí dụ như chúng ta muốn khai khẩn một lô đất để trồng rau cải. Phật đem cuốc xẻn đến giúp chúng ta có phương tiện và chỉ dẫn cách trồng trọt. Nếu chúng ta y giáo phụng hành thì sau vài tháng sẽ có vườn rau xanh mướt. Nói một cách khác là Phật không độ hiểu theo nghĩa cầu nguyện, cúng lạy cho ai hết mà Phật chỉ độ hiểu theo nghĩa y giáo phụng hành mà thôi. Chèo nhanh, chèo chậm là tùy theo căn cơ, sở nguyện của chúng sinh, nhưng hễ có chèo là có ngày đến bến. Tóm lại quả vị vô thượng Bồ-đề không phải dành riêng cho Như Lai, nếu các vị Thanh Văn chịu hướng về với tự tánh thanh tịnh tức là Phật tánh của mình thì sẽ có Bồ-đề ngay.

Các đại Bồ-tát thâm nhập trí tuệ Đại thừa nên không còn chấp ngã, chấp pháp. Họ lìa Sự Tướng mà nhập Bản Thể thanh tịnh nên có thần thông diệu dụng và tâm thể dung thông với vạn pháp nên không có gì ngăn ngại. Họ quán Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại mà tự biến hóa tương ứng với kích thước tòa sư tử nên mới lên tòa sư tử ngồi được. Nhưng đối với các vị Bồ-tát mới phát tâm và hàng Thanh Văn thì họ còn chấp Pháp tức là thấy có pháp môn để tu, có quả vị để chứng và còn cầu Niết bàn để được an vui tịch diệt nên chưa thâm nhập được Bản Thể thanh tịnh mà không thể dung thông với vũ trụ và hòa nhập với thiên nhiên được. Mặc dầu họ cũng có thần thông nhưng bị giới hạn. Sau khi đảnh lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai có nghĩa là họ đã lìa Tướng mà nhập Thể Tánh. Bỏ Tiểu thừa về với Đại thừa, bỏ tối về sáng, lìa vô minh về với trí tuệ hằng sáng chói của mình thì họ có được thần thông diệu dụng và tự mình biến hóa để lên ngồi trên tòa sư tử.

Ông Xá Lợi Phất nói:

- Thưa cư sĩ! Quả là việc lạ lùng chưa từng có. Diện tích của ngôi tịnh thất hữu hạn nầy mà lại có thể dung chứa hàng mấy muôn cái tòa rộng. Thành Tỳ Xá Ly, xóm làng, cõi nước đều không chật chội trở ngại gì nhau. Đây là việc chưa từng có.

Ông Duy Ma Cật nói:

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Chư Phật, Bồ-tát có pháp môn giải thoát gọi là :”Bất Khả Tư Nghì”. Nếu Bồ-tát trụ trong pháp môn giải thoát đó, có thể lấy núi Tu Di cao rộng để vào trong một hạt cải, mà núi Tu Di vẫn y nguyên trạng, hạt cải vẫn không thêm bớt chút nào. Trời Thiên Vương, Đạo Lợi, Chư Thiên không hề hay biết cảnh giới Chư Thiên đang ở trong hạt cải. Chỉ có những người đáng độ (Bồ-tát đăng địa), mới thấy biết núi Tu Di được đặt vào trong hạt cải.

Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát tức là Bồ-tát đã thành tựu Bát nhã ba-la-mật. Tất cả những cái vật chất trong thế gian nầy mà kinh Lăng Nghiêm gọi là Sắc tức là địa đại. Cho nên khi Bồ-tát lấy núi Tu Di để lọt vào trong hạt cải thì đây chính là sắc. Mà:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Vì Thể Tánh của Sắc có tính thanh tịnh bản nhiên nhưng sở dĩ nó có là tùy theo tâm lượng hay theo sự yêu cầu của chúng sinh mà phát hiện. Cho nên nếu Bồ-tát cầu cở nào thì nó phát hiện cở ấy còn không cầu thì nó không có. Nói một cách khác là Bản Thể của vật chất là Không tức là Sắc tức là Không. Do đó khi thấy hiện tượng giới như đem vật lớn đặt vào chỗ nhỏ là Bồ-tát muốn chúng sinh tư duy quán chiếu để thấy một cách triệt để là ngũ uẩn giai không.

Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát, có thể lấy nước biển cả để vào lỗ chân lông mà nước biển cả vẫn y nhiên. Các loài thủy tộc cá, tôm, rùa, rạch…không bị khuấy động. Long vương, quỷ thần, A tu la…không hề hay biết và họ chẳng bị nhiễu hại chút nào.

Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát, còn xắn lấy ba ngàn đại thiên thế giới để trên bàn tay và ném qua hằng hà sa thế giới, rồi thu về đặt lại chỗ củ mà thế giới vẫn y nhiên. Người người ở trong các thế giới kia không hề hay biết về sự đi lại của mình.

Còn Bồ-tát đem nước biển để vào lỗ chân lông hay lấy ba ngàn đại thiên thế giới để trên bàn tay là ý như thế nào?

Hai hiện tượng trên đây cũng đều là phản ảnh cho sự biến đổi của không gian vì thế chúng ta cũng có thể áp dụng câu:”Tánh thủy chơn Không, Tánh không chơn thủy, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện” nghĩa là Tánh của nước là Không, Tánh Không là nước, tự nó rất thanh tịnh, nhưng vì nhu cầu của chúng sinh mà ứng hiện. Vì nước nầy là do tinh khí và dưỡng khí hòa hợp mà thành nghĩa là nước không có tự tánh tức là Không. Khi đầy đủ nhân duyên hội tụ thì Không trở thành nước còn bình thường thì nước trang biến pháp giới mà lại thanh tịnh bản nhiên. Cho nên ở đâu cũng có nước mà nước không làm ngập lụt chết người vì tánh của nước là thanh tịnh bản nhiên. Chỉ khi nào cần và có đủ nhân duyên hội tụ thì Không thành ra nước tức là tùy chúng sinh tâm ứng sở tri lượng nghĩa là đáp ứng tùy theo nhu cầu của chúng sinh. Do đó đứng về sắc thì thấy có nước biển nhiều, nhưng Bản Thể của nước biển là Không cho nên nếu Bồ-tát quán Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại thì có thể biến hiện Thể Không của nước biển vào trong lỗ chân lông là vậy.

Còn nữa, thưa ngài Xá lợi Phất! Nếu có chúng sinh thích sống lâu ở đời, vì hóa độ họ, trong khoảng bảy ngày, Bồ-tát nói với họ là một kiếp, khiến chúng sinh kia tin nhận là một kiếp.

Hoặc có chúng sinh không thích sống lâu ở đời, vì hóa độ họ, Bồ-tát rút ngắn một kiếp nói là bảy ngày, khiến chúng sinh kia tin nhận là bảy ngày.

Những phần trên của phẩm nầy thì Bồ-tát đã biểu diễn Bất khả tư nghì giải thoát do sự thay đổi biến hiện của không gian. Bây giờ ông Duy Ma Cật muốn chứng minh thời gian cũng như không gian là vô thường vô ngã sinh diệt, là những tướng trạng tương đối, là những khuôn mẩu đặt ra để phân biệt, là giả huyễn không thật có.

Dựa theo Mười Đời Cách Pháp Dị Thành thì một đời bao gồm cả ba đời nghĩa là ngay trong đời hiện tại đã có sự hiện diện của đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Tại sao? Bởi vì đời hiện tại của chúng ta ngày nay chẳng qua là kết quả của biết bao nghiệp nhân mà con người đã tạo tác trong những đời quá khứ và cũng chính đời hiện tại nầy chúng ta đang tạo ra rất nhiều nghiệp nhân mà sẽ là kết quả cho đời tương lai. Vậy đời nào là đời thật? Vì thế đời không có gì làm tiêu chuẩn cho quá khứ, hiện tại, vi lai cả. Thí dụ như nhìn thấy một người chúng ta cho họ là năm sáu mươi tuổi. Nhưng dựa trên tiêu chuẩn nào để chúng ta kết luận như vậy? Phải chăng là nhìn thấy người nầy tóc hoa râm, mắt kém…Nhưng thật sự làm sao biết chắc người nầy năm sáu chục tuổi? Có người sáu bảy chục tuổi mà mắt vẫn sáng như sao, tóc da tươi nhuận. Còn có người mới ba bốn mươi tuổi nhưng vì cuộc sống đầu tắt mặt tối nên đầu tóc bạc phơ thì già hơn trước tuổi là chuyện thường. Do đó nếu dựa trên thời gian thì không tìm đâu cho ra tuổi. Tuổi mà con người dựa theo là tính theo sự vận chuyển của địa cầu quanh mặt trời đâu có giống tuổi của những thế giới khác. Một ngày trên không gian dài hơn một ngày dưới địa cầu rất nhiều. Ngày xưa Lưu Nguyễn ngao du chốn bồng lai mới vài năm mà khi về lại nhà củ làng xưa thì hoàn toàn thay đổi vì mấy năm tiên cảnh bằng vài trăm năm trần thế. Vậy tuổi nào là tuổi thật? Kiếp sống chết của con người không bao giờ có thể luận theo tuổi tác được. Có người chết già, có kẻ chết bệnh và có kẻ sống dở chết dở cho nên thời gian chẳng có giá trị chân thật bởi vì khái niệm thời gian chỉ là dựa trên sự vô thường chuyển biến của các pháp hữu vi. Thí dụ như ngày và đêm đâu có đồng nhất. Ngày ở Hoa kỳ tức là đêm ở Việt nam vậy thời gian cùng một thế giới nhỏ nầy mà không giống nhau thì làm sao gọi là chân lý.

Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát, Bồ-tát lấy những sự trang trí đẹp đẽ của tất cả cõi Phật nhóm lại ở một chỗ chỉ bày cho chúng sinh xem thấy rõ ràng. Bồ-tát lấy tất cả chúng sinh và cõi Phật để trên bàn tay bay đến khắp mười phương, chỉ rõ cho tất cả mà “bổn xứ” không hề động chuyển.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Những món đồ cúng dường chư Phật trong mười phương, Bồ-tát có thể đem vào trong một lỗ chân lông khiến cho ai cũng có thể được thấy.

Mười phương cõi nước có bao nhiêu nhật nguyệt, tinh tú gom về trong một lỗ chân lông, khiến cho xem thấy dễ dàng.

Mười phương thế giới có bao nhiêu gió, Bồ-tát hớp vào miệng mà thân không hề tổn hại. Tất cả cây cỏ bên ngoài không bị gãy đổ.

Mười phương thế giới, khi kiếp tận, lửa cháy ngút trời, Bồ-tát hút tất cả lửa vào trong bụng mà thân không bị tai hại.

Bồ-tát có thể lấy một cõi Phật ở hằng hà sa thế giới ở hạ phương, cầm đem lên cách hằng hà sa số thế giới ở thượng phương như cầm một que tăm găm vào một là táo, không khó khăn mệt nhọc chút nào.

Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát, Bồ-tát có thể dùng thần thông hiện thân Phật, hoặc hiện thân Bích Chi Phật, hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Chuyển luân Vương.

Lại nữa, trong mười phương thế giới có bao nhiêu thứ âm thanh, thượng, trung, hạ đều có thể biến thành âm thanh Phật, diễn nói những pháp của chư Phật trong mười phương đã nói như vô thường, khổ, không và vô ngã khiến cho chúng sinh hữu duyên đều được nghe.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tôi lược nói về thần lực bất khả tư nghì giải thoát của Bồ-tát là thế. Nếu nói rộng suốt kiếp cũng không nói hết được.

Cũng như lửa cháy ngút trời mà Bồ-tát hớp vào miệng mà thân không hề tổn hại. Nếu nhìn bằng nhục nhãn thì làm sao hớp lửa ngút trời vào trong bụng cho được, nhưng ở đây một lần nữa Bồ-tát không nhìn vật chất bằng nhục nhãn mà nhìn bằng mắt trí tuệ bát nhã ba-la-mật thì thấy lửa tức là Không và Không tức là lửa (Tánh hỏa chơn Không, Tánh Không chơn hỏa). Thanh tịnh bản nhiên là lửa ở khắp trong vũ trụ mà không làm cháy ai hết, nhưng nếu chúng sinh tâm ứng sở tri lượng tuần nghiệp phát hiện thì nếu con người cần lửa thì nó mới cháy. Thí dụ như ánh sáng mặt trời là một dạng của lửa thì có cháy ai đâu, nhưng chỉ khi nào chúng ta đem kính lúp đặt dưới ánh sáng mặt trời thì sẽ có lửa cháy ngay.

Nói chung những hiện tượng trên giúp chúng sinh tư duy quán chiếu về địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đạo và thức đại. Tất cả đều là Không mà Không chẳng khác có và có chẳng khác Không vậy. Nói một cách khác lửa chẳng khác Không và Không chẳng khác lửa.

Thêm nữa, khi Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát hiện các thân Phật, Bích Chi Phật, Phạm Vương…hay biến cả các thứ âm thanh to nhỏ thành tiếng Phật thì tất cả hiện tượng nầy đều là Sắc. Mà:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Dù biết thân Phật, thân Bích Chi Phật, ngay cả âm thanh hay tiếng Phật là giả huyễn mà Bồ-tát vẫn biến hiện các hình tướng thích hợp với hoàn cảnh mà hoằng dương Phật pháp. Họ dùng phương tiện để giúp chúng sinh tìm về với cứu cánh giải thoát giác ngộ.

Nếu chúng sinh biết tư duy quán chiếu để thấy biết rằng vũ trụ là do sự tạo thành biến hiện của không gian và thời gian, nhưng không gian và thời gian là giả huyễn, là vô thường vô ngã, sanh sanh diệt diệt. Khác hẳn với hàng Thanh Văn vì thấy thế gian vũ trụ là sinh diệt nên họ cố tu để mong chứng quả vị Bồ-đề và cầu sự tịch diệt an lạc của Niết bàn nên họ còn chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì chấp Không vì đối với họ vạn pháp giai Không tức là không có gì trên đời là thật có cả. Ở đây chúng sinh nên bắt chước chư Phật để xóa tan những tư tưởng về chấp Pháp và chấp Không mà nhận biết rằng vạn pháp tuy là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là không của cái trống không. Khi nhân duyên hòa hợp thì vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã thì vạn pháp diệt cho nên tuy vạn pháp sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà chúng sinh vẫn luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh nầy. Cùng lối nhìn như Bồ-tát để thấy rằng con người, vạn pháp là Không nghĩa là không thật có mà hiện giờ nó vẫn có vì thế con người nên làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù họ là không có thật.

Nếu biết áp dụng huyền nghĩa của đoạn kinh nầy vào trong cuộc sống thì con người sẽ không còn chấp Tướng tức là hình sắc, âm thanh, ngôn ngữ, lời nói, văn tự…thì cuộc sống sẽ an vui tự tại, không còn ràng buộc khổ đau. Nếu không chấp vào hình tướng thì con người sẽ không còn quan trọng đến nhà sang, xe đẹp, áo lụa quần là, se sua chưng diện xa hoa…mà chỉ cần đứng đắn chỉnh tề, tâm tư thanh thoát và ung dung tự tại. Nếu không chấp âm thanh, lời nói, văn tự vì chúng là giả huyễn, là sinh diệt thì con người sẽ dững dưng trước lời khen tiếng chê và xem những tiếng thị phi như gió thoảng ngoài tai mà hướng tâm thanh tịnh để thấy rằng:”Nhất thế sắc giai thị Phật sắc, nhất thế thanh giai thị Phật thanh” nghĩa là nếu có tâm thanh tịnh thì tất cả hình tướng đều là hình tướng Phật và tất cả âm thanh đều là âm thanh Phật.

Ngài Đại Ca Diếp sau khi nghe pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, rất hoan hỉ, tán thán và nói với ông Xá Lợi Phất rằng:

- Ví như sắc tượng hiện hữu ngay trước mắt người mù nhưng người mù không sao thấy được. Cũng vậy, với pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, hàng Thanh Văn dù có nghe nhưng cũng không hiểu rõ được.

Người trí ai nghe mà chẳng phát tâm vô thượng Bồ-đề.

Hàng Thanh Văn chúng ta vì sao lại dứt hẳn hạt giống đại thừa để cho mầm tược cháy khô. Tất cả hàng Thanh Văn nghe pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, nên khóc rống lên đi! Khóc cho vang động cả ba ngàn đại thiên thế giới! Còn tất cả các Bồ-tát, những người chủng tánh đại thừa nên hân hoan tiếp thụ, kê đầu đội lấy pháp môn nầy.

Bồ-tát tin và hiểu pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, tất cả các ma dù có thể lực bao nhiêu đi nữa cũng không làm gì động chuyển.

Ngài Đại Ca Diếp nói xong. Khi bấy giờ có ba muôn hai ngàn thiên tử phát tâm vô thượng Bồ-đề.

Các vị Thanh văn tuy chứng quả A La Hán và được ra khỏi sinh tử luân hồi nhưng tâm vẫn còn chấp trước nơi pháp Tiểu thừa nên chưa được giải thoát rốt ráo. Sau khi nghe Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát làm Bất tư nghì sự và trình diễn Bất tư nghì cảnh giới thì như người mê chợt tỉnh, bỏ tối tìm sáng mà phát tâm vô thượng Bồ-đề để quay về với chân lý liễu nghĩa tối thượng đại thừa.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với ngài Đại Ca Diếp:

- Thưa nhân giả! Trong thập phương vô lượng A tăng kỳ thế giới, những người làm ma vương phần nhiều là Bồ-tát trụ bất khả tư nghì giải thoát, dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh mà hiện làm ma vương như vậy.

Lại nữa, thưa ngài Ca Diếp! Bồ-tát trong mười phương nhiều vô số. Có khi người ta theo các ngài để xin mắt, mũi, tay, chân, máu thịt, xương tủy, đầu óc…Xin quốc thành thê tử, tượng mã, kim ngân…xin cả y phục và thức ăn. Người xin như vậy, phần nhiều là Bồ-tát trụ bất khả tư nghì giải thoát dùng sức phương tiện để thử thách hạnh sở hành của Bồ-tát khiến cho sức kiên cố càng thêm kiên cố.

Thử thách như vậy để làm gì?

Bởi vì Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát có nghị lực và uy đức lớn lao cho nên dùng những hành động bức bách dồn ép làm những việc khó làm để biểu thị sức tinh tấn, chỉ bày đức nhẫn nhục…vì sự nghiệp giáo hóa chúng sinh.

Hạng phàm phu hạ liệt không có uy lực, không thể kham chịu những sự bức bách nghiệt ngã như Bồ-tát được. Ví như sức lừa không chịu nổi sự dẫm đạp của long tượng.

Thông thường ma quỷ là những hình bóng, hiện tượng kỳ quái xuất hiện khiến cho con người lo sợ, khiếp đảm làm cản trở chướng ngại sự tu hành. Nhưng ở đây chính các vị Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát lại thị hiện làm ma vương để dùng phương tiện mà giáo hóa chúng sinh. Thí dụ như có người phát nguyện tu bố thí ba-la-mật để phát triển chủng tử từ bi đại thừa thì ma vương thị hiện đến xin từ ngoại tài như vàng bạc, châu báu, thức ăn, áo mặc cho đến nội thân như chân tay, mắt, mũi…cốt là để thử thách người đó có thực hành hạnh bố thí như họ đã phát nguyện không. Ma vương cũng thị hiện đến quấy phá những người tu hạnh nhẫn nhục, quấy nhiễu những kẻ tu thiền, làm phân tâm những người niệm Phật. Ngày xưa lúc Đức Phật tu dưới cội Bồ-đề sắp thành ngôi Chánh giác thì Ma Nữ cũng xuất hiện rất nhiều để thử thách lòng kiên cố, tâm kiên nhẫn và ý chí sắc đá của Ngài.

Thật ra ma vương mà kinh nầy muốn ám chỉ chính là lục dục thất tình núp thật sâu vào trong tâm thức của tất cả chúng sinh. Đó chính là tham-sân-si, mạn, nghi, tà kiến…những ảo tưởng của thị dục, những thói hư tật xấu luôn thúc đẩy con người lún sâu vào vòng tăm tối, xấu xa. Khác hẳn với hàng Thanh văn hay phàm nhân thì sợ nghịch cảnh, không dám đối diện với cảnh trái ý nghịch lòng, ở đây Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát thị hiện làm ma vương để giáo hóa chúng sinh tu trong nghịch cảnh. Có đối diện với nghịch cảnh, biết mặt thật của cuộc đời thì con người mới nung nấu chí nguyện của mình trở thành sắc đá, tăng trưởng tâm nhẫn nhục, phát huy lòng từ bi, đạo đức làm nền tảng cho tâm được thanh tịnh mà có trí tuệ sáng suốt. Vì thế người xưa cũng có câu:”Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Thật vậy, lửa có cao mới biết vàng nhiều tuổi, có vào hang cọp mới bắt được cọp con. Bồ-tát thì phải làm cho được những việc khó làm. Cố gắng tích cực chế ngự nghịch cảnh, vượt qua mọi khó khăn, cứu giúp tất cả chúng sinh mà không chán nản mệt mỏi và không hề bị dòng đời lôi cuốn. Bồ-tát luôn vận dụng trí tuệ để đáp ứng mọi yêu cầu, sang bằng mọi thử thách để hoàn thành hạnh nguyện. Khác với các vị A La Hán thấy đời vô thường vô ngã sinh sinh diệt diệt nên cố tu tìm giải thoát tịch diệt Niết bàn và mong chứng quả vị Bồ-đề, ông Duy Ma Cật vạch ra một con đường sáng là lấy gia đình xã hội làm đạo tràng tu thanh tịnh, lấy chúng sinh làm đối tượng tu học, lấy nghịch cảnh làm phương châm giáo hóa. Ngay trong cảnh phiền não ô trược, xã hội phức tạp mà chúng sinh vẫn có được Niết bàn cũng như hoa sen thơm ngát vươn lên trong bùn tanh hôi hám. Còn quả vị Vô thượng Bồ-đề thì chúng sinh cũng không cần mong cầu trông đợi vì tự tánh Bồ-đề thì lúc nào cũng có sẳn trong mọi chúng sinh. Nếu con người chịu lìa xa vọng chấp, tâm không còn dính mắc và hướng về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình tức là hồi đầu thị ngạn để quay thuyền trở lại bến thì ai ai cũng có ngay Phật tánh, chơn tâm nghĩa là Bồ-đề hiễn hiện vậy.

Đó là pháp môn phương tiện và trí tuệ của Bồ-tát trụ Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát pháp môn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com