Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Phẩm Phật Quốc

23/03/201107:55(Xem: 9215)
01. Phẩm Phật Quốc

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Nhất
Phẩm Phật Quốc

Cõi Nước Phật

(Purification of the Buddha-Field)

Tên của phẩm nầy là Phật Quốc có nghĩa là cõi nước Phật. Vậy cõi nước Phật ở đâu? Thông thường thì con người thường hiểu là khi Đức Phật Thích Ca thị hiện trên trái đất nầy để hóa độ chúng sinh, cõi Ta-bà nầy chính là cõi nước Phật của Ngài. Tây Phương Cực Lạc là cõi nước Phật của Phật A Di Đà. Thế giới Đông Phương là cõi nước Phật của Phật Dược Sư…Nhưng trong kinh nầy, cõi nước Phật không ở cao mà cũng chẳng ở xa. Chính cõi nước Phật ở ngay trong tâm của con người. Một khi tâm con người đoạn hết tất cả vô minh, phiền não để trở thành sáng suốt giác ngộ chân lý thì tâm đó chính là tâm Phật. Người có tâm Phật ở đâu thì cõi nước đó trở thành cõi nước Phật. Chúng ta là phàm phu tâm chất đầy ô nhiễm thì ở đâu cũng gắn liền với phiền não khổ đau bất tịnh còn Đức Phật Thích Ca tuy sống ngay trong thế giới Ta-bà mà biến cảnh uế độ trở thành cõi Phật đẹp đẻ trang nghiêm thanh tịnh. Vì thế Phật dạy rằng:”Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” nghĩa là hễ tâm người thanh tịnh thì có cõi Phật thanh tịnh.

Lúc bấy giờ Đức Phật đang ở vườn Am la (giống như trái xoài nhưng chỉ có một màu xanh từ khi còn sống đến khi chín nên khó phân biệt trái nào sống trái nào chín) thuộc địa phận thành Tỳ Xá Ly cùng tám ngàn chúng Tỳ kheo và ba vạn hai ngàn Bồ-tát. Tất cả đều là những vị có danh tiếng và đã thành tựu trí hạnh đại thừa. Họ là những người đã trồng sâu cội đức tri hành tự tại trong sự nghiệp giải thoát giác ngộ. Do oai thần của chư Phật, các vị làm bức thành hộ pháp, giữ gìn chánh đạo, truyền bá chánh pháp và là bạn lành của chúng sinh.

Danh hiệu của các Ngài là Đẳng Quán Bồ-tát, Bất Đẳng Quán Bồ-tát…Di Lặc Bồ-tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ-tát. Lại có vua trời Đế Thích, Thiên Long Bát Bộ cùng các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni và Phật tử nam nữ cung kính vây quanh Phật để nghe Pháp.

Đẳng Quán Bồ-tát là vị Bồ-tát thường sử dụng quán trí để nhận thức vạn pháp dựa vào tính bình đẳng trên phương diện bản thể chung cùng. Bất Đẳng Quán Bồ-tát là vị Bồ-tát thường sử dụng quán trí nhận thức dựa vào tính sai biệt trên phương diện hiện tượng tùy duyên.

Trong thời Đức Phật lúc nào cũng có 1250 vị đại Tỳ kheo là những người đã theo chân Ngài từ khi Đức Thế Tôn mới thành đạo và trong pháp hội nầy có trên tám ngàn vị Tỳ kheo mà kinh không hề nói đến tên một vị nào mà chỉ kể tên của các đại Bồ-tát mà thôi. Như vậy bản kinh nầy không đề cao Tỳ kheo mà chỉ chú trọng tới các Bồ-tát. Phải chăng đây là ám chỉ những Bồ-tát tại gia? Bởi vì những Bồ-tát nầy là những người mà thiên hạ ai cũng nghe cũng biết. Trí tuệ của các Ngài rộng lớn và khi cần làm lợi ích cho chúng sinh thì lăn xả vào đời mà cứu độ chứ không phải đợi mời, đợi thỉnh.

Lúc bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có vị Trưởng Giả Tử Bảo Tích cùng với 500 trưởng giả tử, mỗi vị cầm một cây lọng thất bảo, đồng đến đảnh lễ Phật, rồi cùng dâng tất cả lọng ấy cúng dường Phật.

Trong Hán tự chữ Tử có nghĩa là con mà cũng còn có nghĩa là người hiểu biết tận cùng như là một vị Thánh. Vì thế các bậc Thánh hiền bên Trung Hoa như Khổng Tử, Lảo Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Trang Tử …được dùng chữ Tử để tôn xưng. Có lẽ ngài Cưu Ma La Thập khi dịch kinh nầy từ chữ Phạn sang chữ Hán đã thêm chữ Tử vào làm cho vai trò của các vị trưởng giả càng thêm tôn kính. Trong kinh Hoa Nghiêm cũng đề cao vai trò của Thiện Tài Đồng Tử là những người tu hành đã trừ hết vô minh phiền não, chân Trí hiện bày để trở về với bản tánh trong sạch hồn nhiên ví như một đứa trẻ thơ. Thông thường thì trưởng giả là những người giàu sang, phú quý, nhiều tiền, lắm của, tôi tớ đầy nhà, nhưng chưa chắc là đạo cao đức trọng Vì thế khi gọi Trưởng Giả Tử thì ngài Cưu Ma La Thập muốn ám chỉ đây là loại trưởng giả đặc biệt chẳng những họ là những người sang trọng, cao quý trong xã hội mà lại là người tu hành tinh tấn, vun bồi công đức vẹn toàn, thực hành Lục độ vạn hạnh, phát tâm Từ, Bi, Hỷ Xã. Mặc dầu họ chưa chứng đắc nên không thể nào so sánh với cư sĩ Duy Ma Cật nhưng đây là bước đầu của kinh để chứng minh và giới thiệu vai trò của hàng cư sĩ tại gia nếu tinh tấn tu hành đoạn trừ ô nhiễm thì họ cũng có thể chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn để được giải thoát giác ngộ. Bảo là của báu rất quý giá còn Tích là gom lại lưu trữ. Vậy Trưởng Giả Tử là những bậc trưởng giả đáng tôn kính chứ không phải là con ông trưởng giả. Trong phẩm nầy vai trò ông Trưởng Giả Tử Bảo Tích được đề cao, nhưng nhân vật chính trong kinh vẫn là cư sĩ Duy Ma Cật. Vậy thế nào là Bảo Tích? Bảo là của báu rất quý giá còn Tích là gom lại lưu trữ. Do đó Bảo Tích là gom lại lưu trữ những của báu quý giá nhất trên đời.

Mỗi vị Trưởng giả Tử cầm một cây lọng thất bảo (bảy báu) đến cúng dường Phật. Cây lọng bằng bảy báu nầy không phải làm bằng nhung gấm lụa là hay vàng bạc vật chất của thế gian vì Đức Phật đâu cần những thứ nầy mà cái lọng thất bảo nầy là tượng trưng cho sự phát tâm Bồ-đề, công quả tu hành, công đức và công hạnh của các vị đó. Vậy cây lọng thất bảo làm bằng gì? Nếu nói về vật chất thế gian thì bảy báu là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, trân châu, san hô và mã não. Nhưng ở đây, bảy báu là bảy con đường thiện xảo đưa con người từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh. Đây chính là Thất Thánh Tài và gồm có: Giới, Tín, Văn, Sám hối, Tinh tấn, Buông xả và Trí tuệ.

Vàng là vật cao quý chẳng khác gì Giới

Bạc là sự thay trắng đổi đen nên ám chỉ cho Tín tức là lòng tin tưởng vào Phật pháp, không còn nghi ngại.

Lưu ly là lưu chuyển tượng trưng cho Văn tức là tánh nghe.

Xà cừ có hình tướng xấu xa nên ám chỉ cho Sám hối.

Trân châu là thanh cao tượng trưng cho Tinh tấn.

San hô thì tượng trưng cho Buông xả.

Mã não thì sáng chói tượng trưng cho Trí tuệ.

Cây lọng báu mà các vị trưởng giả tử đem cúng dường cho Phật nói lên quá trình tiến tu của người Phật tử bằng cách giữ gìn giới hạnh để tâm được thanh tịnh rồi mới phát khởi lòng tin vào chánh Pháp vì Phật đã khẳng định rằng ai ai cũng có khả năng thành Phật nếu tinh tấn tu hành. Nếu có được công đức thì nên buông xả, pháp thí hết bằng cách hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Con đường Phật đạo viên mãn là người Phật tử phải biết ăn năn sám hối làm lành tránh dữ và vun bồi công đức thì trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí tuệ tức là thấy được Chân lý. Mà muốn thấy được Chân lý thì con người phải có đủ nghị lực để lìa bỏ, buông xả và hy sinh những của cải cao quý tạm bợ của trần gian để vào Thánh đạo bằng cách tích tụ hằng hà công đức, giữ tâm thanh tịnh và dựa theo Thất Thánh Tài thì mới thành tựu.

Do oai thần, Phật khiến các lọng báu hợp lại thành một cây lọng lớn bao trùm cả ba ngàn đại thiên thế giới.

Từ khi có loài người đến giờ, có ai thấy cái lọng nào mà có thể che cả mặt trăng, mặt trời và trăm ngàn hành tinh trong vũ trụ chưa? Đây là kinh nói về Sự, nhưng về phần Lý thì chắc chắn cái lọng nầy ám chỉ cho Chơn Tâm. Tại sao? Bởi vì Chơn Tâm thì không hình, không tướng, không nặng, không nhẹ, là chơn không nên mới loan tỏa vô cùng vô tận trong mười phương thế giới. Chỉ có cái Thể của Chơn Tâm mới dung chứa được tất cả tam thiên đại thiên thế giới mà thôi.

Bao nhiêu cái lọng của các ông trưởng giả tử ví như bao nhiêu cái Tâm riêng biệt của mỗi người. Mà còn riêng tư, phân biệt thì làm sao có diệu dụng, thanh tịnh được? Cho nên sau khi Phật dùng thần lực để khiến 500 cây lọng thành Một có nghĩa là khi Tâm đã hợp nhất, không còn phân biệt thì đây mới chính là Chơn Tâm, là tâm Phật. Tâm thanh tịnh thì mười phương cõi Phật cho tới tam thiên đại thiên thế giới cũng hiện bày sáng tỏ trong đó hết. Năm trăm Trưởng Giả Tử có lọng báu tức là các vị đó đã có công phu tu hành thanh tịnh, bây giờ đem tất cả các lọng báu hợp lại thành Một có nghĩa là Nhất Tâm, là Chơn Tâm. Đây chính là nguyên lý Nhất Như tức là tất cả là Một.

Do oai thần, Phật hợp năm trăm lọng báu thành một có nghĩa là tuy có rất nhiều pháp môn tu hành nhưng cứu cánh chỉ có Một là chơn tâm thanh tịnh. Ngày xưa khi Đức Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề thì Ngài dùng thiên nhãn hay Phật nhãn mà thấy được mười phương thế giới để khai thị cho chúng sinh biết rằng thế giới vũ trụ nhiều như cát sông Hằng mà ngày nay với thiên vọng kính Hubble bay chung quanh ở ngoài không gian của quỷ đạo địa cầu có thể nhìn thấy vô cùng vô tận hành tinh rất xa khoảng mấy ngàn năm ánh sáng thì cũng xác nhận những điều Phật dạy. Cũng như khi nhìn vào nước thì Phật thấy hằng hà vô số vi trùng bơi lội trong đó mà ngày nay với kính siêu hiễn vi con người mới nhận biết được. Cái gì làm Ngài sáng tỏ như thế? Tất cả đều là do Tâm Ngài hoàn toàn thanh tịnh. Ngài có chứng được tam minh hay lục đại thần thông thì cũng do tâm thanh tịnh mà ra.

Các núi Tu di, núi tuyết, các biển cả, sông ngòi, mặt trời, mặt trăng vô vàn tinh tú. Các Thiên cung, Long cung, Thần cung và cảnh giới chư Phật thuyết pháp, nhập Niết Bàn trong mười phương đều hiện rõ trong cây lọng báu.

Các hiện tượng hữu hình như biển cả, sông ngòi, mặt trăng, mặt trời…cho đến các thế giới vô hình như Long cung, Thần cung…ngay cả cảnh giới chư Phật đang thuyết pháp hay nhập Niết bàn cũng đều do Tâm tạo. Do đó Khế Kinh mới có câu:”Vô bất tùng thử pháp giới lưu, mạc bất hoàn qui thử pháp giới” có nghĩa là không có pháp nào chẳng từ tâm nầy mà lưu xuất và cũng không có một pháp nào chẳng trở về tâm nầy. Thật vậy, có Phật, có Thánh hiền, có muôn sanh vạn vật cũng phát xuất từ Tâm, mà tạo ra địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng bởi từ Tâm. Biết dập tắt tâm si mê cuồng loạn thì con người sẽ được thanh tịnh Niết bàn giải thoát còn chạy theo lục dục thất tình thì tâm dẫn dắt con người vào chốn trầm luân đau khổ. Khi tịnh là chơn tâm còn khi động thì chơn tâm biến mất và vọng thức dấy lên làm cho con người thêm mê muội. Cũng như ánh sáng mặt trời bị đám mây đen che lấp làm cho cảnh vật thế gian chìm trong tăm tối. Vì để dễ dàng cho con người phân biệt giữa thật với giả nên kinh điển Phật giáo mới tạm gọi chơn tâm và vọng tâm (vọng thức) nhưng tâm vốn chẳng hai tức là Bất nhị. Tâm thì chỉ có Một mà Tướng và Dụng thì rộng lớn vô lượng vô biên. Chân tâm thì thường trụ, bất động và an nhiên tự tại nhưng bởi vô minh khiến tâm vọng động biến thành muôn hình vạn cảnh. Nếu con người có công phu tinh tấn tu hành, diệt hết vô minh thì vọng thức biến mất và chơn tâm thanh tịnh hiện bày. Ví cũng như vì có gió mà tạo nên những làn sóng nhấp nhô tức là Dụng. Nay nếu gió dừng thì sóng sẽ trở về với Thể nước thanh tịnh ban đầu. Vì vậy nước và sóng cùng là nước nên chẳng phải hai tức là Bất nhị. Cứu cánh của đạo Phật vẫn là tâm thanh tịnh. Một khi tâm của chúng sinh đã thanh tịnh thì tất cả mọi cảnh giới bên ngoài xuất hiện rất rõ ràng cũng như ngọn đèn rất sáng tỏ khi không còn những cơn gió lốc thổi qua. Vậy chủ yếu của đạo Phật là đi tới cái gốc tâm thanh tịnh thì mới thành cõi Phật thanh tịnh. Do đó nếu con người còn mơ ước cõi Phật mà không điều phục tâm mình được thanh tịnh thì mơ ước kia chỉ là viễn vông, ảo tưởng.

Bấy giờ trưởng giả tử thay lời đại chúng bạch với Phật bằng một bài kệ phát xuất từ lòng ái mộ, tôn kính vô biên:

Mắt Phật đẹp như hoa sen xanh.

Vì Phật là đấng giác ngộ nên phần trí tuệ biểu lộ nơi con mắt cho nên mắt Phật lúc nào cũng trong và sáng.

Tâm Phật hằng trụ trong Thiền định.

Vì tâm Phật đã hoàn toàn thanh tịnh nên lúc nào cũng trụ trong thiền định. Tại sao? Bởi vì thiền định giúp chúng sinh hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm. Nhưng lúc nào tâm Phật cũng an trụ và thanh tịnh nên được ví như thiền định vậy.

Tịnh nghiệp tích lủy từ lâu đời.

Vì là Phật nên nghiệp chỉ là tịnh nghiệp, vô lượng vô biên.

Đại chúng cúi đầu nguyền tu học.

……..

Thuyết pháp: không có cũng không không.

Vì các pháp do nhân duyên sanh nên tự nó không có tự thể là vô ngã tức là không nên vạn pháp chỉ là giả Có. Do đó vạn pháp chẳng phải Có mà cũng chẳng phải Không bởi vì Có chỉ là tạm Có và Không cũng là tạm Không vì tất cả là do nhân duyên mà chính nhân duyên lại không thật thì làm sao cái Có, cái Không lại thật được. Vì chẳng chấp Có, chấp Không nên khi thuyết pháp, Phật dùng nguyên lý bất nhị để đánh tan tư tưởng nhị nguyên để thấy rằng thân tâm là Một

Pháp vốn vô ngã, vô thọ giả.

Tất cả các pháp trên thế gian nầy kể cả con người của chúng ta là do sự kết hợp của trùng trùng duyên khởi nên chúng không có chủ tể tức là vô ngã. Bây giờ hãy lấy con người của chúng ta làm thí dụ. Thật sự chúng ta có thể làm chủ hoàn toàn được con người của mình không? Khi bụng đói thì thân bắt chúng ta ăn, nhưng khi bụng quá no thì cho dù chúng ta muốn ăn thêm món mình thích thì nuốc cũng không nổi. Khi lái xe suốt đêm thì mắt sụp xuống mặc dầu đường vẫn còn xa. Khi thấy xe đẹp, nhà sang thì muốn chiếm lấy…Cho dù con người muốn hay không thì máu huyết vẫn luôn luân chuyển tuần hoàn trong cơ thể để mang dưỡng khí nuôi thân. Tim lúc nào cũng đập cho dù chúng ta không muốn sống. Vậy thân và vọng tâm làm chủ Ta chớ đâu phải Ta làm chủ con người của Ta. Vì thế nếu Ta không làm chủ được mình thì chính Ta là vô ngã. Đã không làm chủ được mình thì sự sống chết vô thường của con tạo làm sao mình làm chủ được. Do đó mới gọi là vô thọ giả.

Sau đó, trưởng giả tử Bảo Tích mới bạch với Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Năm trăm trưởng giả tử nầy đã từng phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề. Cúi mong Thế Tôn nói cái hạnh cõi Phật thanh tịnh của các vị Bồ-tát và xin Phật dạy cho chúng con trên đường tu hành muốn xây dựng cho mình cõi Phật thanh tịnh thì phải làm sao?

Phật dạy rằng:

- Này Bảo Tích! Tất cả chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Tại sao? Bởi vì Bồ-tát dựa trên công hạnh giáo hóa chúng sinh mà có được cõi Phật thanh tịnh. Tùy sự điều phục chúng sinh mà có cõi Phật thanh tịnh. Tùy sự bồi dưỡng trí tuệ cho chúng sinh mà có được cõi Phật thanh tịnh. Tùy sự gieo trồng Phật chủng cho chúng sinh mà Bồ-tát có được cõi Phật thanh tịnh.

- Này Bảo Tích! Bồ-tát có được cõi Phật thanh tịnh là dựa trên công hạnh làm lợi lạc cho chúng sinh. Cũng ví như người muốn xây cất lâu đài phải xây nền đổ móng trên đất vậy. Nếu không có đất, không thể nào xây lâu đài được. Lại cũng ví như hoa sen. Hoa sen không mọc trên đỉnh núi đá cao trơ trọi mà sen phải mọc và trổ hoa từ chốn bùn lầy.

Các vị Bồ-tát là những bậc đã giác ngộ, nhưng vì chúng sinh còn đau khổ nên các ngài tự nguyện ra vào trong ba đường lên xuống trong sáu cỏi để cứu độ chúng sinh thấy con đường giải thoát giác ngộ chớ không mong cầu Phật quả để hưởng an lạc Niết bàn cho riêng mình vì đối với họ Bồ-tát và chúng sinh chẳng phải hai nhưng là Một tức là Bất nhị. Bồ-tát lấy Lục độ ba-la-mật làm nền tảng căn bản cho hành động. Phương châm vẫn là vì lợi ích chúng sinh chớ chẳng phải cho riêng mình. Các Ngài làm việc với tâm vô cầu, vô chứng đắc. Các Ngài làm việc không mệt mỏi với tâm vô phân biệt vì các Ngài không còn thấy thế gian và các Ngài có sự sai khác nữa. Bồ-tát không còn chấp trước và họ lúc nào cũng tự tại bởi vì các Ngài luôn làm việc với tinh thần Vô Ngã (Egolessness) tức là không còn thấy mình làm và cũng không còn thấy cả việc họ đang làm tức là vô ngã sở. Như vậy, cõi Phật thanh tịnh của chư Bồ-tát là vì lợi ích chúng sinh mà tác tạo chớ không phải vì mình thụ hưởng mà làm ra. Ví như có người phát tâm xây một ngôi chùa. Nếu xây ngôi chùa vì muốn có chỗ cho tăng ni tu tập và đại chúng có nơi học hỏi Phật pháp để thấy con đường giải thoát giác ngộ thì đây là việc làm của Bồ-tát. Còn nếu xây chùa để được người khen tặng thì là việc làm của phàm phu. Dĩ nhiên không có công đức chi cả. Chính vua Lương Võ Đế của Trung Hoa ngày xưa là một Phật tử tại gia đã thọ Bồ-tát giới và xây trên 480 ngôi chùa nhưng việc làm của nhà vua là vì bản ngã chớ không nhất thiết vì lợi ích cho chúng sinh nên đây không phải là hành động của Bồ-tát. Vì Bồ-tát lấy chúng sinh làm đối tượng và làm việc vì chúng sinh cho nên nếu chúng sinh còn trong cõi Ta-bà uế độ thì Bồ-tát sẽ nhận thế giới Ta-bà làm cõi Phật của mình để tùy duyên hóa độ. Dù lãnh lấy cõi Phật nào cũng đều vì lợi ích của chúng sinh vì thế chỉ khi nào độ hết chúng sinh thì các Ngài mới thành Phật.

Phật lại dạy rằng:

- Này Bảo tích! Ông nên biết Bồ-tát xây dựng cõi Phật cho mình bằng:

Ø Trực tâm là lòng ngay thẳng, chân thật, không dối trá vì mọi ý tưởng, lời nói cũng như hành động đều hợp với chân lý. Mà con đường đưa đến chân lý là Bát chánh đạo.

Ø Thâm tâm là có đầy đủ tất cả công đức lành cũng vì làm việc lợi ích cho chúng sinh. Vì thế Thâm tâm là cái tâm tạo ra nhiều mầm, nhiều nhân tốt cho nên thâm tâm chính là tịnh độ của Bồ-tát. Người phát thâm tâm thì luôn bỏ Tướng sinh diệt, giả dối bên ngoài để thấy được bản Thể chân thật tức là thấy được Phật bên trong.

Ø Bồ-đề tâm. Khi đã có Trực tâm và Thâm tâm thì người tu theo đại thừa cần phát nguyện theo Bồ-đề tâm có nghĩa là quyết chí tu hành đến chỗ giải thoát giác ngộ viên mãn tức là thành Phật. Khi phần tự giác đã xong thì người phát Bồ-đề tâm phải quay lại để dẫn dắt chúng sinh cùng thấy con đường giải thoát mà tìm sự giác ngộ cho chính họ. Như vậy trực tâm là cánh cửa bước vào đạo, Thâm tâm là những công đức, là công dụng ở trong đạo và Bồ-đề tâm là tức là giác ngộ. Vậy ba hạnh Trực tâm, Thâm tâm và Bồ-đề tâm liên hệ mật thiết với nhau. Cái nầy bổ túc cho cái kia và thiếu một thì không thành Phật đạo. Do đó nếu chúng sinh phát tâm đại thừa có nghĩa là phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác thì sẽ được sanh về cõi Phật thanh tịnh đó.

Thêm nữa, dựa theo Duy Thức Luận, khi chúng sinh chứng quả vị Đẳng giác tức là được giác ngộ hoàn toàn có nghĩa là đạt được Hậu Đắc Trí thì tám thức sẽ chuyển thành bốn trí. Vậy tiến trình nầy diễn biến như thế nào?

1)Trực tâm là công phu tu hành để chuyển năm thức đầu tiên là Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức và Thân thức thành ra “Thành Sở Tác Trí” tức là trí tuệ có năng lực nhận thức cùng khắp và rất thần diệu khiến cho các việc làm được thành tựu chân chánh tốt đẹp.

2)Thâm tâm là công phu tu hành để chuyển thức thứ sáu là Ý Thức thành ra “Diệu Quan Sát Trí” tức là trí tuệ có năng lực quan sát và nhận xét đúng với Chân lý để không còn mê vọng.

3)Bồ-đề tâm là công phu tu hành để chuyển thức thứ bảy Mạt-Na-Thức thành ra “Bình Đẳng Cảnh Trí” tức là cái trí tuệ sáng suốt để phá hết chấp ngã, chấp pháp và nhận thức được tính bình đẳng và vô ngã của vạn pháp và thức thứ tám A-Lại-Da-Thức thành ra “Đại Viên Cảnh Trí” tức là trí tuệ sáng suốt như tấm gương lớn và tròn đầy có thể soi chiếu cùng khắp vũ trụ bao la vô cùng vô tận như biển cả chơn như.

Hơn nửa, chúng sinh tu theo Bồ-tát đạo cần phải thực hành Lục độ Ba-la-mật bởi vì:

v Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng việc làm Bố Thí cho nên khi thành Phật họ có hạnh xả ly viên mãn.

v Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng công đức Trì Giới cho nên khi thành Phật họ có được thập thiện nghiệp đạo viên mãn.

v Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng hạnh Nhẫn Nhục cho nên khi thành Phật có đủ 32 tướng đẹp trang nghiêm.

v Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng sức Tinh Tấn tu hành cho nên khi thành Phật họ luôn phát triển công đức lành.

v Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng Thiền Định cho nên khi thành Phật tâm hằng thanh tịnh Niết bàn.

v Bồ-tát xây dựng cõi Phật bằng Trí Tuệ cho nên khi thành Phật, cõi nước chỉ có chúng sinh chánh định.

v Ngoài ra Bồ tát xây dựng cõi Phật bằng Tứ Vô Lượng Tâm cho nên khi thành Phật thì Từ, Bi, Hỷ, Xả thành tựu viên mãn. Bồ-tát tu hành Tứ Nhiếp Pháp để có đầy đủ chánh pháp như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự để hóa độ chúng sinh. Bồ-tát cũng khéo dùng mọi Phương Tiện để tùy duyên mà độ sanh.

v Bồ-tát cũng xây dựng cõi Phật bằng 37 Phẩm Trợ Đạo cho nên khi thành Phật các pháp như Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi và Bát Chánh Đạo được hạnh trì viên mãn.

v Sau cùng Bồ-tát nếu làm được công đức gì đều đem Hồi Hướng cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật đạo.

Đức Phật một lần nữa đã giới thiệu rất nhiều phương pháp tu hành để chúng sinh tùy theo căn cơ và ý nguyện mà chọn lựa. Căn nhà giác ngộ thì có tám vạn bốn ngàn cánh cửa để vào do đó chúng sinh muốn chọn pháp môn nào thích hợp thì vẫn là chánh pháp. Bởi vì tất cả các pháp đều là Phật pháp hay các pháp vốn không hai tức là Bất nhị.

Nhưng muốn thực hiện tất cả các hạnh lành viên mãn, Bồ-tát phải khởi đầu bằng trực tâm tức là cái tâm ngay thẳng, chân thật, không dối trá mà làm việc lợi ích cho chúng sinh. Vì tất cả việc làm của Bồ-tát là vì chúng sinh và cho chúng sinh nên Bồ-tát tạo ra vô lượng công đức tức là nhân lành, là thâm tâm. Do có thâm tâm mà Bồ-tát điều phục tất cả ý thức của mình và làm mọi việc lành hóa độ chúng sinh để lãnh lấy cõi Phật thanh tịnh. Do cõi Phật thanh tịnh mà thuyết pháp thanh tịnh. Do thuyết pháp thanh tịnh mà trí tuệ thanh tịnh. Do trí tuệ thanh tịnh mà tâm thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh mà có tất cả công đức thanh tịnh. Vì thế nếu Bồ-tát muốn được cõi Phật hay tịnh độ thanh tịnh thì các Ngài phải giữ tâm thanh tịnh.

Như vậy tâm thanh tịnh là nhân mà có cõi Phật hay Tịnh độ thanh tịnh chính là quả của nó. Cùng ý nghĩa đó nếu tâm mình không tịnh, còn chứa đầy phiền não nhiễm ô thì cõi Phật làm sao mà tịnh được? Vì vậy nếu chúng sinh muốn nguyện vãng sanh về cõi Tịnh độ mà không lo thanh lọc cho tâm được tịnh thì tìm đâu ra cõi Tịnh độ trong càn khôn vũ trụ nầy?

Bồ-tát có tinh tấn tu hành, có xả thân vào đời làm vô lượng công đức để được tự giác và giác tha nhưng cuối cùng cũng trở về với Bản tâm thanh tịnh. Chúng sinh vì bị màng vô minh che lấp và chạy theo trần cảnh ô nhiễm nên sống trong điên đảo khổ đau mà lầm tưởng tâm vọng tưởng là chân tâm. Nay thức tỉnh mới biết Tâm vốn không hai tức là Bất nhị thì lúc nào cũng thanh tịnh. Đối với phàm nhân vì tâm còn phân biệt tốt xấu, lành dữ, thiện ác …và còn chấp ngã, chấp pháp nên tâm không thanh tịnh. Đến khi tu hành đạt tới tâm vô phân biệt có nghĩa là không làm điều xấu xa, bất thiện thì từ đây những ý nghĩ, lời nói và hành động sẽ là tốt, là thiện. Tâm không còn chấp ngã, chấp tướng thì tâm sẽ trở về với tự tánh thanh tịnh ban đầu. Cũng như khi chúng sinh mới trì tam quy, thọ ngũ giới nên lúc nào cũng cảnh giác đề phòng để khỏi phạm giới mà gây nhân bất thiện. Còn Bồ-tát với tâm thanh tịnh thì họ sống ung dung tự tại mà không bao giờ phạm giới cả. Tại sao? Vì là phàm nhân tức là Tâm còn phân biệt thiện ác, tốt xấu nên con người lúc nào cũng canh chừng mọi ý nghĩ, cẩn thận từng lời nói và soi xét tất cả việc làm để tránh gây ra ác nghiệp. Nhưng các vị Bồ-tát vì tâm đã thanh tịnh nên mọi việc đều lành, mọi hành động đều thiện, mọi lời nói đều tốt và hợp với Chân lý mà khỏi cần phân biệt thiện ác gì cả.

Một điểm đặc thù khác khi đạt được tâm thanh tịnh là tâm bình đẳng. Chúng ta là phàm nhân nên bị màng vô minh che lấp khiến tâm phân biệt mới có thân sơ, cao thấp, giàu nghèo, sang hèn, khinh trọng… Vì tâm còn phân biệt nên con người lấy thân bỏ sơ nên bám víu những gì của mình và thuộc về mình tức là chạy theo chấp Ngã và Ngã sở. Và vì tâm còn phân biệt nên con người chạy theo hình Tướng tạm bợ bên ngoài như thấy có cao có thấp nên kính trọng người cao và chê kẻ thấp, có nghèo có sang nên du nịnh kẻ giàu sang và xa lánh người nghèo khó, có tốt có xấu nên ham chuộng cái đẹp giả tạm bên ngoài và đau khổ buồn phiền khi thấy mình già mình xấu đi, có vui có buồn nên thích vui và sợ buồn…Đây cũng tại vì con người còn chấp Pháp mà ra. Đó là tất cả những nguyên nhân gây ra phiền não khổ đau và cũng là nguồn gốc của sinh tử luân hồi. Tại sao? Vì nếu con người còn chấp Ngã tức là còn thấy thân nầy là thật nên cố bám víu vào nó. Vì lầm tưởng thân nầy là thật, là của Ta nên lo sợ, đau khổ khi thấy thân hoại. Cho dầu con người có bảo trì, bồi dưỡng cách mấy thì thân giả huyễn cũng không thoát ra khỏi cảnh sinh lão bịnh tử của luật vô thường và chắc chắn một ngày nào đó tấm thân tứ đại nầy cũng sẽ trở về với cát bụi mà thôi. Cũng vì lầm tưởng thân nầy là thật nên con người mới tạo tác, giữ gìn những tài sản, vật dụng để cung phụng cho thân. Có một thì muốn mười, chạy theo tham cầu ái dục cho nên phiền não khổ đau cũng vì thế mà phát sinh mạnh. Nhưng Tâm Kinh đã khẳng định rằng:”Ngũ uẩn giai không” có nghĩa là thân nầy không thật. Vì thế thân là giả huyễn, là vô ngã tức là Không thì nó sẽ trở về với cái Không tức là cát bụi còn cái Có mà con người chắc chắn sẽ mang theo là những chủng tử của nghiệp để cột chặt họ vào vòng sinh tử luân hồi. Bồ-tát khi tâm đã thanh tịnh thì họ xóa tan các biên giới về nhị nguyên nên tất cả đều bình đẳng. Không còn thân-sơ vì tất cả mọi người đều là chúng sinh tức là Bất nhị. Không còn khinh nghèo khó trọng giàu sang, không còn thấy cao, thấy thấp vì các Ngài đã lìa bỏ Tướng sinh diệt giả dối bên ngoài mà chỉ thấy bản Thể thanh tịnh bên trong. Đó là Phật tánh, là chơn như. Khi tâm đã thanh tịnh thì mười phương quốc độ, chúng sinh, trần cảnh…đều thanh tịnh hết. Tại sao? Vì tất cả thế gian, vũ trụ, muôn sinh vạn vật, Trời, Phật, Thánh, Thần, A tỳ, súc sanh, địa ngục…đều do tâm tạo. Do đó cứ mỗi giây, mỗi phút chúng sinh sống một trong thập pháp giới là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, Thần, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật. Vì thế cuộc sống thanh tịnh thì do ta mà điên đảo khổ đau thì cũng do tâm ta. Cho nên kinh mới có câu:”Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Do đó nếu tâm thanh tịnh thì tất cả những gì do tâm tạo đều thanh tịnh hết. Điều nầy chính kinh Hoa nghiêm cũng xác định:

Ưng quán pháp giới tánh

Nhất thiết duy tâm tạo

Dịch là:

Nên quán tánh pháp giới

Tất cả đều do tâm tạo.

Thật vậy, Tâm là cội nguồn của chư Phật, là biển của muôn pháp và là đất tánh của chúng sinh. Đất thì sanh ra muôn sinh vạn vật. Con người chúng ta vì mang thân tứ đại là từ đất sinh ra. Cây cỏ, cộng rau, cây lúa cho tới động vật, thực vật, khoáng vật cũng là do đất mà ra. Còn tâm thì bao gồm muôn pháp, trăm khéo ngàn hay, huyền cơ diệu lý, mỗi mỗi đều từ tâm dựng lập. Vì thế Tâm được ví như đất là vậy.

Như vậy cõi Phật Tịnh độ không phải cảnh ở ngoài mà chính phát xuất từ tâm. Vì thế kinh mới xác định rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” có nghĩa là hễ tâm được thanh tịnh thì có cõi Phật thanh tịnh là vậy.

Lúc bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất khởi ý hoài nghi rằng:

- Nếu tâm Bồ-tát thanh tịnh thì có cõi nước Phật thanh tịnh. Vậy Đức Thế Tôn khi xưa tu nhân, hành Bồ-tát hạnh có lẽ nào tâm không thanh tịnh hay sao mà cõi Phật ngày nay không thanh tịnh như thế nầy?

Phật biết ý niệm hoài nghi của ông Xá Lợi Phất, liền bảo:

- Xá Lợi Phất! Ông nghĩ thế nào? Mặt trời, mặt trăng há chẳng sáng sao? Thế mà những người mù có thấy đâu?

Xá Lợi Phất thưa:

- Bạch Thế Tôn! Mặt trời, mặt trăng vẫn sáng nhưng người mù không thấy là lỗi tại mắt họ mù.

Phật dạy tiếp:

- Nầy Xá Lợi Phất! Do vì tội chướng của chúng sinh làm cho họ không thấy cõi nước thanh tịnh trang nghiêm của Phật chứ không phải cõi nước của Phật không thanh tịnh trang nghiêm. Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật vốn thanh tịnh chỉ tại ông không thấy mà thôi.

Bấy giờ Trời Loa Kế Phạm Vương nói với ông Xá Lợi Phất:

- Ông đừng nghĩ như vậy. Không nên cho rằng cõi Phật của Đức Thích Ca Mâu Ni không thanh tịnh. Chính tôi thấy cõi Phật của thế giới Ta-bà nầy thanh tịnh cũng như cung Trời Tự Tại và cũng như cõi nước của chư Phật trong mười phương.

Ông Xá Lợi Phất nói:

- Sao tôi thấy cõi nầy toàn gò nỗng, hầm hố, chông gai, sỏi sạn, đất đá, núi non, nhơ nhớp dẫy đầy như thế?

Ông Loa Kế Phạm Vương thưa rằng:

- Đấy là do tâm Ngài có cao có thấp không nương theo trí tuệ của Phật nên thấy cõi nầy không thanh tịnh đó thôi. Thưa Ngài xá Lợi Phất! Bồ-tát nhìn thấy tất cả chúng sinh bằng cái thấy bình đẳng. Phát xuất từ thâm tâm thanh tịnh và xử dụng trí tuệ thanh tịnh thì Ngài sẽ thấy được cõi Phật nầy thanh tịnh.

Khi ấy Phật lấy ngón chân nhấn xuống đất, tức thì cõi Tam thiên đại thiên thế giới liền hiện ra bao nhiêu trăm nghìn thứ trân bảo trang nghiêm rực rỡ, như cõi Vô Lượng Công Đức Bảo Trang Nghiêm của Phật Bảo Trang Nghiêm. Tất cả đại chúng khen ngợi chưa từng có và đều thấy mình ngồi trên tòa sen báu.

Phật bảo Xá Lợi Phất:

- Ông hãy xem cõi Phật đây có trang nghiêm thanh tịnh?

- Bạch Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất thưa: Đúng vậy. Việc nầy từ trước đến nay con chưa từng thấy và cũng chưa từng nghe.

Phật dạy rằng:

- Này xá Lợi Phất! Cõi nước Phật của ta thường trang nghiêm thanh tịnh như thế. Chỉ vì con người nghiệp chướng nặng nề, phước đức mỏng manh mà thấy toàn những cảnh bất tịnh nhơ xấu. Cũng như số chư Thiên cùng thọ dụng một bát quý đựng cơm, vậy mà tùy phước đức của mỗi chư Thiên mà màu cơm và mùi hương có khác. Như thế, Xá Lợi Phất! Nếu tâm của người thanh tịnh sẽ thấy cõi nầy công đức trang nghiêm thanh tịnh.

Cũng ví như gia đình người hàng xóm: Người chồng thì tâm hồn đang bất an rối loạn, còn người vợ thì tâm hồn thư thả, thảnh thơi, tự tại. Như thế thì cùng sống dưới một mái nhà mà người chồng nhìn đâu cũng thấy bực bội, ai nói cái gì cũng không thấy vui. Ngược lại thì người vợ nhìn đâu, thấy đâu cũng là mái ấm gia đình. Do đó vui tươi hay bực bội là bởi tự tâm cho nên nếu tâm mình bực bội thì cho dù cảnh như thế nào vẫn thấy bực bội, còn nếu tâm mình an vui tự tại thì cảnh nào cũng thấy thoải mái, vui tươi.

Vì thế mà thi hào Nguyễn Du có câu:”Vui xuân vui khắp phương trời, buồn xuân riêng để cho người tương tư” hay “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Muốn được tâm thanh tịnh thì con người phải chuyển Tâm, chuyển lối nhìn, lối thấy biết về nhân sinh vũ trụ. Khi thấy mình không thật, người và vạn vật vũ trụ cũng không thật thì tâm không còn dính mắc. Từ đó lòng Tham-Sân-Si, Mạn, Nghi cũng giảm rất nhiều. Tất cả của cải vật chất trên thế gian nầy thật ra chỉ là những phương tiện giúp cuộc sống con người được dễ dàng vì khi ra đi ngay cả cái thân mà ta yêu mến cũng phải trả lại cho cát bụi thì làm sao giữ được những thứ vật chất giả tạm nầy! Cứu cánh của cuộc sống phải là cái gì cao cả, huyền diệu hơn. Khi con người mở rộng tâm Bồ-đề, thực hành Lục độ vạn hạnh thì tâm rất thanh thản, an vui và tự tại. Do đó một khi tâm bất an thì tuy thế giới bên ngoài huy hoàng rực rỡ mà ta vẫn thấy không vui. Ngược lại nếu tâm đã tịnh thì cho dù bất cứ thế giới bên ngoài như thế nào, cho dù ở nhà, ở chùa, ở chợ, ở công sở…con người vẫn thấy an vui, hạnh phúc vì niềm hạnh phúc nầy phát xuất từ trong nội tâm và lan tỏa ra ngoài. Hạnh phúc nầy mới là vô giá.

Cho nên Xuyên Thiền Sư cũng có câu:

Thế giới bao nhiêu vật hữu hình

Tu-di sừng sựng cũng hư danh

Dầu cho người chỉ muôn điều Có

Ta nói đều Không lý mới minh.

Khi Đức Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề, ngoài chứng được Tam Minh: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu Tận Minh Ngài còn chứng được lục đại thần thông. Trong số đại đệ tử của Phật không ai giỏi thần thông bằng tôn giả Mục Kiền Liên, nhưng thần thông đâu có thắng nghiệp lực nên chính tôn giả cũng bị bọn ngoại đạo lăn đá đè chết. Đức Phật từng khuyên đệ tử không nên dùng thần thông mà chỉ dùng Chánh Pháp để thuyết phục cứu độ chúng sinh. Đối với Ngài, dùng thần thông cũng giống như các phái ngoại đạo vì khi thần thông hết thì lòng tin của con người cũng tan biến theo. Còn Chánh pháp thì ngàn đời bất biến. Vậy trong kinh khi Phật hiện thần thông lấy ngón chân nhấn xuống đất phải chăng là một ẩn dụ? Nên nhớ đây là kinh bất khả tư nghì nên không thể nghĩ bàn được.

Đức phật lấy ngón chân nhấn xuống đất có ý là muốn nhắn nhủ với chúng sinh phải đè ép cái tâm của mình xuống đừng cho vọng động nổi lên bởi vì tâm yên thì mới có Định. Tâm định thì trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí tuệ thì tâm sẽ thanh tịnh và có cõi Phật thanh tịnh. Nhờ thần lực của Phật mà đại chúng đều thấy mình ngồi trên tòa sen báu, ý Phật muốn nói là trong tất cả chúng sinh ai ai cũng đều có Phật Tánh như nhau tức là đều có khả năng thành Phật, nhưng vì sống trong vô minh điên đảo nên chúng sinh phải chịu trầm luân nơi uế độ. Nếu con người biết thức tĩnh phá trừ vô minh vọng thức để thấy được Chân lý tức là làm cho tâm mình được thanh tịnh thì thế giới Ta-bà nầy sẽ biến thành cõi an vui Tịnh độ. Nhưng tại sao lại nhấn xuống đất? Đất là do chữ Địa nên đất là Tâm vì thế mới có danh từ Tâm Địa cho nên nói người nầy tâm địa tốt và người kia tâm địa xấu là vậy. Tất cả muôn sinh vạn vật có sinh tồn cũng do đất. Cho nên Đức Phật cũng dạy rằng:”Hãy học các hạnh của đất. Dù con người có dẫm đạp, đổ lên đất những thứ nhơ bẩn hôi tanh hay rưới xuống đất hương hoa thơm tho tinh khiết, đất cũng an nhiên không giận, chẳng mừng. Biết được như thế sẽ không còn bị mọi cảm thọ bám vào. Biết nhìn cảm thọ như đối tượng bị nhìn thay vì đồng hóa mình với cảm thọ thì sẽ luôn thanh thản an nhiên trước mọi sự”. Cây cỏ, ruộng lúa, hoa quả… cũng do đất sinh ra ví như những tư tưởng thiện ác, tốt xấu đưa con người lún sâu vào vòng sinh tử khổ đau hoặc hướng về cảnh giới giải thoát giác ngộ đều do Tâm tạo.

Đang lúc Phật hiện cõi nước trang nghiêm thanh tịnh và dạy về chân lý liễu nghĩa thượng thừa này, Bảo Tích và cùng năm trăm trưởng giả tử cùng thể nhập được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tám vạn bốn nghìn người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, Đức Phật thâu nhiếp thần lực và thế giới Ta-bà trở lại trạng thái cũ, vẽ đẹp trang nghiêm thanh tịnh cũng biến mất.

Khi đã thấu hiểu giáo lý giải thoát giác ngộ tối thắng đại thừa và nghiệm chứng được cõi nước trang nghiêm thanh tịnh thì ông Bảo Tích và năm trăm trưởng giả tử đều chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô sanh là không còn còn sanh, còn diệt có nghĩa là thoát hẳn ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Pháp nhẫn là trí tuệ vô lậu có được là do tất cả những công đức tinh tấn tu hành. Vậy chứng vô sanh pháp nhẫn là phát huy được cái trí tuệ vô lậu để tâm được an trụ trong cái Thể bất sanh bất diệt, như như bất động và thoát ra khỏi vòng sinh tử trầm luân.

Phật bây giờ nhắc ngón chân lên khỏi mặt đất có nghĩa là nếu con người không còn đè chặt cái tâm xuống thì vọng thức mê lầm tha hồ dấy khởi. Tâm bây giờ không còn Định nửa cho nên cõi Thanh tịnh biến mất và thế giới bất tịnh, ô nhiễm hiện lại như xưa.

Phàm nhân và các vị Trời thường hay cầu cho mình đạt được các quả của Thanh Văn. Nhưng sau khi nghe Phật thuyết giảng thì họ đều biết rằng tất cả các pháp hữu vi là vô thường vì hàng Thanh văn chỉ bỏ được ngã chấp mà chưa phá được pháp chấp tức là họ vẫn còn thấy có pháp môn để tu và quả vị để chứng. Nay nhờ thần lực của Phật họ thấy tận mắt cảnh vô thường biến đổi. Đó là khi tâm thanh tịnh thì Ta-bà thành Tịnh độ và khi tâm bất an thì Tịnh độ thành Ta-bà cho nên tôn giả Xá Lợi Phất cùng tám ngàn Tỳ kheo không còn chấp pháp, bỏ hết mọi chấp trước và tâm ý được tự tại giải thoát. Vì thế mới có câu:

Ba vị Thanh Văn thoát nghiệp trần

Tới lui tìm đạo có sơ thân

Rõ ràng bốn quả nguyên không quả

Hóa độ thân Không tức Pháp thân

Khi đại chúng lãnh hội lời Phật dạy thì chắc chắn sẽ có kết quả khả quan. Người căn cơ thấp như tám vạn bốn ngàn chúng sinh có quả vị an vui tự tại và phát tâm vô thượng Bồ-đề, cao hơn thì có ba vạn hai ngàn người và Trời chứng được Sơ quả (nếu theo Tiểu thừa, Nam Tông, sơ quả là Tu Đà Hoàn còn Đại thừa, Bắc tông, Sơ quả là Bồ-tát Sơ Địa tức là quả thấp nhất trong mười địa vị của Bồ-tát) và tám ngàn Tỳ kheo thì chứng được quả A-la-hán. Cao hơn nữa có ông Bảo Tích và năm trăm trưởng giả tử chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn là có trí tuệ vô lậu và thoát ly ra khỏi sinh tử luân hồi.

Tóm lại, đoạn kinh nầy muốn nhấn mạnh vai trò của người Phật tử tại gia mà tiêu biểu nhất là ông Bảo Tích và năm trăm trưởng giả tử là những cư sĩ tại gia nhưng tất cả luôn giữ gìn giới hạnh, phát tâm Bồ-tát đại thừa. Tuy sống trong dục lạc thế gian nhưng giữ Tâm ngay thẳng, noi theo Bồ-tát đạo làm việc quên mình vì người để gầy dựng vun bồi công đức. Nếu hàng xuất gia đắc được Thánh quả thì hàng Phật tử tại gia cũng chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn tức là thoát ly ra khỏi sinh tử luân hồi. Một điểm đặc thù khác của đoạn kinh nầy Đức Phật muốn xác định rõ ràng là không nhất thiết phải vào chùa mới là tu, mà chúng sinh ở đâu tu cũng được, chỗ nào cũng là đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh và gặp hoàn cảnh nào tu cũng tốt. Cốt tủy của chân lý nầy là chúng sinh chỉ cần chuyển Tâm chớ không chuyển cảnh bởi vì một khi tâm đã tịnh thì có quốc độ hay cõi Phật tịnh. Vì thế ca dao Việt Nam mới có câu:

Thứ nhất là tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com