Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Tu sĩ và thế giới hôm nay

07/02/201114:09(Xem: 9467)
12. Tu sĩ và thế giới hôm nay

LÝ THUYẾTVÀ THỰC TẾ
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2008 - PL. 2551

-12-

Tusĩ và thế giới hôm nay
Sinhhoạt tu viện tại Tây Úc

Bàiđọc trong diễn đàn Diệu Pháp,
Paltalk,tháng 10-2005

*

Kínhthưa quý chư tôn đức Tăng Ni và quý anh chị đạo hữu,

Hômnay, chúng tôi xin mạo muội trình bày sơ lược các nét chínhvề sinh hoạt của Tu viện Bodhin-yana (Giác Minh) và Ni việnDhammasara (Tinh Pháp) tại tiểu bang Tây Úc, như là một thídụ về sinh hoạt tu học trong một xã hội Tây Phương.

Mặcdù là một trong những hội viên lâu năm của Hội Phật giáoTây Úc (The Buddhist Society of Western Australia) và có phước duyênđược gần gũi chư Tăng Ni, chúng tôi chỉ là cư sĩ Phậttử và vì thế, sự hiểu biết của chúng tôi về sinh hoạtTăng đoàn còn nhiều hạn chế. Kính mong quý vị hoan hỷ thôngcảm cho những thiếu sót của chúng tôi.

1.Hội Phật giáo Tây Úc

HộiPhật giáo Tây Úc được thành lập năm 1974 do Giáo sư Jayasuriya,người gốc Tích Lan, và một số Phật tử tại thành phốPerth khởi xướng. Hiện nay, tổng số hội viên chính thứclà 300 người, gồm có người Úc gốc Âu Mỹ và các Phậttử gốc Á Đông như Thái Lan, Lào, Campuchia, Miến Điện, TíchLan, Mã Lai, Singapore, Trung Hoa, và Việt Nam.

Lúcban đầu, Hội mua được một ngôi nhà nhỏ ở vùng North Perthđể làm nơi thờ phượng và sinh hoạt giáo lý. Thỉnh thoảngHội mời thỉnh các danh tăng đến từ Thái Lan, Miến Ðiện,và Tích Lan để giảng pháp và hướng dẫn các khóa tu thiền.

Ðếnnăm 1981, Hội thỉnh được hai tu sĩ Phật giáo người Úc– nhưng tu học ở Thái Lan trong nhiều năm, đến hoằng pháptại Perth. Ðó là Tỳ khưu Jagaro và Purisso, thuộc truyền thốngẨn Lâm của ngài thiền sư Ajahn Chah, một vị thiền sư danhtiếng ở Thái Lan. "Ajahn" (A-chàn) là tiếng Thái, có nghĩalà Thầy, bắt nguồn từ tiếng Phạn "Acarya" (A-xà-lê).

2.Tu viện Bodhinyana

Sựcó mặt của hai vị Tỳ khưu nầy đã lôi cuốn được rấtnhiều người Úc đến nghe giảng pháp và thực tập hành thiền.Năm 1983, Hội mua được một thửa đất rừng nguyên sinh tronghuyện Serpentine, cách thành phố Perth khoảng 70 kílômét vềhướng Nam để thành lập một Tu viện. Tu viện nầy rộngkhoảng 40 hécta, nằm trên một ngọn đồi cao, có suối chảyngang, với nhiều loại cây nguyên sinh, chưa khai phá. Vị trụtrì hiện nay, và cũng là vị lãnh đạo tinh thần của HộiPhật giáo Tây Úc, là ngài Tỳ khưu Brahmavamso, người Anh,nhưng rất thông thạo tiếng Thái và Pali.

Tuviện có tên là Bodhinyana (Giác Minh), dựa theo pháp danh củangài Thiền sư Ajahn Chah, được dành làm nơi tu học cho cácvị Tỳ khưu. Trong khuôn viên của tu viện có một chánh điệnlớn để các vị Tỳ khưu tụ hội tham thiền, học kinh điểnvà giới luật. Phía sau là một thư viện chứa các bộ TamTạng bằng tiếng Pali, Thái, và Anh, và các kinh sách quan trọngkhác.

Ởgần chánh điện có một trai đường, gồm 2 tầng. Tầng trêndành cho quý chư Tăng thọ trai và tiếp khách, tầng dướilà nhà bếp và một phòng đa dụng dành cho các sinh hoạt củacư sĩ đến làm công quả. Rải rác trong rừng là các tịnhthất nhỏ dành cho các Tỳ khưu, mỗi vị một tịnh thất,với kích thước khoảng 3x3 mét, vừa đủ để một giườngngủ và một bàn viết nhỏ. Bên ngoài mỗi tịnh thất làcó một đường đi ngắn khoảng 30 mét, có mái che để đikinh hành.

Ngoàira, còn có một khu nhà 4 phòng dành cho các giới tử tu họcdài hạn, một nhà 3 phòng dành cho nam cư sĩ và một nhà 3phòng dành cho nữ cư sĩ đến tu học ngắn hạn.

Hiệnnay, có nhiều Phật tử tại Tây Úc cũng như từ các nơi kháctrên thế giới đến xin ở lại tại tu viện để thọ támgiới, hành thiền, và giúp điều hành tu viện; có thể xemnhư đó là các cư sĩ hộ tăng, những ưu-bà-di (upasika, cậnsự nữ) và ưu-bà-tắc (upasaka, cận sự nam). Thông thường,đây là những Phật tử thuần thành, có sinh hoạt thườngxuyên với Hội Phật giáo Tây Úc và từng tham gia nhiều khóatu thiền ẩn cư do Hội tổ chức. Sau đó, nếu phát tâm xuấtgia, các vị này xin trở thành giới tử (anagarika), mặc y phụctrắng, cạo tóc, và tuân giữ 8 giới căn bản. Ngoài côngphu hành thiền và học tập giáo lý căn bản, các vị giớitử nầy cũng được hướng dẫn các nghi thức căn bản vàgiới luật.

Saumột năm, vị giới tử xin thọ giới Sa-di (samanera), giữ 10giới. Điểm căn bản khác với hàng giới tử là ngoài việcđắp y vàng nâu, các vị Sa-di không được phép cất giữtiền bạc, không được phép tự lái xe, nhưng vẫn có thểphụ với các giới tử để sửa soạn thức ăn nếu cầnthiết. Tuy nhiên, cũng như hàng Tỳ khưu, mỗi vị Sa-di đượccấp cho một tịnh thất riêng biệt. Lễ xuất gia Sa-di thườngđược tổ chức tại Trung tâm Phật giáo Dhammāloka (Pháp Quang)ở thành phố Perth.

Saumột năm, nếu thích hợp, vị Sa-di có thể xin thọ đại giớiđể trở thành Tỳ khưu (Bhikkhu). Tuy nhiên, lễ thọ Đạigiới Tỳ khưu thì được tổ chức trong chánh điện củaTu viện Bodhinyana, nơi đã có kết giới Sima, theo đúng nghithức truyền thống của Phật giáo Nguyên thủy.

Cácvị Tỳ khưu tại tu viện không cất giữ tiền bạc hay sởhữu bất kỳ một hình thức tài sản riêng tư nào, hoàn toànsống nhờ vào sự cúng dường tứ vật dụng của hàng cưsĩ. Tất cả mọi việc có liên quan đến chi thu tài chánhđều do các cư sĩ trong Ban Trị sự của Hội Phật giáo TâyÚc quản lý. Trong bối cảnh hiện đại của nước Úc, cácvị có giữ thêm một thẻ y tế Medicare do chính phủ cấpđể được khám bệnh miễn phí mỗi khi đau ốm. Thêm vàođó, các vị tu sĩ hoàn toàn không tham gia vào các hoạt độngchính trị hay các thế sự khác. Một thí dụ là mặc dù ởÚc có quy chế bắt buộc mọi công dân phải đi bầu phiếumỗi khi có các cuộc tuyển cử Quốc hội Liên bang và Tiểubang, các vị Tỳ khưu đã xin đặc miễn, để không tham giavào các hoạt động đó.

Thôngthường, vị Tỳ khưu thức giấc khoảng 4.00 giờ sáng vàhành thiền trong tịnh thất của mình. Điểm tâm tại traiđường lúc 6.30 giờ, nhưng cũng có vị không dùng điểm tâm.Sau đó là các công tác bảo quản và điều hành tu viện.Bửa ăn chính vào khoảng 10.30 giờ sáng, thức ăn do các cưsĩ mang đến cúng dường hay cho các giới tử nấu thêm. Cácvị đều ăn trong bình bát riêng của mình, cùng ngồi chungtại trai đường, hoặc ăn riêng tại tịnh thất.

Phầnthời gian còn lại trong ngày là ẩn cư tịnh tu. Hành thiềntại tịnh thất, tự học kinh điển tại thư viện, hoặccó những giờ tham vấn riêng với Sư Cả hay các vị sư caohạ khác. Vào buổi chiều, khoảng 18.00 giờ, các vị tụ hộitại chánh điện, tụng đọc khóa lễ buổi chiều, sau đólà uống trà, và bàn luận về các vấn đề liên quan đếnsự tu học. Mỗi tháng 2 lần, vào buổi tối, các vị Tỳkhưu tụ hội tại chánh điện để đọc tụng giới bổncủa tu sĩ, Patimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa).

Thỉnhthoảng, mỗi vị lại tự nhập thất tịnh tu biệt cư, trongkhoảng từ 2 tuần lễ đến 1 tháng hoặc lâu hơn, không giaotiếp với một người nào khác.

Đôikhi các vị Tỳ khưu mới xuất gia cũng được phép tháp tùngtheo Sư Cả hoặc các vị trưởng lão về thành phố Perth vàocuối tuần để thuyết pháp, hoặc tham dự các khóa lễ cầusiêu, cầu an tại nhà của cư sĩ nếu có thỉnh mời, hoặctham dự hướng dẫn các khóa tu thiền dành cho cư sĩ, đểquan sát và học tập kinh nghiệm về cách thức thuyết giảnggiáo pháp, các khóa nghi lễ phổ thông, cũng như cách giao tiếpvới hàng cư sĩ.

Saukhi tu học ở đây được 5 năm, các vị Tỳ khưu được gửiđến các tu viện khác, thường là đến các nơi trong cùngtruyền thống của Ngài Ajahn Chah ở Thái Lan để tu học thêm.Ngoài ra, các vị đó có thể đến tu học ở Miến Điện,Sri Lanka, Tân Tây Lan, và Anh quốc. Mỗi năm vào mùa an cư kiếthạ, có thêm một số Tỳ khưu ở các nơi khác đến tu việnđể nhập hạ tịnh tu. Hiện nay, có tất cả là 20 vị Tỳkhưu đang tu học tại đây, gồm nhiều thành phần sắc tộckhác nhau: Úc, Anh, Mỹ, Đức, Na Uy, Thái, Sri Lanka, Nepal, Malaysia,và 2 vị Tỳ khưu gốc Việt. Với nhu cầu tu học ngày càngphát triển, Ngài Ajahn Brahm đã mở thêm một tu viện chi nhánhở tiểu bang New South Wales, miền đông nước Úc, có tên làTu viện Santi, cũng tọa lạc trong khung cảnh núi rừng đểtịnh tu.

3.Ni viện Dhammasara

Đểcung ứng nhu cầu tu học của các nữ Phật tử, vào năm 1999,Hội Phật giáo Tây Úc mua thêm một thửa đất rừng nguyênsinh, rộng khoảng 150 hécta, trong huyện Gidgeganup, 60 kilômétvề hướng Đông Bắc thành phố Perth, để thành lập Ni việnDhamma-sara (Tinh Pháp). Viện chủ hiện nay là Ni sư Vayama, ngườiÚc, đã từng tu học 10 năm với cố Ni sư Ayya Khema ở SriLanka.

Niviện Dhammasara được thành lập để tạo một môi trườngthuận lợi và thích nghi cho việc tu học ẩn cư của các vịnữ Phật tử, với những điều kiện tương tự như Tu việnBodhinyana dành cho các nam Phật tử. Ni viện gồm có một nhàđa dụng, trong đó có một trai đường rộng lớn, một phòngkhách, nhà bếp, và 2 phòng ngủ dành cho giới tử. Trong rừngsâu, có 5 tịnh thất biệt lập dành cho các vị Tu nữ. Kiếntrúc tịnh thất cũng tương tự như tịnh thất ở Tu việnBodhinyana: một phòng 3x3 mét, và một lối đi kinh hành dài30 mét có mái che.

Nhữngnữ Phật tử cư sĩ có thiện tâm muốn xuất gia thì có thểxin đến thử tu học một thời gian từ 3 đến 6 tháng, mặcy phục trắng, giữ 8 giới. Sau đó, nếu thích hợp, có thểxin làm giới tử, quấn y trắng, giữ 8 giới và cạo tóc.Sau 2 năm, vị nữ giới tử có thể xin xuất gia thành Tu nữ,tuân giữ 10 giới, và đắp y màu nâu. Ngoài 10 giới căn bản,còn có một số điều lệ học giới, dựa theo giới bổncủa Tỳ khưu ni.

Cũngnhư các vị Tỳ khưu, các vị Tu nữ ăn cơm trong bình bát,không cất giữ tiền bạc hay sở hữu bất kỳ một hình thứctài sản riêng tư nào, hoàn toàn sống nhờ vào sự cúng dườngtứ vật dụng của hàng cư sĩ. Mọi vấn đề tài chánh đểđiều hành Ni viện đều do các cư sĩ trong Ban Trị Sự củaHội Phật giáo Tây Úc quản lý.

Chươngtrình sinh hoạt hằng ngày tại Ni viện Dhammasara cũng tươngtự như lịch sinh hoạt của các vị Tỳ khưu tại Tu việnBodhinyana.

Hiệnnay, Tu viện có 5 vị Tu nữ: Ni sư Vayama và 4 vị Sư cô khác.Ngoài ra, tu viện có nhận thêm các vị nữ giới tử. Mỗitháng, Ni sư Vayama về thành phố Perth để giảng pháp và hướngdẫn hành thiền cho các cư sĩ hội viên. Theo nội qui củaHội Phật giáo Tây Úc, Ni sư Vayama cùng với Ngài Ajahn Brahmavamsolà hai vị đồng Cố vấn Tinh thần của Hội.

Ngoàitu viện Bodhinyana và ni viện Dhamma-sara ở Úc, còn có mộtsố tu viện khác của tăng sĩ Tây phương trong truyền thốngẨn Lâm của ngài Ajahn Chah, như tu viện Abhayagiri ở Hoa Kỳ;ở Anh quốc có các tu viện Amaravati, Ratanagiri, Cittaviveka, Santidhamma;ở Thụy Sĩ có tu viện Dhammapala; ở Ý có tu viện Santacittarama;và ở Tân Tây Lan có tu viện Bodhinyanarama. Nguyên tắc sinhhoạt tại các tu viện này cũng tương tự như tu viện tạiTây Úc.

4.Sinh hoạt ngày nay

Nhìnchung, mặc dù môi trường và hoàn cảnh hiện nay trong xã hộiTây Phương có phần khác biệt so với thời Đức Phật còntại thế, nhưng trong 20 năm qua, Tăng đoàn tại Tây Úc đãnỗ lực gầy dựng một truyền thống tu học và gìn giữgiới luật theo đúng tinh thần của Phật giáo Nguyên thủy.Điều này tùy thuộc nhiều yếu tố, nhưng có lẽ có hai yếutố quan trọng nhất: thứ nhất là sự quyết tâm tu học vàhành trì giới luật nghiêm túc của vị lãnh đạo Tăng chúngvà các thành viên Tăng đoàn; và thứ hai là sự quyết tâmhỗ trợ chư Tăng Ni và lòng thành tâm học tập, nhiệt tìnhđóng góp tích cực vào các Phật sự của các vị cư sĩ hộtăng, hộ tự nòng cốt của Hội.

Thêmvào đó, chúng tôi nghĩ rằng để Phật giáo được quảngbá và thật sự bám rễ tại một quốc gia Âu Mỹ, các tuviện, tự viện cần phải được mở rộng, vượt qua cácrào cản về văn hóa, sắc tộc, để đón nhận người dânbản địa. Hoạt động của Hội Phật giáo Tây Úc và haitu viện Bodhinyana và Dhammasara có thể xem như là một thí dụđiển hình. Đây không phải là một hội Phật giáo dành riêngcho cộng đồng người Việt, hay người Hoa, người Thái, ngườiMiến, v.v... mà là hội Phật giáo của người Úc tại xứÚc. Các thành viên đến từ nhiều nguồn gốc sắc tộc khácnhau, nhưng tất cả đều dùng tiếng Anh là ngôn ngữ chính,và các hình thức văn hóa phong tục lễ nghi cúng kiến rườmrà, không cần thiết, mang đến từ Á Đông, đều đượcgạn lọc, chỉ giữ lại phần gốc tinh túy nhất của đạoPhật. Các vị tu sĩ giảng sư hoặc là người bản địa,hoặc là người có thể thuyết giảng thông thạo bằng tiếngbản xứ (ở đây là tiếng Anh). Các vị này cũng đã trảiqua một quá trình tu học nhiều năm tại một xã hội Phậtgiáo ở châu Á (Thái Lan, Sri Lanka, Miến Điện) để thấmnhuần và thông hiểu tường tận các sinh hoạt và nghi thứctinh yếu của Phật giáo. Thêm vào đó, một phần các sinhhoạt của Hội cũng hướng đến mục đích cung ứng nhu cầutâm linh của giới trẻ, giảng giải Phật pháp bằng nhữngngôn từ giản dị, hiện đại, thuận lý và mạch lạc, hướngdẫn các khóa thiền thư dãn tâm trí, và khuyến khích hộiviên tích cực tham gia các công tác thiện nguyện, cứu trợxã hội, v.v.

Đờisống xuất gia là một đời sống thanh cao, lý tưởng. Nhữngngười cư sĩ tại gia chúng ta cần phải có nhiều đóng góp– thì giờ, công sức, lẫn tiền bạc – để tạo điềukiện thuận lợi cho những vị nào thành tâm tu học, nam tusĩ lẫn nữ tu sĩ. Qua những gì chúng tôi quan sát được tạiTây Úc, chúng ta cần khuyến khích giới Phật tử trẻ thamgia Phật sự, nghe thuyết pháp, và hành thiền, để tạo duyênlành cho họ, để tạo những cơ hội tốt cho họ xuất gianếu thích hợp. Để tiếp nối con đường hoằng pháp củacác vị tiền bối, chúng ta phải hướng đến việc đào tạolớp tu sĩ trẻ, sinh ra hoặc trưởng thành tại bản địa.

Nếuvị Phật tử cư sĩ nào phát tâm xuất gia thì cũng cần phảikiên nhẫn, để thực hiện từng bước, qua nhiều giai đoạn.Đầu tiên là thường xuyên tham gia các khóa học Phật phápphổ thông, các khóa thiền căn bản, và cũng nên cố gắnghọc tụng đọc các bài kinh căn bản. Đời sống riêng tưtại gia cũng cần phải giản dị hóa, giảm thiểu mọi ràngbuộc, mọi nhu cầu không cần thiết. Sau đó, nên thu xếpthì giờ để đến tu học ngắn hạn tại tu viện, đóng gópPhật sự, gần gũi chư Tăng Ni, để làm quen với lối sốngtại đó. Dần dần, nếu cảm thấy thích hợp thì có thểtiến đến giai đoạn lâu dài hơn, xin tu học như là giớitử, rồi thọ giới sa-di, tỳ khưu hoặc là tu nữ.

Vớinhững ai vì già yếu, hay bệnh tật, không thể sống đượctại tu viện, hoặc ở xa xôi, không thể tiếp cận đượcmột tu viện thích hợp, thì vẫn có thể tu ẩn cư tại nhà,giữ 8 giới. Tuy rằng phương cách nầy có nhiều hạn chế,nhưng theo thiển ý, cũng là một phương cách tốt, một phươngcách tâm lý xuất gia, cũng có thể đưa đến nhiều kết quảtốt lành và cao quý cho đời sống tâm linh.

*

Trongbài nầy, chúng tôi chỉ mạo muội trình bày tóm tắt cácsinh hoạt chính của chư Tăng Ni tại Tây Úc trong truyền thốngPhật giáo Nguyên thủy. Chúng tôi cố gắng trình bày mộtcách khách quan, qua sự quan sát và ghi nhận của một ngườicư sĩ tại gia. Mỗi tu viện có đường lối và nguyên tắcsinh hoạt riêng, không hoàn toàn giống nhau, tùy theo hoàn cảnhvà môi trường xã hội, văn hóa của từng địa phương.

Nhữnggì đã trình bày trên đây không phải là một mẫu mực chungcho mọi nơi; mà chỉ có thể xem như là một thí dụ đểgóp ý, không hẳn có thể hoàn toàn thích nghi, áp dụng đượctại các địa phương khác.

Trướckhi dứt lời, chúng tôi thành tâm kính chúc quý vị thân tâman lạc, tu hành tinh tấn trong hồng ân Tam Bảo.

NamMô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

BìnhAnson,
TâyÚc, tháng 10-2005

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com