Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật thuyết Văn-thù-sư-lợi Pháp bảo tàng đà-ra-ni

13/01/201215:56(Xem: 5690)
Phật thuyết Văn-thù-sư-lợi Pháp bảo tàng đà-ra-ni

mattong_1Phật thuyết Văn-thù-sư-lợi
Pháp bảo tàng đà-ra-ni

Đại Đường Nam Ấn Độ, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi dịch từ Phạn ra Hán
Nam Việt Nam, Sa-môn Thích Viên Đức dịch thành Việt văn
(1976)

Như thật tôi nghe: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại cung trời Tịnh Cư, cùngcác vị đại Bồ-tát ma-ha-tát và vô lượng Tịnh Cư Thiên tử, trước sau đoanh vây,cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chiêm ngưỡng Như Lai.

Lúc ấy đức Thế tôn, chính nơi trong chúng, vì các đại chúng, nói đà-ra-niPháp mầu vô lượng. Lại vì lợi ích cho các chúng sanh bạc phước trong đời vị lai,liền nhập tam-muội, gọi rằng Diễm Quang, nơi trên đảnh ngài phóng ra vô lượngcác thứ quang minh, ánh quang minh kia xoay vần chiếu sáng vô lượng vô biên thếgiới chư Phật. Chiếu rồi lui về, nhiễu quanh đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, rồinhập vào đảnh.

Ánh hào quang kia nhập vào đảnh rồi, đức Văn-thù-sư-lợi liền nhập tam-muội,gọi là Đà-ra-ni Tự Tại Vương. Nhập tam-muội này, tức từ trong miệng tuôn ra vôlượng các thứ sắc tướng quang minh. Ánh quang minh kia đã phát ra xong, rồi vàotrong đảnh Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát.

Khi ấy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát liền từ tòa ngồi đứng dậy, trịch vai áobên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay hướng lên đức Phật, cung kính đảnh lễ, chiêmngưỡng Tôn nhan, mà bạch Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, xưa kia vì con nói lờinhư vầy: sau khi Pháp ta diệt, nơi Thiệm Bộ châu gặp thời ác thế,Văn-thù-sư-lợi sẽ làm Phật sự, rộng hay lợi ích vô lượng chúng sanh. Cúi mongThế tôn vì con phân biệt diễn bày rành rẽ, nơi nào, chỗ nào, và địa phương nào,mà hay làm lợi ích, xót thương ủng hộ các chúng sanh thế đó? Mong ngài nói cho!”

Khi ấy đức Thế tôn dạy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Này thiện namtử, ông nay vì các hữu tình mà phát hỏi nơi ta. Lành thay, lành thay! Ông naylắng nghe, lắng nghe,khéo hay suy nghĩ, ta nay vì ông phân biệt diễn nói!”

Bấy giờ, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát nghe lời Phật rồi, hớn hở vui mừng,sửa sang y phục, một lòng vâng nghe. Khi ấy, đức Thế tôn lại bảo Kim Cang MậtTích Chủ Bồ-tát rằng: “Sau khi ta diệt độ, nơi Thiệm Bộ châu này, ở về phươngĐông-Bắc có nước gọi là Đại Chấn-na. Trong nước kia có núi hiệu là Ngủ Đảnh,Văn-thù-sư-lợi Đồng tử du hành và cư trụ ở đó, vì các chúng sanh trong ấy mànói Pháp, và vô lượng chư Thiên, Long thần, Dạ-xoa, La-sát, Khẩn-na-la,Ma-hầu-la-già, người và phi nhơn …vv, vi nhiễu cúng dường cung kính.”

Đức Thế tôn lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: “Văn-thù-sư-lợi Đồng tử cóvô lượng oai đức như vậy vân vân, thần thông biến hóa tự tại trang nghiêm, rộnglàm nhiêu ích hết thảy hữu tình thành tựu viên mãn, sức phước đức không thểnghĩ bàn.”

Lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: “Văn-thù-sư-lợi có đà-ra-ni rất tốithắng, tâm chơn ngôn rất bí mật, còn có ấn pháp họa tượng và mạn-đà-la nữa. Ởđời mạt thế sau này, khi Phật pháp diệt, các ác pháp tăng trưởng, các tai hưngkhởi, thời đó như vậy. Đời sau này trong Thiệm Bộ châu, ác nghiệp của các chúngsanh bạc phước ít trí sẽ tăng trưởng, ngũ hành mất thứ tự, âm dương lộn xộn,gió mưa không đều, ác tinh biến quái, Thiên nhơn Tu-la tranh khởi đấu chiến.Thiên nhơn giảm ít, Tu-la tăng nhiều, các thứ tai chướng đương thời thạnh hànhtrong nhân thế. Ác quỷ hạ giáng biến làm hình gái, cùng các chúng sanh làm cácbịnh khổ, như: yết hầu sưng nghẹt, ghẻ lở, ban trái, lác hủi, bụng to đau nhức,sốt rét áp huyết, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày,một lần phát rất khó trị. Hoặc hoạn bịnh phong đàm, hoặc ba bịnh đồng khởi. Đầunhức, ghẻ thủng, mắt bịnh, các tạp bịnh khác như đại tiểu tiện, lị, thổ tả…vv.

Các ác quỷthần kia, hoặc biến thân làm trùng, sói, cọp, beo, sư tử, thân các loài thú dữ,ở trong thế gian nhiếp các chúng sanh, nuốt các tinh khí, oai mất lực suy.Trong Thiệm Bộ châu có những thời như thế, vô lượng chúng sanh gặp bao hoạnhtử. Dù có các thuốc cũng không thể cứu lành. Như trong đời đó, trong khoảng mộtngày có 30 vĩ-mạt-ra số. Vậy cho nên, này Kim Cang Mật Tích Chủ, ta nay khiếnông chuyển lại cho chúng sanh đà-ra-ni pháp này, khiến lần lượt thọ trì. Vì saothế? Bởi vì Thiệm Bộ châu này đã có những chúng sanh thường phát Bồ-đề đạinguyện thiện tâm, chúng ta mong họ ngày nào có thể ra khỏi được biển khổ phiềnnão vô minh ái ngục này. Vậy cho nên ông hãy thường giáo hóa, rộng vì họ mà lưubố khắp nơi, khiến họ đối với Phật tháp và chỗ ngôi Tam Bảo phát lòng chánhtín, tu học nghiệp lành, chớ khởi phi pháp, hiếu thuận cha mẹ, tôn trọng sưtrưởng, đối với các bậc hiền thiện, sanh tâm tưởng nương nhờ, hằng đem hoahương trăm vị ngon ngọt cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen. Tụng đà-ra-nitối thắng này bảy ngày bảy đêm, mỗi ngày thọ Bát quan trai giới. Còn cácđà-ra-ni sau cũng cần phải niệm tụng.”

Bấy giờ đứcNhư lai đại bi nghĩ thương chúng sanh, liền nói:

1. QuảngThâm Trí Lôi Âm Vương Như Lai đà-ra-ni rằng:

Nẵng mồ Vi bổ lã Một địa nghiễm tỉ ra nghiệt lị nhĩ đá lạnhã dã Đát tha nga đá dã Đát nễ dã tha Vĩ bổ lã nghiệt nhĩ đế Vĩ bổ lã ta phạlệ Vĩ bổ lã du nễ thế A nẵng lã tế A nẵng lã ta nga đế dựng nga đế Ta phạ ha.

2. Trừ NhứtThiết Chướng Như Lai đà-ra-ni:

Nẵng mồ Tát phạ nễ Phạ ra nã vĩ sắc kiếm tì nãnh Đát thanga đá dã Đát nễ dã tha Hệ minh hệ minh hệ mãn hệ Ta phạ ha.

3. A-di-đà Như Lai đà-ra-ni:

Nẵng mồ Nhịđá bà dã Đát tha nghiệt đá dã Đát nễ dã tha A mật lị đô nạp bà phế A nhị đá tambà phế A nhị đà vĩ ngật lang đế Ta phạ ha.

4. Công Đức Xứ Như Lai đà-ra-ni:

Nẵng mồ Ngunã Ca ra dã Đát tha nghiệt đá dã Đát nễ dã tha Nga nga nẵng lệ Nga nga nẵng tambà phệ Nga nga nẵng kiết để yết lệ Ta phạ ha.

5. Biến Phú Hương Như Lai đà-ra-ni:

Nẵng mồ Tammãn đa ngạn đà dã Đát tha nghiệt đá dã Đát nễ dã tha Tam ma tam minh Ta phạ ha.

6. Nan Thắng Hạnh Như Lai đà-ra-ni:

Nẵng mồ A bạtra nhĩ đa vĩ ngật ra Ma ma nghiệt nhĩ đa nga nhị nĩnh Đát tha nghiệt đá dã Đátnễ dã tha Ma ma minh Ta phạ ha.

7. Trừ Mạn Như Lai đà-ra-ni:

Nẵng mồ Manẵng ta đam bà dã Đát tha nghiệt đá dã Đát nễ dã tha Ma nỗ vĩ thuấn đệ Ma nỗ vĩnhung đà ninh Ta phạ ha.

8. Đoạn Nhứt Thiết Chướng Như Lai đà-ra-ni:

Nẵng mồ Tátphạ Một đà mạo địa tát đát phạ nẫm Nẵng mồ Tát phạ nĩnh phạ thập ra nã vĩ sửkiếm tì nĩ Đát tha nghiệt đá dã Dạ ra hạ đế Tam miệu tam mẫu đà dã Đát nễ dãtha Thấp phệ đế Ca ra bệ nhập phạ lý để duệ Ta phạ ha Tim bà ninh Ta đam bàninh Mô hạ ninh Ta phạ ha Báo nã lị ca dã Ta phạ ha Hộ minh Đạt ma đạt ma tấnđá duệ Ta phạ ha Đát lệ vĩ đạt lệ ca la vĩ dựng ca rô đá duệ Ta phạ ha Phiến đểkiết ninh nễ phạ bả nĩ Ta phạ ha Đổ rô đổ rô Vĩ đổ rô địa duệ Ta phạ ha Bát nạpma ta phạ lệ Bát nạp ma tam bà phệ Chỉ ca lệ hế đơn ca lị duệ Ta phạ ha.

9. Nguyệt Quang Bồ-tát đà-ra-ni:

Nẵng mồ Tátphạ một đà mạo địa tát đát phạ nẫm Đát nễ dã tha Chiến nại ra Bát ra bệ Chiếnnga nẵng chủ ra nã kế lạ ta phạ để Tát phạ một đà địa sắc sĩ đá nã mô nỉ đế Taphạ ha.

10. Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát đà-ra-ni:

Nẵng mồ A lịdạ Mạn tộ thất lị duệ Mạo địa tát đát phạ dã Đát nễ dã tha Tễ duệ tễ duệ Nhã dãlạp phệ tễ dã ma hạ ma Ta phạ ha.

11. Quán Tự Tại Bồ-tát đà-ra-ni:

Nẵng mồ A lịda Phược lộ chỉ đế Thấp phạ ra dã Mạo địa tát đát phạ dã Đát nễ dã tha Nga nganẵng thệ Nga nga nẵng tam mẫu nghiệt đế Nga nga nẵng vĩ ngật lang đế Ế nhĩ minhnhĩ Ma nhạ minh nhĩ Ta phạ ha.

12. Phổ Hiền Bồ-tát đà-ra-ni:

Nẵng mồ A lịdã Tam mãn đa Bạt nại ra dã Mạo địa tát đát phạ dã Đát nễ dã tha Hệ bạt nại lệMa ha bạt nại lệ A để bạt nại lệ Vĩ nga đa ra nhạ tế Ma hạ vĩ nga đa ra nhạ tếhệ ma phạ để yết ma phạ ra nã Vĩ thú đà nĩnh Ta phạ ha.

13. Di-lặc Bồ-tát đà-ra-ni:

Nẵng mồ A lịdã Muội đát lị dạ dã Mạo địa tát đát phạ dã Đát nễ dã tha Muội đát lị Muội đátlị Muội đát ra ma nẵng tế Ta phạ ha.

14. Hư Không Tạng Bồ-tát đà-ra-ni:

Nẵng mồ A lịdã Khất sái dã ma đa duệ Mạo địa tát đát phạ dã Đát nễ dã tha A khất sái duệPhổ a khất sái duệ Phổ a khất sái dã yết ma Vĩ thú đà nĩnh (phổ) Ta phạ ha.

15. Vô Tận Ý Bồ-tát đà-ra-ni:

Nẵng mồ A lịdã Khất sái dã ma đa duệ Mạo địa tát đát phạ dã Đát nễ dã tha A khất sái duệPhổ a khất sái duệ Phổ a khất sái duệ Phổ a khất sái dã yết ma Vĩ thú đà nĩnhTa phạ ha.

16. Duy-ma-cật Bồ-tát đà-ra-ni:

Nẵng mồ A lịdã Vĩ ma lã kiết đa duệ Mạo địa tát đát phạ dã Đát nễ dã tha Ngôn để đá tát phạnhĩ nãi ra để kiết để đá tát phạ nhĩ Phạ nhựt ra ca lệ Phạ nhựt ra bà phệ Phạnhựt ra bệ na ca lệ Ta phạ ha.

17. Trừ Nhứt Thiết Chướng Bồ-tát đà-ra-ni:

Nẵng mồ Tátphạ nĩnh phạ ra nã vĩ sắc kiếm tì nĩ Mạo địa tát đát phạ dã Đát nễ dã tha Tátphạ ra nã Vĩ sắc kiếm tỉ nương Ta phạ ha Đà đổ vĩ ca nương Ta phạ ha Mê dà vĩta phổ tra nĩ Ta phạ ha A phạ chỉ đa ca duệ Ta phạ ha Ma lã nại na nê Ta phạ haMạo địa dựng nga na na nê Ta phạ ha Yết ma niễn phạ tỉ đa ca duệ Ta phạ ha Ê cara ma duệ Ta phạ ha Dữu nga tả duệ Ta phạ ha Tát phạ một đà tì sắc ngật đa duệTa phạ ha Một ra cảm minh bả ngu trà duệ Ta phạ ha Tát phạ đạt ma tỉ sắc ngậtđà duệ Ta phạ ha Tát phạ một đà tỉ sắc chủ đá duệ Ta phạ ha Ê ca thất lũ ngaduệ Ta phạ ha A thất lăng nga duệ Ta phạ ha A bộ đá duệ Ta phạ ha A tam bộ đáduệ Ta phạ ha Tát phạ nậu khu bác xã mãn nê Ta phạ ha.

18. Nguyệt Quang Đồng tử đà-ra-ni:

Nẵng mồ Chiếnnại ra bát ra bà dã Củ ma ra bộ đá dã Đát nễ dã tha Bát ra bệ Bát ra bà phạ đểĐạt ma vĩ thuấn địa bà mạt đồ minh Ta phạ ha.

Lúc bấy giờ đức Phật dạy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Nếu có kẻ trailành, người gái tín nào niệm tụng thập bát thiên đà-ra-ni này bảy ngày bảy đêm,nếu họ đã có những tội ba nghiệp quá khứ, hiện tại, cho đến tất cả các chướngthảy đều tiêu diệt, thân tâm thanh tịnh. Trong thế gian có những bịnh như:phong, hoàng, đàm và các bịnh hoạn khác thảy đều được trừ lành. Hết thảy quỷthần như Bố-đơn-na, quỷ điên cuồng, Dạ-xoa La-sát chấp quỷ, Tỳ-xá-giá,Nã-chỉ-nễ, và loại ăn nuốt tinh khí người, tất cả quỷ thần khác, thường cách xangười trì chú 12 do-tuần, đồng thời đói rét dịch bịnh cùng các bịnh khác, gióbão tù tội, sấm chớp sét nổ, những hoạn nạn ấy không thể xâm hại.

Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí thápxá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu cácthứ hương, trầm thủy hương, bạch giao hương …vv, thắp đèn, dâng hoa thượngdiệu, những thứ dưa quả, các vị trân tu ngon ngọt. Mỗi ngày đem món ăn ấy cúngdường bảy vị Tỳ-khưu, chép tả thọ trì đọc tụng Kinh này, y pháp tu hành, siêngtâm niệm tụng, nhiễu tháp hành đạo. Các bịnh hoạn đã có và các tai ách khácthảy đều trừ diệt.”

Bấy giờ đức Thế tôn lại dạy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Trong Pháptạng của Văn-thù-sư-lợi này, có Pháp chơn thật, Pháp tối thù thắng, Pháp khôngthể so tỷ, hay vì chúng sanh làm Như ý bảo, hay khiến quốc độ sở tại mười điềulành được khuyến hóa. Nếu quốc vương hành mười điều lành ấy thì ra làm việc gìthảy đều viên mãn.

Bát tự Đại oai đức đà-ra-ni này, xưa kia từng được quá khứ vô lượng trămngàn Hằng hà sa chư Phật đã nói, vì ủng hộ tất cả quốc vương hành thập thiện,khiến được như ý, thọ mạng sống lâu, quả báo phước đức không chi so dụ; cácphương binh giáp thảy đều chấm dứt, cõi nước an ninh, sở hữu của vương thườngđược tăng trưởng. Đà-ra-ni này có công năng lợi ích lân mẫn hết thảy hữu tìnhcùng các chúng sanh, hay đoạn dứt ba ác đạo, hay làm tất cả pháp an ẩn, nhưPhật còn hiện tại ở đời không khác. Đây là thân của đức Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát,vì lợi ích chúng sanh hiện thân làm chú thần tượng, hay viên mãn tất cả ý việcưa muốn. Nếu có người nào hay tạm thời nghe nhớ niệm đà-ra-ni này, tức hay diệtnhững tội tứ trọng ngũ nghịch, huống gì là thường xuyên niệm tụng!”

Khi đức Thế tôn nói lời ấy rồi, Kim Cang Bồ-tát lại bạch Phật rằng: “Kínhthưa Thế tôn, ngài vừa nói về Bát tự Đại oai đức đà-ra-ni, vậy đà-ra-ni ấy làgì? Cúi mong đức Thế tôn nói cho!”

Khi ấy đức Thế tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Ông nay lắngnghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói tên Bát tự Đại oai đức Bí mật tâm đà-ra-ninày, là đệ nhứt, như Phật ở đời không khác, hay ban cho tất cả chúng sanh trongchốn tối tăm làm đèn sáng lớn.”

Bấy giờ đức Như Lai liền nói đà-ra-ni rằng:

Nẵng mồ A bảlị nhị đá dữu chỉ nương Nẵng vĩ nĩnh thất dã, dã ra tế nại ra dã Đát tha nghiệtđá dã Nẵng mồ Mạn tộ thất lị duệ Củ ma la bộ đá dã Đát nễ dã tha Úm ác vị rahùm khư tả lạc.

Nơi đây đức Thế tôn lại dạy Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: “Bát tự Tối thắngĐại oai đức tâm chơn ngôn ấy, trụ ở chỗ nào, như Phật ở đời không có khác, hayhiện các món thần lực không thể nghĩ bàn của chư Phật, cũng hay làm đại thầnthông biến hóa. Ta nay chỉ lược khen ngợi thiểu phần công đức của đà-ra-ni này,chứ nếu nói đủ, thì vô lượng câu-chi na-do-tha trăm ngàn đại kiếp cũng nóikhông thể hết.

Kim Cang MậtTích Chủ! Đà-ra-ni này, nếu kẻ trai lành, người gái tín không thể sắm sửa thừasự cúng dường Pháp đầy đủ, vì tại gia bức bách, bận rộn các gia nghiệp, chỉ haynhớ trì không lãng quên, y thời niệm tụng, tùy phần không thiếu cúng dường đathiểu cũng được thành tựu, trừ không chí tâm, không lòng chánh tín, không pháttâm Đại thừa Bồ-đề, hưng khởi hành động hủy báng Tam Bảo, đã khởi tâm khônglành, làm các ác nghiệp, thì những người này còn không thể thành tựu các phápnhỏ, huống gì đại pháp thì làm sao có thể thành tựu được!”

Bấy giờ Phậtbảo Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: “Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn niệmđà-ra-ni này một biến, tức hay tự hộ, hai biến hay hộ đồng bạn, ba biến tức đạiủng hộ, hàng trụ Thập địa Bồ-tát còn không thể vượt qua được, huống gì các tiểuloại chúng sanh. Nếu tụng bốn biến tức được ủng hộ toàn gia lớn nhỏ, năm biếntức hay ủng hộ tất cả quyến thuộc, sáu biến tức hay ủng hộ tất cả thành ấp thônphường. Tụng bảy biến tức hay ủng hộ tất cả chúng sanh.

Khi muốn mặcy áo nên gia trì bảy biến, hay trừ tất cả ác độc và tai nạn. Khi rửa tay, rửamặt nên trì bảy biến, hay khiến chúng sanh đem lòng quý ngưỡng, các ác quỷ thầnnào thấy thảy đều hàng phục, tất cả người khác lại kính trọng mình, hàng phụcác tâm lòng sanh vui mừng.

Nếu có ngườibịnh hoạn, thân thể chi tiết đau nhức, gia trì trong nước nóng 108 biến, tắmrửa tức được trừ lành. Nếu mỗi sáng dậy, lấy một chén nước gia trì bảy biến màuống, nơi thân có chánh báo gì thảy đều tiêu diệt, tai ách chi cũng không cònnữa. Các tam nghiệp chướng thảy được diệt sạch và lại thọ mạng sống lâu. Nếugia trì bảy biến trong thực phẩm rồi ăn, tất cả các độc không thể làm hại.

Nếu thấyngười ác và các oan gia, nên niệm tụng chơn ngôn này, vì nếu oan gia kia khởiác tâm liền bị hàng phục trừ nhiếp tâm sân, hướng đến tâm lành. Đến chỗ có sợhãi phải chí tâm mà niệm chơn ngôn này, liền được hết sợ.

Khi muốnnằm, tụng chơn ngôn này 108 biến liền đắc mộng lành, biết việc thiện ác. Nếu cóngười bị các bịnh sốt nóng, người trì chú nhìn vào mặt họ và thiết tha tụngniệm chơn ngôn 1008 biến thì họ được trừ lành.

Nếu muốn lâmtrận, nên lấy ngưu hoàng viết chơn ngôn này trên giấy hoặc lụa, đeo nơi trênthân, tất cả dao gậy, cung tên giáo mác không thể làm hại. Khi vào trận, họatượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử và chơn ngôn này, để trên voi ngựa, dẫn quânđi trước, phía địch quân không thể làm hại, tự nhiên thoái tán. Họa tượng ngàicó dạng đồng tử, tướng mạo oai nghi, cưỡi con kim sắc khổng tước, khi oán giặctrông thấy, thảy đều thoái tán.

Nếu thườngniệm tụng, đã có những tội tứ trọng ngũ nghịch thảy đều tiêu diệt, thường đượcdiện kiến đức Văn-thù Bồ-tát. Đi đứng nằm ngồi, thường cần nhớ trì, niệm tụngkhông quên. Mỗi khi niệm tụng, đủ 108 biến chớ cho đứt đoạn, thường được tất cảchúng sanh quy phục. Nếu gia trì nơi búi tóc bảy biến, tất cả chúng sanh thấythảy đều hàng phục, người ác tránh xa bỏ đi. Nếu mỗi ngày ba thời niệm tụng,mỗi thời 108 biến, ra làm việc gì cũng đều xứng ý, sở cầu như ý, các nguyện ướcđều được tùy tâm, hết thảy đều được viên mãn, được đại giàu sang, việc đã làmđều được tự tại. Khi mạng sắp lâm chung đắc Phổ Môn tam-muội và đích thân thấyđức Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.”

Lúc bấy giờPhật dạy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Thiện nam tử, Văn-thù-sư-lợiđà-ra-ni này, nếu có quốc vương, vương tử, phi hậu, công chúa và các quan quýchép viết để thờ trong nhà, thì đắc đại phú quý. Có các tai nạn cũng đều tiêudiệt, sở cầu các nguyện đều được viên mãn, thường được thiện thần vi nhiễu giahộ, không để quỷ ma đến nhiễu não.”

Khi ấy Phậtlại dạy Mật Tích Chủ rằng: “Đà-ra-ni bí mật này không thể nghĩ bàn, oai đức củachư Phật cũng không thể nghĩ bàn.”

Lúc ấy đứcThích-ca Mâu-ni Như Lai lại dạy Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: “Bát tự Bí mật oaiđức đại đà-ra-ni này, lại còn có pháp họa tượng lợi ích hết thảy. Vì các người vàquốc vương tu hành thập thiện mà nói. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn trìđà-ra-ni này, dùng chút ít công phu mà được sự che chở lớn, lại hay ủng hộ cácvương tử phi hậu, cung nhơn thể nữ, trăm quan tể tướng và các sĩ nữ cùng kẻquốc sĩ. Tất cả nhơn dân đã có ruộng nhà, các dạng như vậy đều được an lạc.

Phàm họatượng này, nếu có người chỉ ở chỗ sở tại mà an trí, nếu tại đó có vương tặc,thủy hỏa, đao binh, giặc cướp và các tai nạn thảy được tiêu trừ, cho đến phithời dịch bệnh, nắng mưa không đều, trùng sương tổn hại đều sẽ trừ diệt, thườngđược Long vương y thời mà làm mưa, lúa nếp đặng mùa, quốc nhơn vui vẻ không cáctai nạn.”

Lúc bấy giờKim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát ma-ha-tát bạch Phật rằng: “Thưa Thế tôn, ngàiđương hướng nói những pháp đại họa tượng, vậy pháp ấy phải làm như thế nào? Cúimong ngài nói đó!”

Lúc ấy đứcThế tôn dạy rằng: “Thiện nam tử, phàm muốn họa tượng, cần tìm lụa thượng diệutrắng mịn. Lại cần phải lựa ngày tháng có sao tốt, sao lành Thái Bạch trực Thứ,giờ khắc kiết tường. Nhiên hậu họa tượng nơi chỗ thanh tịnh, lấy nước hươngthơm sái quét sạch sẽ. Lấy cù-ma-di thoa đất (ở xứ mình có thể lấy bột đànhương hòa với đất sét trắng mà thoa), treo các tràng phan bảo cái, thiêu longnão hương …vv. Các món trân tu mỹ vị bày soạn cúng dường. Vải lụa trắng kia cầnrộng 8 thước dài 12 thước (thước Tàu).

Trước hết, ởchính giữa họa đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi trên hoa sen bảy báu như thểthuyết pháp. Nơi bên hữu Phật vẽ đức Văn-thù-sư-lợi, tướng mạo như đồng tử, đầuđội mão báu, đảnh gắn anh lạc và các thứ trang nghiêm, thân sắc uất kim, nétmặt vui tươi chiêm ngưỡng đức Như Lai. Lại bên hữu nữa họa vẽ đức Quán Tự TạiBồ-tát, thứ đến Phổ Hiền Bồ-tát, Hư Không Tạng Bồ-tát, Vô Tận Ý Bồ-tát. Ở bêntả đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai, họa vẽ Di-lặc Bồ-tát, thứ đến Vô Cấu XứngBồ-tát, thứ đến Trừ Nhứt Thiết Chướng Bồ-tát, thứ đến vẽ Nguyệt Quang đồng tử,thứ đến đức Kim Cang Tạng Bồ-tát. Những vị Bồ-tát này đều ngồi tòa sen bảy báu,đều cần họa bổn hình, cho đến tay cầm và áo cũng bổn pháp họa vẽ, chớ cho saikhác.

Lại phíatrên đức Thích-ca Mâu-ni họa bảy đức Phật, lần lượt là:

  1. QuảngĐại Trí Thậm Thâm Lôi Âm Vương Như Lai;
  2. TrừNhứt Thiết Chướng Như Lai;
  3. A-di-đà Như Lai;
  4. Công Đức Xứ Như Lai;
  5. PhổHương Như Lai;
  6. NanThắng Dõng Lôi Âm Hạnh Như Lai;
  7. TâmBất Động Như Lai.

Bảy đức Phậtnày cần phải thứ lớp mà họa vẽ, thân đều kim sắc, mỗi vị như thuyết pháp tướng.Ở hai góc trên, mỗi góc họa một thiên tiên, đảnh đội các vòng hoa, một tay nắmhoa, một tay rải hoa, bán thân ẩn trong mây, hình mạo đoan chánh, lấy các thứthất bảo làm anh lạc nghiêm thân.

Dưới hoa senđức Thích-ca Mâu-ni Phật vẽ hai Long vương là Nan-đà và Ưu-ba-nan-đà. Hai vịnày ở trong ao Vô Nhiệt Não xuất hiện bán thân, lấy tay gá cầm cành liên hoatòa, chỗ ngồi của đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai, tác trân trọng dùng lực thế. Haivị này tác hình nhơn diện, trên đầu hai vị vẽ bảy đầu rắn, đều bạch sắc, thântác nhơn hình, lấy các món tạp bảo để nghiêm thân, ngước mặt chiêm ngưỡng đứcNhư Lai.

Dưới đứcVăn-thù-sư-lợi vẽ Giả-mạn-đức-ca Phẫn nộ vương, ngước nhìn Văn-thù Bồ-tát nhưđang thọ giáo. Dưới đức Di-lặc Bồ-tát vẽ trì minh nhơn (người trì chú) theo bổntướng mạo, tay cầm lư hương, quỳ gối mà ngồi, chiêm ngưỡng Thế tôn như đangnghe Pháp.

Bốn bên Tôntượng họa vẽ long hoa và các diệu hoa. Phía dưới bên tả họa Phạm Thiên vương,Ma-hê-thủ-la Thiên, Tứ Thiên vương. Kế đến họa bốn A-tu-la vương, rồi họa bốnChấp quỷ thần diệu vương. Bên hữu họa Na-la-diên Thiên, Đế-thích Thiên, TứThiên vương Thiên. Lại vẽ bốn A-tu-la vương, rồi vẽ bốn Chấp thần vương. Nhưtrên mỗi mỗi y bổn hình mạo, đều phải nắm khí trượng không được sai khác. Lạivẽ chín Chấp thần, ẩn bán thân chắp tay hướng Phật, quán Như Lai tướng.

Nói pháp họatượng rồi, lúc ấy Như Lai liền dùng lời khen ngợi tán tụng mà nói lên bài kệrằng:

Pháp mầu họatượng này
Công đức tốithù thắng
Từ xưa chưNhư Lai
Rộng khenkhông nghĩ bàn
Ta nay nóiít phần
Thật nóikhông nghĩ bàn
Nếu có cáckẻ trí
Hay khởi mộtniệm tâm
Y pháp họatượng này
Phước đứcthu vô lượng
Cúng dườngsanh cung kính
Đã cócâu-chi kiếp
Tứ trọng ngũnghịch thảy
Cực sâu cácác nghiệp
Nghĩ cônglực tượng này
Sát-na liềnđắc diệt
Trong thếgian đã có
Các ác thúchúng sanh
Không tin cóTam Bảo
Thường tuphá giới hạnh
Báng hủy cácPhật Pháp
Không sợ tấtcả tội
Đọa nơitrong sanh tử
Ở Hắc ÁmNê-lê
Trải nơi vôlượng kiếp
Thọ khổnhiều luân chuyển
Nếu gặptượng họa này
Phát khởitâm Bồ-đề
Vui mừng tạmxem ngó
Hoặc chútkhoảng sát-na
Giữ lòngkhông tán loạn
Nhứt tâm màquán ngưỡng,
Những thứ ácnghiệp kia
Tất cả đềuđương diệt
Phước quảthu vô lượng
Huống gìhành thiện nghiệp
Hay tu quảthanh tịnh
Lại có tướngmầu tốt
Đầy đủ hạnhBồ-tát
Rộng vì cáchữu tình
Hạnh lànhsiêng tinh tấn
Tôn trọngsanh cung kính
Quá khứ Phậtđã có
Hiện tại vàvị lai
Năng nơi câu-chikiếp
Một lòngrộng cúng dường
Tụngđà-ra-ni này
Và người họatượng ấy
Kia thảy thuquả báu
Phước ấykhông thể nói
Sông Hằng đãcó cát
Biết được sốcát ấy
Các sứcphước đức này
Không thểbiết số kia
Phật kiaHằng sa số
Thanh văn vàDuyên giác
Còn cácchúng Bồ-tát
Hiền thánhvà Bát bộ
Cần nhiềukiếp cúng dường
Nếu thấy họatượng này
Phước ấy quáhơn kia
Nếu thọ trìKinh này
Hoặc đươngcung kính lễ
Khuyến khencúng dường ấy
Và khuyêncác người khác
Cho đến sanhtùy hỉ
Thường phảikhông quên lãng
Là người đốicác pháp
Và cácđà-ra-ni
Quyết địnhđều thành tựu
Dẫu khiếnchơn ngôn dời
Và các bộpháp khác
Nếu nơitrước tượng này
Một lòngkhông niệm khác
Chiêm ngưỡngsanh cung kính
Tất địakhông có nghi.

Khi bấy giờđức Thế tôn lại dạy Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: “Trong Bát tự Đại oai đứcđà-ra-ni pháp này, có đàn bí mật tối thắng không thể nghĩ bàn, ở trong các pháptối thù thắng. Nếu có kẻ trai lành, người gái tín nào hay y pháp thọ trì đọctụng, chép viết tu hành, hiện đời thành tựu tất cả kiết tường, các việc viênmãn, nguyện mong không luống uổng, tuổi thọ sống lâu, mọi người cung kính sanhtâm ái trọng, mạng chung sanh nơi trước chư Phật. Nếu sanh trong nhơn thiên, sẽsanh vào nhà đại tộc tôn quý giàu sang.

Lúc ấy KimCang Mật Tích Chủ Bồ-tát lại bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, nãy giờPhật nói nơi trong pháp này, có pháp bí mật mạn-đà-la. Việc ấy thế nào, cúimong Như Lai vì con và chúng sanh đời vị lai mà rộng nói, y đấy tu hành xuất lytrần lao.”

Bấy giờ đứcThế tôn lại dạy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Lành thay, lành thay thiệnnam tử, ông nay lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói. Nếu có thiện nam tử thiện nữnhơn …vv phát tâm kính trọng, muốn làm pháp mạn-đà-la này, trước cần phải chọnlựa chỗ đất thành tựu thanh tịnh thù thắng. Phải cuốc sâu xuống đất, lượm bỏgạch ngói, cát đá, sỏi sành, gai than, lông tóc, các vật thô xấu không sạch,nhiên hậu mới lường đất kia đầy tám thước hoặc bốn thước, dùng đất sạch tốt xâyđắp cho bằng phẳng, dùng ngưu phẩn hương …vv y pháp thoa phết. Mạn-đà-la ấy gồmba lớp giới viện, đều họa vẽ bằng năm sắc, khiến rõ ràng tốt đẹp minh tịnh, chớcho mờ ám, rộng hẹp vừa độ.

Phàm họa đànpháp, trước tất cả phải từ Đông diện mà khởi. Họa Ngũ đảnh ấn, lại họaƯu-bát-la hoa ấn, lại họa Nha ấn, lại họa Văn-thù Đồng tử diện ấn, lại họa Sócấn (cái giáo dài). Họa những ấn này tại Đông diện mạn-đà-la xong, lại Liên hoaấn, rồi họa Ưu-bát-la hoa ấn, lại họa Tràng ấn, Phan ấn, Tán cái ấn, lại họaÔ-đầu-môn, lại họa Xa lộ ấn, rồi họa các ấn bạch tượng, mã, phong ngưu, thủyngưu, lại họa Ca-bán-tất-ta-phạ (Kiết tường ấn). Lại họa Khổng tước ấn, rồi Cổdương (con dê đen) ấn, rồi bạch dương, rồi nhơn, rồi đồng nam ấn. Họa những ấnnhư vậy, đều cần ngoại môn thứ đệ phân minh.

Như vậyngoài tam trùng mạn-đà-la, ngoại viện, lại họa Dạ-xoa tướng: Đông Ma-niBạt-đà-la (Bảo Hiền) đại tướng; Nam Bố-nã Bạt-đà-la (Mãn Hiền) đại tướng; lạivẽ Vĩ-lỗ-bác-khất-xoa (Tây phương thần) Vi-sắc-ra-phạ-nõa (Bắc phương thần).Tất cả chư Thiên thần Nhật Nguyệt thất tinh, nhị thập bát tú và Phật thị giả Ha-lị-đếmẫu thần.

Mạn-đà-lapháp này, nếu vì ra-nhạ mà làm, thì nên làm trong nhà. Nếu muốn cầu Tượng ấn,thì nơi phường tượng mà làm. Muốn cầu mã thì nơi mã phường mà làm. Nếu bị độcxà chích mổ, thì nên làm bên ao lớn, hoặc chỗ nào có long ở. Nếu bị bịnh sốtrét một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, phải ở nơi thôn phường xátrạch gần hướng Nam mà làm. Nếu bị quỷ La-xoa bắt bớ phải ở nơi nhà trống xavắng nơi chốn hoang vu, hoặc bên thi đà lâm (rừng bỏ xác chết) mà làm. Nếu bịquỷ Tỳ-xá-giá bắt, phải ở dưới cây Tỳ-ma ma làm. Nếu bị tất cả quỷ thần và cácchấp quỷ bắt bớ, phải làm trong nhà người chết, hoặc trong nhà mới sanh trẻnhỏ. Nếu bị các độc làm hại, phải tụng Bát tự chơn ngôn này bảy biến gia trìtrong nước mà uống thì độc ấy liền trừ diệt. Nếu súc sanh bị dịch bịnh, phảilàm dưới tán cây có trái. Nếu muốn lúa mạ tốt tươi, phải làm trong khuôn viênvườn.

Nếu phụ nhơnbị các ác bịnh, hoặc bị quỷ thần Ca-lâu-la, Càn-thát-bà …vv hút nút uống ăntinh khí thành các thứ bịnh chẩn, phải nơi sông hoặc nơi trên đỉnh núi mà làm.Hoặc bị tất cả bịnh và Nã-chỉ-nễ quỷ, phải nơi chốn không nhàn vắng vẻ, hoặcchỗ có dòng nước mà làm.

Những phéptắc như vậy phải làm giữa ngày hoặc nửa đêm. Khi muốn xóa bỏ mạn-đà-la, phảitụng Bát tự chơn ngôn ở trước mà bỏ. Các vật trong mạn-đà-la nên đưa theo dòngnước tán thí, hoặc đem bố thí cho trẻ nghèo, tức sở cầu các việc đều được viênmãn.

Lúc bấy giờđức Thế tôn lại nói kệ khen rằng:

Đại đà-ra-ninày
Oai lựckhông thể nói
Nếu ngườithường thọ trì
Năng trừ tấtcả bịnh
Ra làm cácviệc gì
Hết thảy đềuviên mãn
Và mạng đượcsống lâu
Nếu thấyđược đàn này
Các tội thảysẽ diệt
Nếu cầu vuithế gian
Giàu sangsức tự tại
Hoặc haychán thế gian
Muốn cầukhỏi sanh tử
Vượt quakhỏi biển khổ
Học tập hạnhBồ-đề
Bẻ gãy cácquân ma
Nếu vào đànpháp này
Quyết đượcphước như thế
Pháp đại bímật này
Vì quốcvương tín pháp
Chấp chánhhạnh bình đẳng
Phải cầu vìrộng nói
Nếu người áckhông tin
Giả sử đượctrân bảo
Giá trị bằngĐại Thiên
Hoặc lấy bangàn cõi
Của báu ởtrong đó
Cũng không đượcvì nói.

Lúc bấy giờđức Phật Thích-ca Mâu-ni lại dạy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Bát tựđà-ra-ni ấn này gọi là đại tinh tấn, hay chóng viên mãn tất cả ý muốn, hay tăngtrưởng tất cả kiết tường, sự sự thành tựu.”

Kim Cang MậtTích Chủ bạch Phật: “Kính thưa Thế tôn, ấn kia như thế nào? Kính mong Như Laivì con tuyên nói.”

Bấy giờ đứcThế tôn dạy Kim Cang Mật Tích Chủ: “Phàm muốn tác khế ấn, trước phải lấy tịnhthủy rửa tay, dùng bạch đàn, uất kim, long não, trầm thủy và các hương tốt thượngdiệu, lấy nước mài trên đá hòa lại, thoa tay khiến nước hương thấm vào thịt.Nhiên hậu rộng phát nguyện, đảnh lễ chư Phật mà nói lên rằng:

Kính lễBà-la Vương Phật (Phạm danh là Ta-lễ-nại-ra-nhạ)

Kính lễ KhaiPhu Hoa Vương Phật (Tam-củ-tô-nhị-đa)

Kính lễ BảoTràng Phật (La-đạt-nẵng-kế-đô)

Kính lễA-di-đà Phật (A-nhị-đá-bà-giả)

Kính lễ VôLượng Thọ Trí Phật (A-nhị-đá-dữu-chỉ-nương-nẵng)

Kính lễ SơnVương Phật (Thế-lễ-nại-ra-nhạ)

Kính lễ TácNhựt Quang Phật (Nễ-băng-ca-ra)

Kính lễ CựcAn Ổn Phật (Tô-khất-sử-ma)

Kính lễThiện Nhãn Phật (Tô-nĩnh-đát-ra)

Kính lễ PhápTràng Phật (Đạt-ma-kế-đô)

Kính lễQuang Mang Phật (Bất-lễ-bà-ma-lí)

Chư Phật nàytối đại thù thắng, và vô lượng chư Phật đều phải đảnh lễ.

Niệm tụngxong rồi, liền kết thủ ấn Đại tinh tấn. Ấn ấy, hiệp hai tay tám ngón dựng tréongược nhau để trong lòng bàn tay; lấy hai ngón tay cái hơi co chút ít, áp nhautrên hai ngón trỏ. Đây gọi là Đại tinhtấn ấn. Đây là ấn Bát tự chơn ngôn mà tất cả chư Phật đã nói.

Kế đến nóiNhư ý bảo ấn: Hai tay tréo xoa nhau, đứng thẳng hai ngón trỏ, đầu ngón hơi congchút ít đứng gá nhau, hai ngón cái nhập vào trong lòng bàn tay tréo nhau hữu đètả. Đây gọi là Đại tinh tấn như ý bảo ấn.

Liền nói Đạitinh tấn như ý bảo chơn ngôn rằng:

Úm đế tộ nhập pha la tát phạ ra tha Ta đà ca tất địa dã tấtđịa dã Tán đá ma nĩ Ra đát nẵng Hồng.

Nếu tụngchơn ngôn này và kết ấn, hay rộng làm tất cả sự nghiệp. Nếu khi muốn trangnghiêm y mặc nơi thân, gia trì thần chú này vào y bảy biến rồi mặc vào, tứcđược hộ thân, thường được mọi người cung kính.

Nếu muốn vàotrận giao chiến, nên gia trì chú này 1008 biến vào khí trượng, tùy thân lâmtrận tức sẽ hàng phục, quân giặc tự động rút lui. Nếu muốn hàng phục tất cả oánđịch, gia trì chơn ngôn này vào áo rồi mặc, tức được hàng phục.

Lại phápnữa: lấy châu trân, hoặc mạt-yết, hoặc kim ngân, hoặc chư tạp bảo, gia trì 108biến thần chú vào, khắc làm hình đồng tử an trên cây cờ, hoặc trên thân, hoặctrên ngựa, rồi lâm trận ba quân tiền hành. Phía giặc nhìn thấy tự nhiên hàngphục. Những pháp như vậy vô lượng vô biên không thể xưng số.

Hai ấn trêncần phải y giáo thanh khiết mới trì dùng, được quả báo trường mạng, hay trừ tấtcả bịnh, phá tất cả ma và loài Tỳ-na-dạ-ca, đồng thời các ác nhơn các không thểlàm hại. Thường được tất cả thánh chúng chú thần hiện tiền, sở cầu ý nguyện mauđược tất địa, thường được tất cả chư Phật Bồ-tát, cùng đức Văn-thù-sư-lợi Đồngtử thầm gia hộ, trợ theo làm bạn lữ, cho đến địa vị Bất thối chuyển, mau chứngBồ-đề.

Bấy giờ KimCang Tạng Bồ-tát trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay cúi đầu népthân, hướng về đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai mà nói lên như thế này: “Lành thay,hi hữu rất là đặc biệt. Đại đà-ra-ni Pháp tạng như vậy, nay ở trong Thiệm Bộchâu lưu hành truyền bá rộng rãi, vì các quốc chủ và tiểu vương đại thần, cùngcác nhơn dân rộng nói lợi ích. Kính thưa đức Thế tôn, đà-ra-ni này có công lựcgì, hay làm việc gì? Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn hay thọ trì đọc tụng chépviết suy tư, vì người khác diễn nói thì sẽ thu hoạch được phước đức như thếnào? Cúi mong đức Như Lai vì con tuyên nói!”

Khi ấy đứcThế tôn dạy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Nếu có kẻ trai lành, người gáitín, quốc vương, vương tử và hết thảy hữu tình nghe pháp yếu đà-ra-ni này, haythọ trì đọc tụng, biên chép nhớ niệm, hoặc tự làm hoặc khuyên kẻ khác, hoặcsanh tùy hỉ, hoặc hay rộng vì kẻ khác mà khen ngợi công đức, những người nhưvậy quyết định mau chứng Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, trong thời gianđó không còn thối chuyển nữa. Đà-ra-ni này mà lưu hành chỗ nào, phải biết đó làđức Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát đang ở nơi ấy mà lưu truyền pháp đây. Lại còn có cácBồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, Khổ hạnh đại tiên và Trì minh tiên …vv, cùngThiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la,Ma-hầu-la-già, người và phi nhơn ở tại chỗ ấy, thường đương vi nhiễu, tán thán,cúng dường, cung kính trân trọng Kinh này. Mật Tích Chủ, Kinh đà-ra-ni này gọilà Như Lai Pháp tạng.

Nếu có thiệnnam tử thiện nữ nhơn thọ trì đọc tụng, viết chép tôn trọng ngợi khen và lấy cácthứ hương hoa, hương thoa, hương bột, lọng tàn, tràng phan, chuông trống, tù và,các thứ âm thanh vi diệu mà ca vịnh tán khen, dùng thượng diệu y phục mầu nhiệmcúng dường cung kính ấy, phải biết người đó hiện đời thu hoạch mười món quả báotốt. Những gì là mười?

  1. Trongnước vĩnh viễn không bị tha phương oán giặc đến xâm nhiễu;
  2. Khôngbị nhựt nguyệt, thần tinh, nhị thập bát tú, các ác biến quái tai hoạn khởi lên;
  3. Trongnước không bị tai hoạnh ác quỷ thần hành bịnh dịch chướng;
  4. Khôngbị nạn phong hỏa;
  5. Vĩnhviễn không bị các oan gia rình tìm hãm hại;
  6. Khôngbị bịnh dữ ép ngặt;
  7. Khôngbị hoạnh tử dính thân;
  8. Khôngbị bão lụt phi thời tổn hại.
  9. Khôngbị nắng mưa không đều.

10. Khôngbị cọp beo trùng thú, các ác tạp độc làm hại.

Thiện namtử, ở chỗ nào có Kinh này và có người trì tụng, sẽ được mười điều quả tốt nhưtrên!”

Lúc bấy giờđức Thế tôn vì đại chúng mà nói lại bài kệ rằng:

Cúng dườngcứu đời ấy
Pháp tạngnày tối thắng
Thọ trì vàđọc tụng
Trong đâyVăn-thù nói
Thảy kia tùyý mãn
Giàu lớnnhiều của cải
Danh thơmkhắp mười phương
Viên mãnphước đầy đủ
Nếu ngườiđối Kinh này
Lấy tụng mộtchơn ngôn
Tức được quảchắc chắn
Lành tốt cácnguyện mãn
Nếu có cácquốc vương
Thống sưmuốn đấu chiến
Chépđà-ra-ni này
An trí nơitrên đảnh
Nhứt tâm thườngnhớ niệm
Không bị oánđịch hại
Tất cả cácđao gậy
Cũng khôngdính vào thân
Nếu vàotrong quân trận
Họa tượngVăn-thù đây
Nương cưỡilưng khổng tước
An trí trêncây cờ
Hoặc khiếnngười cầm đi
Oán giặctrông xa thấy
Tự nhiên sẽrút lui
Hoặc lấythảy kim ngân
Tạo táctượng đồng tử
Các thứ diệutrang nghiêm
An trí trêncây cờ
Nhập vàotrong chiến trận
Ba quân dẫnđi trước
Các giặcnhìn ngó thấy
Liền khithảy rút lui
Hoặc mất hếttâm thần
Khẩn khoảnxin quy phục
Nhơn chủngười phi nhơn
Các loạithảy Thiên tiên
Dạ-xoa vàLa-sát
Càn-thátKhẩn-na-la
Bố-đơn cùngYết-tra
Quỷ mẫu vàLong thần
Trùng beocùng cọp sói
Sư tử cácloại voi
Tất cả cácđộc thảy
Thấy đó liềnquy phục.

Lúc bấy giờđức Thế tôn dạy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Thiện nam tử, oai đức của chưPhật và thần thông biến hóa oai lực của chư Bồ-tát như thế không thể nghĩ bàn.Pháp Bảo Tàng này cũng không thể nghĩ bàn. Vậy cho nên Kim Cang Mật Tích Chủ,thường tu tinh cần cung kính nhớ niệm, cho đến quốc vương nhơn dân bách quan,Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca và các pháp sư, thường cần nhớ niệmcàng sanh lòng khó gặp. Pháp bảo đà-ra-ni này công đức không thể nghĩ bàn. Phápnày ban cho tất cả chúng sanh rộng rãi lưu hành truyền bá. Từ nước này cho đếnnước khác, đến tận phường ấp thôn xóm, chỗ có người ở hãy truyền thọ cho nhau.Ở trong đại chúng quyết cần cúng dường, cung kính tôn trọng, vì người khác màdiễn nói, và dạy lại cho người khác, hãy lần lượt khiến họ thọ trì đọc tụng.Nếu hay làm như vậy sẽ thu hoạch phước đức vô lượng nói không thể hết. Cho đếnnước khác nghe có quốc vương và thiện nhơn ưa thích Đại thừa tu hành việcthiện, cũng cần khuyến khích họ y pháp thọ trì, chép viết đọc tụng. Nếu ủng hộkiết giới tất cả các chỗ cũng cần nên dùng đà-ra-ni này.

Nếu thấypháp sư thọ trì đọc tụng đà-ra-ni này, thường cần phải cung kính như kính Phậtkhông khác. Chỗ cần dùng y phục, ngọa cụ, ăn uống, thuốc thang, cho đến tứ sựchớ nên thiếu kém, thảy đều đầy đủ. Đối với chỗ ở của pháp sư phải sanh tâm tôntrọng trân kính, phải khởi ý quảng đại không thể nghĩ bàn.

Mật Tích Chủ!Nếu có người nghe Kinh Bảo Tàng này mà không thể thọ trì đọc tụng biên chép, vìngười khác diễn nói và không lưu truyền cho người khác biết, lại không cungkính cúng dường pháp sư trì đà-ra-ni này, cũng không kính vị a-xà-lê, cũngkhông hay phát tâm Vô thượng Bồ-đề, lại còn sanh nghi không tin; những ngườinhư vậy phải mắc đại tội, giống như phạm các tội tứ trọng ngũ nghịch khôngkhác, tất cả chư Phật và chư Bồ-tát xa lánh, khó vì cứu hộ.

Mật Tích Chủ!Sau này mạt thế, nếu có kẻ nam người nữ nào phỉ báng Kinh này, phát lời thô ác,bảo rằng Kinh này phi pháp, không phải do Phật nói, nên biết kẻ ấy là oán áctrong Phật Pháp, sau khi mạng chung quyết định sẽ đọa A-tỳ địa ngục, tất cả chưPhật Bồ-tát thảy đều xa lìa.”

Lúc bấy giờKim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát ma-ha-tát nghe Phật nói đà-ra-ni pháp rồi,liềntrước Phật vui mừng hớn hở, đãnh lễ Thế tôn, dùng bài kệ tán khen đức Phật.

Rộng nhiêuích hữu tình
Nói Pháp tốithắng này
Cũng vì lợiích con
Cùng lợi cácchúng sanh
Khiến đượcđại an vui
Như Lai Tốithắng Tôn
Ngợi khenđức chư Phật
Tất cả nghĩachơn ngôn
Hãy siêng tuhành ấy
Hi hữu chưatừng có
Nói Pháp lợichúng sanh
Con nay xinđảnh lễ
Tối thắngđại Bồ-tát
Như giáođảnh đới hạnh.

Bấy giờ đứcThích-ca Mâu-ni Như Lai dạy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tát rằng: “Lành thay, lànhthay, ông nay có thể hay nhiếp hóa các hữu tình làm đại lợi ích. Mật Tích Chủ!Ta nay đem Pháp này phó chúc nơi tay Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, khiến đờimạt thế sau này, ở Thiệm Bộ châu rộng vì hữu tình tuyên truyền lưu bố.”

Khi ấy đứcVăn-thù-sư-lợi Đồng tử, liền nơi trước Phật vui mừng nhảy nhót ra vẻ mỉm cườimà bạch Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, nay nhờ Như Lai ở trong đại chúng giaophó cho con, con sẽ thọ trì. Sau khi Thế tôn Như Lai vào Niết-bàn, con ở đời vịlai khiến các chúng sanh y giáo thọ trì, rộng hành lưu bố, thường không đoạntuyệt. Nơi ấy Thế tôn khi thuyết pháp đây, vô lượng vô biên thảy các chúngsanh, nghe Pháp này rồi, đều được xa lìa các ưu khổ, vô lượng chúng sanh pháttâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác.”

Khi ấy Thếtôn nói Kinh này rồi, Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát cùng Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ-tátvà chư Thiên, Long thần, hết thảy bát bộ, tất cả đại chúng đồng cất tiếng khenngợi tán dương giáo pháp chưa từng có vậy, đảnh lễ chân Phật hớn hở vui mừng, vànhất tâm phụng hành.

Phật thuyết Kinh Văn-thù-sư-lợiPháp bảo tàng đà-ra-ni kinh (hết)

Sa-môn Thích Viên Đức dịch ra Việtvăn,
năm Bính Thìn ngày 16 tháng 6, tức 12.07.1976, bản chưa hiệu đính.

Nhập liệu: Nguyễn minhHoàng và Nguyễn thị Diệu Minh

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com