Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần văn xuôi Chương 1-5 |

13/05/201319:12(Xem: 6869)
Phần văn xuôi Chương 1-5 |

NHẬP BỒ TÁT HẠNH

Nguyên tác Phạn ngữ Bodhisattvacharyavatara

Nguyên tác: Tịch Thiên (Shantideva)

Hoa dịch: Trần Ngọc Giao

Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải

--- o0o ---

Phần văn xuôi

CHƯƠNG MỘT

NHỮNG LỢI LẠC CỦA TÂM BỒ-ĐỀ

Kính lễ chư Phật Bồ-tát,

1- Chư Phật và Bồ-tát, các đấng đã được Pháp thân, cùng những bậc hiền nhân đáng kính, con xin đê đầu đảnh lễ. Nay con y cứ những lời Phật dạy trong Kinh để lược thuật phương pháp đi vào Luật nghi của hàng con Phật.

2- Luận này vốn không phải là sáng kiến mới mẻ, về thi ca vần điệu tôi cũng không rành. Bởi thế tôi không dám nói mình có ý định làm lợi lạc cho ai, chỉ cốt vì sự tu tập của bản thân mà tạo Luận.

3- Nhờ nương theo những kệ tụng để tu hành các thiện pháp mà tôi sẽ tăng trưởng tín tâm. Những ai cùng tin tưởng như tôi sau khi xem Luận này cũng sẽ được lợi ích.

4- Có được thân người toàn vẹn (không bị các dị tật bẩm sinh như thiếu trí, đui, điếc…) và nhàn hạ (đủ ăn, không phải làm lụng quá vất vả để kiếm sống)là điều hết sức khó khăn. Nay ta đã có được cơ hội làm cho đời mình thực sự có lợi ích (nghĩa là làm cho đời mình có ý nghĩa bằng cách tu tâm, một việc mà loài thú không làm được) mà không lợi dụng cuộc đời này để mang lại tự lợi, lợi tha, thì về sau làm sao còn có được thân người toàn vẹn ?

5- Như trong đêm tối đầy mây đen kịt, bỗng có một làn chớp xẹt qua, cũng thế, nhờ năng lực uy đức của Phật, mà người đời bỗng tạm nảy sinh ý định tu phước.

6- Vì năng lực thiện hành nơi người ta thường nhỏ nhoi yếu ớt nên khó địch nổi năng lực tội ác vô cùng lớn lao. Nếu bỏ tâm Bồ-đề viên mãn này, thì đâu còn pháp lành nào khác để thắng lướt tội lỗi ?

7- Trải qua nhiều đời tư duy sâu sắc, chư Phật thấy tâm Bồ-đề có lợi ích lớn lao. Vô lượng chúng sanh nhờ tâm ấy mà dễ dàng được sự vui thù thắng.

8- Muốn trừ diệt vô lượng khổ đau trong ba cõi (cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc), và trừ những nỗi bất an cho hữu tình, muốn hưởng được trăm thứ khoái lạc thì đừng bao giờ xả bỏ tâm Bồ-đề (lòng mong cầu giác ngộ để lợi lạc cho mình và người).

9- Những hữu tình đang bị trói buộc trong ngục sinh tử mà khởi tâm Bồ-đề chốc lát cũng được gọi là con của chư Phật, đáng được trời người kính lễ.

10- Như hóa chất luyện vàng, cái thân phàm tục ô uế sẽ được tâm Bồ-đề chuyển hóa thành thân Phật, bảo châu vô giá. Bởi thế, hãy giữ vững tâm Bồ-đề.

11- Bằng con mắt tuệ, đấng Đạo sư của chúng sanh thấy rõ tâm Bồ-đề hết sức quý báu. Bởi vậy, ai muốn ra khỏi ba cõi hãy khéo giữ vững tâm Bồ-đề.

12- Những điều lành khác chỉ như cây chuối, sinh quả xong thì chết khô. Nhưng tâm Bồ-đề ví như đại thụ luôn sinh quả, đã không khô héo mà còn thêm tươi tốt.

13- Kẻ phạm tội nặng nhờ nương một người thế lực nên khỏi lo sợ. Người sợ quả báo tội lỗi, muốn mau giải thoát, tại sao không tìm chỗ tựa nương ?

14- Như đóm lửa nhỏ vào thời hoại kiếp, tâm Bồ-đề trong giây lát có thể tiêu hủy các tội nặng. Trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Di Lặc bậc trí đã dạy đồng tử Thiện Tài rằng tâm Bồ-đề có lợi ích vô biên.

15- Nói tóm, Bồ-đề tâm bao gồm hai loại, là tâm nguyện Bồ-đề(trong tâm cầu mong được giác ngộ để lợi lạc hữu tình)và tâm hạnh Bồ-đề (hướng về hành động thực sự để làm lợi ích hữu tình)

16- Như mọi người đều biết sự khác nhau giữa muốn đi và đang đi, bậc trí nên biết sự khác nhau này giữa hai loại tâm Bồ-đề.

17- Mặc dù tâm nguyện Bồ-đề cũng đủ sinh quả báo vĩ đại, nhưng không thấm gì so với tâm hạnh Bồ-đề, vì tâm này liên tục phát sinh phước đức.

18- Bất cứ lúc nào một người khởi sự lập chí nguyện không lùi bước, thọ trì (nhận và gìn giữ)tâm hạnh Bồ-đề, vì muốn cứu độ cho hết vô số hữu tình.

19- Thì lúc ấy trở đi, người ấy dù lúc ngủ hoặc xả hơi, phước đức vẫn liên tục phát triển rộng lớn như hư không.

20- Vì muốn cho những người tin cỗ xe Nhỏ hướng về Đại thừa, trong kinh Diệu Lý Thưa Hỏiđức Như Lai đã dạy : Tâm Bồ-đề có lợi ích vô biên, điều này rất hợp lý.

21- Nếu có người lo nghĩ cách chữa một bệnh nhức đầu cho hữu tình mà thôi, cái tâm mong muốn lợi lạc ấy đủ khiến cho người kia được vô lượng phước đức.

22- Huống gì mong trừ khử vô lượng bất an cho hữu tình, muốn hữu tình được vô số điều lành.

23- Dù cha hay mẹ, hay bất cứ ai, đã có được tâm Bồ-đề ấy chưa ? Chư thiên cõi Dục, các vị tu tiên, các Phạm thiên(cõi mà một người được hóa sinh vào nhờ tu bốn vô lượng là Từ, Bi, Hỷ, Xả)có được tâm ấy không ?

24- Những người kia vì lợi ích riêng còn chưa mơ tưởng đến tâm Bồ-đề, huống vì kẻ khác mà phát tâm làm lợi ích ?

25- Người ta vì tự lợi còn chưa thể phát tâm, bởi thế phát được cái tâm lợi tha quý báu này quả là điều hết sức hiếm có.

26- Tâm Bồ-đề quý báu là cái nhân của sự an vui cho chúng sanh, là cam lồ vi diệu để trừ thống khổ. Phước đức hàm chứa trong tâm ấy làm sao đo lường ?

27- Suy nghĩ làm lợi ích chúng sanh có phước hơn cúng dường chư Phật, huống gì nỗ lực làm lợi lạc tất cả hữu tình.

28- Ai cũng muốn hết khổ, mà sao thống khổ cứ tăng ? Mặc dù đi tìm an vui, kẻ ngu tự làm hỏng niềm vui của mình không khác gì bị kẻ thù phá hoại.

29- Đối với chúng sanh thiếu niềm vui, chịu nhiều đau khổ, tâm hạnh Bồ-đề có thể đem lại an vui, trừ tất cả khổ.

30- Chẳng những thế, tâm Bồ-đề còn có thể diệt trừ sự ngu si của chúng sanh. Còn bạn lành nào sánh bằng, còn phước nào lớn bằng ?

31- Nếu có người biết đền đáp cái ân bố thí, người ấy còn đáng được ca ngợi, huống gì Bồ-tát vui vẻ giúp đỡ người khác, dù người ấy chưa nhờ, thì lại càng đáng ca tụng biết chừng nào.

32- Dù có kẻ tình cờ chuẩn bị một ít thực phẩm mang cho một số chúng sanh đang đói, khiến họ no được nửa ngày, người ta còn kính trọng, xem như một thiện sĩ.

33- Huống chi Bồ-tát thường xuyên ban cho vô số chúng sanh niềm vui Chánh giác tối thượng, và thỏa mãn tất cả nguyện vọng của hữu tình.

34- Phật dạy : kẻ nào sinh tâm xấu đối với những Bồ-tát cứu độ khắp mọi người như thế, kẻ ấy sẽ sa địa ngục nhiều kiếp số, như số lượng tâm xấu họ đã nghĩ.

35- Ngược lại, ai phát khởi niềm tin thanh tịnh đối với Bồ-tát thì sẽ được quả báo phước đức vượt xa cái nhân đã gieo. Bồ-tát dù có gặp gian nan lớn vẫn không làm ác, mà còn tăng trưởng thiện hành.

36- Có ai phát sinh tâm Bồ-đề quý báu ấy không, tôi xin kính lễ dưới chân người ấy. Có ai đem lại an vui ngay cả cho kẻ làm hại mình, tôi xin quay về kính lạy người ấy, suối nguồn của an vui.

CHƯƠNG HAI

SÁM HỐI TỘI NGHIỆP

1- Để có thể giữ gìn tâm Bồ-đề tôn quý nhất, con xin cúng dường chư Phật, cúng dường Pháp bảo vô cấu và cúng dường biển công đức vô lượng của chư Bồ-tát(con Phật).

2- Có bao nhiêu hoa tươi quả quý cùng các thực phẩm tối thượng, những vật quý báu trên đời, bao nhiêu nước trong sạch khiến người ta ưa thích ;

3- Những núi châu báu nguy nga như vậy, cùng các khu rừng an tịnh làm tâm người thư thái, những cây báu trang sức bằng hoa kỳ diệu, những cây ăn trái thòng rũ những cành trĩu quả báu ;

4- Nhưng hương thơm vi diệu nhất trên đời, ngang với hương cõi trời, hương đốt, các Cây Ước quý báu, những mùa màng tự sinh không cần cày cấy, cùng các đồ trang sức quý báu đáng cúng dường khác ;

5- Những hồ ao đầy dẫy hoa sen và những con thiên nga hót êm tai ; tóm lại tất cả những vật vô chủ trong khắp phạm vi hư không rộng lớn ;

6- Bằng tâm ý, con xin dâng hiến lên đấng Tối tôn của loài người và các con của ngài. Kính thỉnh Ruộng phước tối thắng đầy bi mẫn lớn lao, xin chư vị thương xót nhận cúng phẩm này.

7- Con không có phước đức nên hết sức nghèo khó, chẳng có một chút tài sản gì để dâng cúng ngài. Kính xin đấng Chúa tể lợi tha đầy lòng thương xót, xin hãy nhận đồ cúng này vì lợi ích cho con.

8- Con muốn đem cả thân tâm vĩnh viễn phụng hiến lên chư Phật và chư Bồ-tát, xin các ngài thương xót nhận cho. Con xin cung kính làm kẻ nô bộc của các ngài.

9- Khi đã được các ngài hoàn toàn thâu nhận, con chỉ sống vì lợi ích hữu tình, không còn lo sợ, thân tâm được thanh tịnh, hoàn toàn siêu thoát các tội lỗi quá khứ. Từ nay trở đi, con sẽ không bao giờ làm các ác nghiệp.

10- Với nền bằng thủy tinh sáng bóng, cột trụ dát đầy bảo châu sáng ngời đẹp mắt, trên cao thòng rũ những dù lọng bằng ngọc quý long lanh, đây là nhà tắm mỹ lệ thơm tho ;

11- Trong đó đã trần thiết nhiều bình báu đẹp đẽ đựng đầy nước thơm khiến người ưa thích, vang lên đủ điệu ca nhạc êm tai. Xin chư Phật và Bồ-tát hãy đến tắm.

12- (Tắm xong) Có những khăn tắm sạch sẽ ướp những thứ hương vi diệu để lau ngọc thể của các ngài. Lau xong, con lại dâng lên những y phục thơm tho đủ màu tốt đẹp nhất.

13- Lại lấy đủ loại áo mềm mại và trăm thứ trang sức tối thắng để trang nghiêm thân thể của chư Bồ-tát Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Thế Âm và Thánh chúng.

14- Có những hương bột thơm khắp ba ngàn thế giới, con dùng thoa lên ngọc thể của chư Phật phát ra ánh sáng vi diệu như vàng ròng tinh khiết.

15- Hướng lên chư Phật, đối tượng cúng dường thù thắng, con xin dâng những hoa sen thơm ngát, hoa mạn-đà-la, hoa sen xanh và các tràng hoa tuyệt đẹp.

16- Xin cúng dường các ngài những vầng mây hương tối thắng, mà mùi thơm làm người ta mê mẩn. Con xin cúng dường những thực phẩm cõi trời và đủ thức ăn uống đẹp ngon.

17- Con xin dâng lên những đèn báu mà chân đèn làm bằng những đóa sen vàng. Và trên nền nhà ngát hương, con rải đầy những hoa đẹp ý.

18- Hướng lên đấng Chúa tể tâm đại bi, con xin cúng dường những lâu đài trong đó vang dội những tiếng ca du dương, với bao chuỗi châu báu mỹ lệ thòng xuống la liệt khắp hư không.

19- Con xin dâng hiến chư Phật những lọng che bằng châu báu, cán bằng vàng ròng, viền quanh bằng đủ thứ trang sức đẹp đẽ.

20- Ngoài ra còn có những cúng phẩm nhiều như mây tụ lại, diễn tấu âm nhạc du dương làm lắng dịu những thống khổ của hữu tình. Mong sao những đám mây cúng dường này sẽ còn mãi.

21- Mong sao mưa hoa và mưa châu ngọc luôn rơi trên tất cả những pháp bảo vi diệu, trên linh tháp và trên thân Phật.

22- Như xưa Bồ-tát Văn Thù và chư Bồ-tát đã cúng dường chư Phật thế nào, thì nay con cũng xin cúng dường chư Phật và các con của ngài như vậy.

23- Con xin dùng âm thanh của tiếng hải triều mà xưng tán biển công đức của chư Phật. Nguyện cho những lời xưng tán vi diệu này luôn luôn vang đến các ngài.

24- Con nguyện hóa thân này nhiều như cát bụi để mỗi phân thân ấy sẽ đảnh lễ chư Phật ba đời, đảnh lễ Chánh pháp và Thánh tăng.

25- Con cũng cin đảnh lễ tất cả tháp thờ Phật, lễ nguồn gốc tâm Bồ-đề, lễ các bậc trì giới đệ nhất và các vị trú trì, giáo thọ sư.

26- Từ nay cho đến khi được Vô thượng Bồ-đề, con nguyện quay về nương tựa Phật, Pháp và toàn thể chư Bồ-tát.

27- Trước chư Phật ở khắp mười phương và chư Thánh chúng sẵn tâm đại bi và tâm Bồ-đề, con xin chắp tay thành khẩn khấn nguyện như sau :

28- Trong đời này hoặc các đời khác, kể từ vô thỉ luân hồi cho đến nay, bao nhiêu tội ác mà con vì không biết đã tự làm hoặc khuyên người khác làm ;

29- Hoặc do ngu si dẫn dắt mà con đã tán đồng việc ác của kẻ khác. Nay con đã thấy tội lỗi, đối trước chư Phật con xin thành tâm sám hối.

30- Do phiền não quấy động ba nghiệp, con đã gây ra những tổn hại đối với cha mẹ, với ba ngôi báu, với Thầy, Tổ và những người khác.

31- Vì trong quá khứ con đã phạm nhiều tội lỗi, nên nay con đã thành kẻ có tội. Tất cả những tội lỗi khó dung thứ ấy, nay đối trước chư Phật con đều xin sám hối.

32- Nếu lỡ khi sám hối chưa sạch tội mà thân con đã chết mất, thì làm sao con thoát khỏi tội lỗi đây ? Thế nên con khẩn thiết xin ngài hãy mau cứu giúp con.

33- Thần chết không đáng tin cậy gì cả, không chờ tội của ta sạch hay chưa, bất kể có bệnh không bệnh, tử thần đều có thể đoạt mạng. Cho nên thật không thể ỷ vào sự sống của mình.

34- Vì không biết rằng khi chết phải bỏ lại tất cả, nên chúng ta đã vì những người thân và kẻ thù mà tạo ra đủ thứ tội lỗi.

35- Đời người quả thật như mộng huyễn, bất cứ chuyện gì ta đã trải nghiệm cũng chỉ là ký ức trong tâm. Việc qua rồi là không bao giờ thấy lại.

36- Kẻ thù hóa thành hư vô, người thân cũng tan đi như mây khói. Thân ta chắc chắn phải chết, tất cả rốt cùng đều trở về không.

37- Lại nữa, trong đời này, một số kẻ thù và bạn hữu ta cũng chết. Nhưng những tội ác mà vì họ ta đã tạo ra thì vẫn còn rành rành trước mắt.

38- Vì không ý thức được mình có thể chết bất ngờ, ta đã tạo bao nhiêu tội nghiệp do tham lam, sân hận và ngu si.

39- Mạng sống tiếp tục suy giảm từng ngày đêm không bao giờ ngừng, không thể nào tăng lên, thì làm sao một kẻ như ta lại không chết ?

40- Khi lâm chung, dù có nhiều người thân vây quanh, nhưng những thống khổ lúc hấp hối chỉ có một mình ta phải chịu.

41- Khi sứ giả Diêm vương đã đến bắt hồn, thì thân quyến, bằng hữu đâu ích gì ? Duy chỉ phước đức mới có thể cứu mình, nhưng khốn nỗi ta lại chưa từng tu tập.

42- Hỡi đấng cứu hộ che chở, do buông lung nên con không biết chết là đáng sợ như thế này. Con đã vì cuộc sống mong manh mà tự tạo biết bao tội lỗi.

43- Như một kẻ tội phạm bị dẫn ra pháp trường thì kinh hãi, miệng khô, hai mắt lồi ra, hình hài đổi khác ;

44- Nói gì đến nỗi kinh hoàng, ưu khổ nơi ta lúc bị sứ giả Diêm vương với thân hình đáng sợ đến bắt ?

45- Ai có thể cứu tôi ra khỉ cơn hãi sợ lớn lao này ? Lúc đó ta sẽ trợn dọc hai con mắt hốt hoảng nhìn khắp bốn phương để cầu cứu.

46- Tìm khắp bốn phía không thấy nơi nương tựa, ta càng sợ hãi. Không có nơi nào trú ẩn, ta phải làm sao bây giờ ?

47- Phật là đấng Chúa tể đầy từ bi chuyên phù hộ, che chở chúng sanh. Ngài có năng lực giải trừ các khiếp sợ, nên nay con xin quay về nương tựa nơi Ngài.

48- Cũng thế, con xin quay về nương tựa Thánh pháp mà chư Phật đã chứng ngộ, có thể trừ khử được nỗi sợ hãi trong cõi sinh tử luân hồi, và quay về nương tựa chư Bồ-tát Thánh chúng.

49- Trong cơn hãi sợ tơi bời này, con xin đem cả thân mạng dâng lên đức Bồ-tát Phổ Hiền. Con cũng đem thân này phụng hiến lên đức Văn Thù Bồ-tát.

50- Con cũng đem hết sức bình sinh la lên cầu cứu với đức Bồ-tát Quán Thế Âm, vị Bồ-tát không quên hạnh đại bi. Xin ngài cứu con, một kẻ mê lầm !

51- Con cũng cầu cứu với ngài Hư Không Tạng Bồ-tát, Địa Tạng Vương Bồ-tát cùng chư Bồ-tát sẵn lòng đại bi.

52- Con xin nương tựa Kim Cương Trì Bồ-tát, người mà các sứ giả dữ tợn của Diêm Vương trông thấy phải khiếp vía bỏ chạy.

53- Từ xưa con đã làm trái lời chư Phật, nên phải rơi vào nỗi lo sợ lớn lao này. Nay con đã quay về nương tựa chư tôn, xin hãy mau cứu con ra khỏi cơn khiếp hãi !

54- Với một cơn bệnh tầm thường, người ta còn lo sợ, tuân theo lời y sĩ, huống gì bệnh tham sân si từ lâu đời lâu kiếp đã trói buộc tâm mình ?

55- Chỉ một căn bệnh tham sân si này cũng có thể tiêu hủy tất cả người trong châu Thiệm Bộ phương Nam. Tìm khắp nơi cũng không gặp được phương thuốc nào để trị chứng bệnh ấy.

56- Giáo lý do đấng Nhất thiết trí, bậc đại Y vương tuyên thuyết có thể nhổ tận gốc các khổ đau. Ai đã biết được giáo lý ấy mà không thực hành theo, thì thực là rất ngu si đáng trách.

57- Khi gặp một nguy hiểm nhỏ ta còn phải đề phòng cẩn thận, huống chi (địa ngục) một chỗ hiểm sâu cả ngàn do tuần, kéo dài nhiều đời kiếp mà không cẩn thận hay sao ?

58- Nghĩ rằng “Hôm nay chưa chết đâu” để nhàn hạ qua ngày thì thực là phi lý, vì sớm muộn gì ta cũng chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến thôi.

59- Ai sẽ đem lại cho ta sự không sợ hãi ? Làm sao ta có thể thoát khỏi nỗi kinh khiếp này ? Nếu ta nhất định sẽ phải chết, thì làm sao có thể yên tâm hưởng nhàn được ?

60- Những kinh nghiệm ta đã trải qua nay còn lại gì đâu ngoài ra những hoài niệm về chúng ? Thế mà do bám víu vào những thứ ấy, ta thường làm trái những giáo huấn của bậc thầy !

61- Nếu khi chết ta phải bỏ lại sinh mạng này cũng như tất cả người thân để ra đi một mình đến nơi vô định, thì kết bạn kết thù có ích lợi gì đâu ?

62- Do tạo những nghiệp bất thiện đời trước mà có ra những thống khổ đời nay, vậy làm sao để thoát ly khỏi vòng nghiệp nhân khổ quả ? Ta chỉ nên ngày đêm tư duy như vậy.

63- Vì ngu si con đã phạm các tánh tội (những điều ai cũng cho là quấy, bất kể có tôn giáo hay không), hoặc phạm các giới tội do Phật chế và những tội lỗi khác ;

64- Nay đối trước chư Phật, với lòng sợ hãi những khổ báo do tội lỗi gây ra, con xin chắp tay đảnh lễ chư Phật ba lần để sám trừ tất cả tội.

65- Xin các ngài khoan dung tha thứ cho những tội lỗi con đã tạo từ xưa, quả thực đấy là hành vi bất thiện, từ nay về sau con thề vĩnh viễn không dám làm.

CHƯƠNG BA

PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM

(Bồ-đề tâm nguyện)

1- Con sung sướng tùy hỷ tất cả các thiện hành dứt khổ mang vui cho chúng sanh.

2- Con xin tùy hỷ tất cả những việc tốt mà chúng sanh tích tụ được, vì đấy là nhân cho giác ngộ (của bậc A-la-hán). Xin vui theo những hữu tình còn thân dư báo nhưng sẽ vĩnh viễn giải thoát khỏi khổ luân hồi.

3- Con xin tùy hỷ sự giác ngộ của chư Phật và chư Bồ-tát ở mười địa vị. Con cũng hân hoan tùy hỷ biển phước khiến hữu tình an vui, cùng các hành vi của chư Bồ-tát để lợi lạc hữu tình.

4- Khi biết Phật muốn nhập Niết-bàn, con sẽ vội vàng thỉnh cầu các ngài trụ thế vô lượng kiếp để thế gian thoát khỏi mê ngu.

5- Đối trước mười phương chư Phật, con xin chắp tay chí thành cầu khẩn các ngài hãy vì chúng sanh đau khổ mê mờ mà đốt lên ngọn đuốc chánh pháp.

6- Bao nhiêu thiện hành như trên mà con đã tích tụ được, con nguyện dùng để tiêu trừ thống khổ cho tất cả hữu tình.

7- Đối với chúng sanh bị bệnh, con nguyện hóa làm thuốc hay, làm thầy giỏi, hoặc làm y tá điều dưỡng.

8- Nguyện có nhiều thực phẩm như mưa tuôn để giải trừ nạn đói khát cho chúng sanh. Vào thời tai ách đói kém, con nguyện làm thức uống ăn cho tất cả chúng sanh đỡ đói.

9- Đối với người khốn cùng, con nguyện hóa thành kho vô tận. Nguyện cho các nhu yếu của đời sống đều hiện ra trước mắt họ.

10- Vì muốn lợi ích cho hữu tình, con xin xả bỏ tất cả không tiếc thứ gì : thân mạng, tài sản, cùng các thiện hành tích lũy trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai.

11- Xả bỏ hết thì sẽ thoát khổ, tâm con được Niết-bàn an tịnh. Trước sau gì cũng phải xả bỏ, sao bằng bố thí trước cho tất cả chúng sanh.

12- Con đã đem thân này hoan hỷ bố thí cho chúng sanh, nên để cho họ tha hồ đánh chửi, giết hại.

13- Dù họ có đem thân con ra làm trò cười, xúc phạm, chê bai, con cũng coi như không. Đã thí xả thân này thì đâu còn gì để quý tiếc ?

14- Tất cả những việc làm vô hại mà lợi ích cho hữu tình, con đều sai khiến thân này làm hết. Nguyện cho ai trông thấy con đều được nhiều lợi lạc.

15- Do có người do thấy con mà khởi lòng tin, hoặc do thấy con mà căm ghét, con nguyện cả hai thái độ ấy rốt cùng đều mang lại cho họ lợi ích.

16- Nguyện cho những người lăng nhục, làm hại hay chế riễu con, đều nhân đấy trở thành cơ hội cho họ chứng Bồ-đề.

17- Với kẻ lữ hành không ai giúp đỡ, con nguyện làm người chỉ lối đưa đường. Nguyện làm chiếc thuyền bè hay cây cầu cho người muốn qua sông.

18- Nguyện hóa làm hòn đảo cho kẻ cần ốc đảo, hóa làm đèn đuốc cho kẻ cần đèn đuốc, hóa làm chỗ nghỉ cho kẻ cần chỗ nghỉ. Người cần tôi tớ để sai sử, con nguyện làm tôi tớ cho họ.

19- Nguyện hóa làm bò báu, ngọc như ý, lu thần, bùa linh, thuốc tiên, cây ước… cho tất cả chúng sanh.

20- Con nguyện hóa làm những nhu yếu căn bản cho sự sống của vô lượng hữu tình như đất, nước, lửa và không khí.

21- Con nguyện làm cái nhân duy trì sinh mạng cho chúng sanh như vậy, cho đến khi tất cả chúng sanh đủ loại trong cùng tận biên giới hư không đều Niết-bàn cả mới thôi.

22- Như xưa kia chư Phật sau khi phát tâm Bồ-đề, đều tuần tự tu tập các học giới Bồ-tát ;

23- Thì nay con cũng vậy, sau khi phát tâm vì lợi ích cho muôn loài, con cũng tuần tự siêng tu hành các học giới Bồ-tát.

24- Bậc trí sau khi phát tâm Bồ-đề thanh tịnh như thế rồi, lại vì muốn cho tâm ấy tăng trưởng nên ca tụng nó như sau :

25- Phúc thay cho ta nay được mang thân người, lại được sinh vào gia đình Phật, làm con của chư Phật.

26- Từ đây trở đi ta chỉ nên làm những việc thích hợp với gia tộc ấy, phải cẩn thận chớ để ô danh dòng giống tối tôn này.

27- Như một kẻ đui mù sờ soạng mò ngay được ngọc báu trong thùng rác, ta may sao phát được tâm Bồ-đề này cũng vậy.

28- Bồ-đề tâm là cam lộ thù thắng mang lại bất tử, là kho vô tận trừ khử khó nghèo,

29- Là cây thuốc tốt nhất trừ bệnh chết, là tàng đại thụ che mát cho chúng sanh lưu lạc trong ba đường ác đến nghỉ ngơi,

30- Là cây cầu cho chúng sanh đi qua để ra khỏi ác đạo,

31- Là vầng trăng mát dịu trừ khử phiền não nóng bức trong tâm, là vầng nhật chói lọi xua tan mây mù vô trí. Bồ-đề tâm ví như tinh chất đề hồ được rút ra từ sữa Diệu pháp của Thế Tôn.

32- Đối với những khách hữu tình đang phiêu bạt với những người muốn an hưởng hạnh phúc, thì tâm Bồ-đề có thể khiến cho họ được an vui, như một lữ quán có thể làm mãn nguyện khách đường dài.

33- Ngày hôm nay, trước sự chứng giám của chư Phật, Bồ-tát, con ân cần mời chúng sanh làm tân khách đến đây để hưởng cái vui thành Phật và những vui khác. Mong chư thiên chúng và mọi người hãy vui mừng lên.

CHƯƠNG BỐN

THỰC HÀNH BỒ-ĐỀ TÂM

(Bồ-đề tâm hạnh)

1- Sau khi mạnh mẽ phát Bồ-đề tâm, Bồ-tát con Phật phải thường tinh tấn tu tập không được biếng nhác, nhất là không được làm trái học giới Bồ-tát.

2- Một việc làm nếu ta không suy nghĩ cẩn thận, hoặc do ngẫu hứng mà làm thì dù đã hứa, ta cũng có thể xét lại xem nên theo hay nên bỏ.

3- Nhưng làm sao có thể từ bỏ Giới, mà với trí tuệ bao la chư Phật Bồ-tát đã xét thấy có vô lượng công đức, và chính ta cũng đã từng suy nghĩ trước khi lãnh thọ ?

4- Đã phát nguyện làm lợi lạc hữu tình mà không làm như lời hứa, thì hóa ra lừa dối tất cả chúng sanh ? Như vậy số phận ta sẽ ra sao ?

5- Kinh dạy, kẻ nào đã định cho người khác một vật tầm thường mà cuối cùng không cho, cũng sẽ đọa làm quỷ đói.

6- Thế mà ta đã mời chúng sanh đến dự yến tiệc vô thượng an lạc rồi lại dối gạt chúng, thì làm sao sinh đến cõi tốt lành ?

7- Trường hợp A-a-hán xả tâm Bồ-đề mà vẫn được quả giải thoát là việc khó nghĩ bàn, chỉ bậc Nhất thiết trí (Phật)mới hoàn toàn thấu rõ nguyên nhân.

8- Trong các tội đọa thuộc Bồ-tát giới, cái tội xả tâm Bồ-đề là nặng nhất, vì nếu khởi cái tâm này thì làm cho tất cả chúng sanh mất lợi lạc.

9- Kẻ nào gây trở ngại cho thiện hành của Bồ-tát, dù chỉ một sát-na, thì vì tổn hại cả hữu tình nên sẽ bị quả báo đọa ác đạo không cùng tận.

10- Phá hoại an lạc của một chúng sanh mà còn gặp khốn đốn, huống gì hủy hoại an lạc của vô biên hữu tình đầy khắp biên giới hư không ?

11- Bởi thế, người vừa có sức mạnh dám phát tâm Bồ-đề, lại vừa có khả năng phạm tội đọa, thì vẫn quanh quẩn mãi trong vòng luân hồi, khó có ngày bước lên các địa vị Bồ-tát.

12- Vậy nên ta phải cung kính thực hành những gì đã thệ nguyện. Từ nay về sau nếu không tinh tấn, chắc chắn ta sẽ đọa vào những nơi thấp hèn.

13- Vô lượng chư Phật đã ra đời để làm lợi ích chúng sanh, nhưng do tội lỗi quá khứ mà ta đã không gặp được sự cứu độ của các ngài.

14- Nếu nay ta cũng lại phạm tội như trước, chắc chắn sẽ không thoát khỏi cảnh bị bệnh, bị trói, bị xẻ cưa trong các ác đạo.

15- Được gặp Phật xuất thế, được làm người có lòng tin Phật thích hợp để tu thiện hành, đấy là những điều kiện hiếm có, biết bao giờ ta mới được lại ?

16- Dù hiện nay ta khỏe mạnh, đủ ăn, không bị tổn thương, nhưng mạng sống trôi qua từng giây phút, cái thân này chỉ như vật tạm.

17- Cứ theo cách hành xử của ta hiện nay, thì được lại thân người cũng khó. Mà nếu không được thân người thì chỉ có thể làm ác, không thể tạo thiện hành.

18- Khi đã đủ cơ hội để làm điều lành mà không chịu làm, đến lúc bị đọa vào ác đạo, bị các thống khổ bức bách, ta liệu làm được gì ?

19- Nếu không làm lành, chỉ tạo toàn nghiệp ác thì dù trải qua một ức kiếp, ta cũng không được nghe đến cái tên của cõi tốt lành.

20- Đó là lý do đức Thế Tôn dạy : thân người vô cùng khó được, như con rùa mù từ dưới biển mới ngoi lên mà cổ nó chui ngay được vào lỗ hổng nơi một tấm ván trôi bềnh bồng.

21- Phạm tội nặng chỉ trong sát-na cũng bị một kiếp đoạ vào địa ngục Vô gián, huống chi từ vô thủy luân hồi đến nay ta đã tạo tội, thì làm sao có thể sinh vào nẻo lành ?

22- Chờ trả cho xong những ác báo ấy để được giải thoát đã là việc khó, huống chi trong lúc thọ quả báo ta lại còn tạo thêm nhiều tội lỗi.

23- Đã được thân người nhàn rỗi mà không lo tu hành, thì thật không gì điên cuồng ngu xuẩn hơn.

24- Nếu biết vậy mà vẫn ngu si làm biếng, thì khi lâm chung, ta sẽ hết sức đau khổ.

25- Lửa địa ngục thiêu đốt thân thể trong nhiều kiếp đã khó chịu nổi, mà ngọn lửa ăn năn hối hận còn làm cho tim ta đau đớn vô vàn.

26- Điều lợi lạc khó được mà ta may mắn đã được, lại có đủ khôn ngoan, vậy mà vẫn đoạ vào địa ngục ;

27- Có khác gì ta đã vướng phải bùa chú làm cho mất hồn. Không biết ta đã bị cái gì làm cho hôn ám, con ma nào ẩn nấp trong tâm ta ?

28- Tham, sân, những kẻ thù ấy không có tay chân, mặt mũi, cũng không dũng cảm, thông minh gì, sao chúng có thể sai sử ta như sai đầy tớ ?

29- Phiền não trong tâm tự tung tự tác làm tổn thương ta, vậy mà ta vẫn chịu đựng không giận tức chúng, sự nhẫn chịu vô lối ấy thực là đáng trách.

30- Dù cho chư thiên và các loài khác nhất tề tấn công ta, cũng không thể đẩy ta vào địa ngục Vô gián được.

31- Nhưng năng lực của kẻ thù phiền não tham dục lại rất lớn, có thể ném ta vào ngọn lửa địa ngục mà ngay cả núi Tu Di gặp phải cũng cháy ra tro.

32- Kẻ thù phiền não trong tâm ta sống dai vô thủy vô chung. Những địch thù trên đời không có kẻ nào sống lâu đến thế.

33- Nếu thuận theo kẻ địch ở đời, ta còn có được lợi lạc. Nhưng nếu chiều theo phiền não trong tâm thì ta chỉ có gặp toàn những khổ hại mà thôi.

34- Kẻ thù địch sống dai ấy, cái nhân duy nhất tăng trưởng tai họa ấy, nếu cứ để cho nó ở trong tâm mình, thì làm sao ta sống an vui không lo sợ cho được ?

35- Phiền não là ngục tốt bảo vệ ngục sinh tử, là kẻ hành quyết tội nhân trong địa ngục. Nếu nó còn ở trong tâm ta thì làm sao ta có được an vui ?

36- Đừi này nếu chưa đích thân tiêu diệt được kẻ thù phiền não thì ta không nên xả bỏ tinh tấn. Người đời khi bị kẻ khác làm hại chút xíu cũng còn nổi giận, tráng sĩ khi chưa diệt xong kẻ thù thì ngủ không yên giấc.

37- Trong khi đánh nhau kịch liệt giữa chiến trường, người ta còn nỗ lực tiêu diệt kẻ thù, mặc dù những kẻ thù địch ấy rốt cuộc tự nhiên cũng sẽ chết. Nhưng vì những thù địch ấy gây cho họ khổ não, nên bất kể thân mình trúng phải tên đao, khi chưa đạt mục đích tiêu diệt kẻ thù, họvẫn không đào tẩu thối lui.

38- Huống ta nay tinh tấn quyết tiêu diệt kẻ thù tự nhiên (là si mê phiền não), cái nhân của thống khổ, thì thật không nên biếng nhác thối chí, dù có gặp trăm ngàn gian khổ.

39- Khi vì mưu cầu chút danh lợi mà thân bị trúng thương của kẻ thù, người ta còn lấy đó làm vinh. Nay ta vì lợi ích lớn lao mà siêng năng tinh tấn, thì đau khổ sao có thể làm ta chùn bước ?

40- Những kẻ chài lưới, đồ tể, nông phu…v.v… chỉ vì sinh kế mà phải chịu nóng chịu rét cùng bao nhiêu gian nan cay đắng. Nay ta vì an lạc chúng sanh, sao lại không nhẫn chịu khó khăn ?

41- Ta đã phát nguyện cứu độ chúng sanh khắp mười phương ra khỏi phiền não ái dục, thế mà chính ta thì lại chưa lìa xa phiền não.

42- Thốt lời không tự lượng sức, có phải là điên cuồng không ? Bởi thế từ nay ta không bao giờ nên khiếp nhược thối lui trong lúc triệt tiêu phiền não.

43- Ta hãy yêu mến phương pháp đối trị phiền não, hãy ôm hận quyết chiến đấu với nó. Chỉ nhờ phát một cái tâm mãnh liệt ngang với tham sân phiền não mới mong diệt được não phiền.

44- Ta thà bị thiêu, bị giết, bị chặt đầu, quyết không khuất phục giặc phiền não.

45- Kẻ địch thông thường khi bị đánh đuổi ra khỏi một nơi nào, lại rút đi nơi khác ẩn náu dưỡng sức, chờ khi phục hồi lực lượng sẽ trở lui đánh tiếp, nhưng kẻ thù phiền não thì không thế.

46- Khi con mắt tuệ xuyên suốt để tống khứ phiền não ra khỏi tâm thì phiền não đi đâu ? Nó không thể ẩn trú chỗ nào để về sau trở lại. Thế thì sao ta lại nhu nhược, không chịu tinh tấn tiêu diệt nó.

47- Phiền não không ở ngoại cảnh, không ở nội thân, cũng không ở giữa thân và cảnh. Ngoài ba chỗ đó chẳng có chỗ nào cho nó trú. Vậy nó trú chỗ nào để hại ta ? Vậy nên biết phiền não chỉ là tâm huyễn, không đáng sợ. Hãy nên vì sự nghiệp trí tuệ mà siêng tu, sao ta vẫn cứ ở trong địa ngục để bị tổn hại một cách vô nghĩa ?

48- Tư duy như vậy, ta nên tận lực tu hành viên mãn các học giới Bồ-tát. Bệnh nhân cần thuốc, nếu không tuân theo lời dặn lương y thì làm sao khỏi bệnh ?

CHƯƠNG NĂM

CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC

1- Người muốn giữ giới hãy nên chuyên chú giữ tâm mình, vì nếu không giữ tâm thì không thể giữ giới.

2- Nếu thả cái tâm như voi điên này ra, ta sẽ chịu nạn địa ngục Vô gián(ngục A Tỳ, nơi tội nhân liên tục chịu cực hình ngày đêm). Trên đời, dù một con voi lớn chưa thuần cũng không gây tai họa bằng tâm này.

3- Nếu luôn luôn dùng sợi thừng Chánh niệm để trói vào, cột cái tâm như voi điên này, thì không còn lo sợ gì nữa, mà lại có được tất cả phước lành.

4- Cọp, sư tử, voi, gấu, rắn, hết thảy kẻ thù địch và lính canh giữ địa ngục trong loài hữu tình, cho đến các hung thần, quỷ la-sát ;

5- Chỉ nhờ buộc cái tâm này là ta có thể trói tất cả những thứ trên. Điều phục được tâm là điều phục tất cả.

6- Phật, đấng luôn luôn nói sự thật đã dạy rằng tất cả những nỗi lo sợ cùng vô lượng thống khổ đều từ tâm mà sinh ra.

7- Các binh khí để hành phạt hữu tình trong các địa ngục do ai đã cố ý tạo ra ? Ai tạo nền sắt nóng ở hỏa ngục, những nữ nhân địa ngục từ đâu sinh ? (ảo giác khủng khiếp của những kẻ đa dâm bị cực hình ở địa ngục).

8- Phật dạy tất cả những thứ đó đều do ác tâm tạo ra. Bởi thế trong cả ba cõi, không có gì đáng sợ bằng tâm này.

9- Nếu cần phải diệt trừ nghèo khổ cho tất cả chúng sanh mới thành tựu được hạnh bố thí cao cả (để thành Phật), thế thì ngày xưa làm sao Phật viên mãn thí độ được khi mà đến nay ta vẫn còn thấy những kẻ cơ bầøn ?

10- Nhưng nhờ vui vẻ đem cho chúng sanh tất cả tài vật cùng thành quả công đức mình, mà thí độ(hạnh bố thí rốt ráo)được viên mãn. Như vậy, bố thí chỉ y cứ nơi tâm.

11- Biết lùa các loại tôm cá và tất cả động vật hoang dã đến một nơi nào cho chúng khỏi bị giết hại ? Nhưng khi vĩnh viễn chấm dứt ác tâm, thì gọi là thành tựu giới độ (giữ giới toàn vẹn).

12- Kẻ ngoan cố sân si trên thế giới đầy dẫy khắp không gian, làm sao điều phục cho hết ? Nhưng nếu chấm dứt tâm sân nơi chính mình, thì cũng như diệt được tất cả địch thù.

13- Làm sao có đủ số lượng da thuộc để trải khắp đại địa ? Nhưng chỉ cần lót một mảnh da dưới gót giày, thì cũng như đã trải da toàn mặt đất.

14- Cũng vậy, ta không cần phải khắc phục tất cả những kẻ thù bên ngoài. Chỉ cần chấm dứt tâm giận dữ nơi chính mính thì khỏi nhọc công khắc phục cái gì khác.

15- Khi cái tâm sáng suốt vắng lặng sinh khởi thì được quả báo sinh lên cõi trời Phạm thiên (cõi trời cao nhất trong sáu tầng trời cõi Dục). Dù làm các việc tốt lành bằng thân và miệng, nhưng tâm hành (động lực từ nội tâm thúc đẩy) yếu ớt thì khó thành tựu phước đức.

16- Phật dạy, dù tụng niệm và tu các thứ khổ hạnh lâu năm, mà tâm cứ tán loạn để ở chỗ khác, thì cũng vô ích.

17- Nếu không biết tâm này, bí yếu của tất cả Phật pháp, thì dù có mong muốn thoát khổ và được an vui, rốt cuộc vẫn phiêu bạt trong ba cõi một cách vô nghĩa.

18- Bởi thế ta nên khéo gìn giữ đạo tâm. Trừ giới gìn giữ tâm này ra, còn cần gì giữ các giới khác ?

19- Như thân thể bị thương mà ở giữa một đám đông hỗn loạn thì cần phải cẩn thận giữ gìn ; cũng thế, ở giữa đời người hung ác, ta phải giữ vết thương là tâm mình.

20- Đối với vết thương nhỏ trên thân, ta còn sợ bị hại mà phải cẩn thận giữ gìn, thì tại sao người sợ cái khổ ở địa ngục Núi ép không giữ vết thương là cái tâm mình ?

21- Nếu hành xử được vậy, thì dù ở giữa ác nhân hay nữ sắc cũng tinh tấn giữ giới không thối lui.

22- Ta thà mất lợi dưỡng, tài sản, thân xác và các sinh kế khác, thà mất những thiện hành khác, quyết không tổn hại tâm này.

23- Tôi chắp tay thành khẩn khuyên những người muốn giữ tâm, hãy nỗ lực giữ chánh niệm và chánh tri (chánh niệm tỉnh giác).

24- Những người bị bệnh khổ thì không có sức để làm gì ích lợi ; cũng thế, kẻ mà tâm bị phiền não quấy nhiễu cũng không thể làm các việc lành.

25- Người mà tâm không tỉnh giác (chánh trí, biết đúng)thì những gì nghe, tư duy, tu tập được sẽ không ở lại trong trí nhớ (chánh niệm),như cái bình rỉ.

26- Dù có tín, đa văn, tinh tấn, mà không tỉnh giác thì cuối cùng cũng phạm vào ô uế tội lỗi.

27- Tên giặc không chánh tri ấy đi theo sau đuôi sự mất chánh niệm (thất niệm) mà trộm hết phước đức đã tích lũy được từ trước, khiến người sa đọa đường ác.

28- Bọn giặc phiền não ấy đang rình cơ hội cướp đoạt gia tài thiện pháp của ta, hủy hoại pháp thân tuệ mạng của ta và đường đến cõi tốt lành.

29- Bởi vậy tuyệt đối đừng rời chánh niệm khỏi cửa ý, nếu rời thì phải liền nhớ đến những tai hại của việc này, tức liền an trú lại chánh niệm.

30- Nhờ theo bậc thầy, nhờ sợ đọa lạc, nhờ giáo huấn của thầy phương trượng trú trì, mà người thiện tín dễ phát sinh chánh niệm.

31- Chư Phật Bồ-tát với cái thấy không chướng ngại, thấy rõ tất cả hành vi ngôn ngữ ta.

32- Tư duy như vậy sẽ sinh hổ thẹn, kinh sợ và dễ dàng phát sinh chánh niệm nghĩ đến Phật.

33- Do giữ gìn cửa ý, đứng vững trong chánh niệm rồi, thì chánh tri(biết đúng) sẽ xuất hiện, những gì đã quên mất cũng sẽ trở lại.

34- Khi một ý xấu vừa manh nha, biết ngay tai họa của nó, ta liền giữ chánh niệm như cây bám chặt vào đất.

35- Không bao giờ nên nhìn dáo dác mông lung, quyết chí thường để mắt nhìn xuống.

36- Khi cần nhìn bốn phương để con mắt nghỉ ngơi chốc lát, nếu thấy có người nào xuất hiện trước tầm mắt thì hãy nhìn thẳng họ mà chào hỏi.

37- Khi quan sát có gì nguy hiểm trên đường đi, nên nhìn bốn phương, và lúc nghỉ ngơi hãy quay nhìn sau lưng xem xét.

38- Quan sát kỹ trước sau xong rồi mới tiếp tục đi tới hay quay về. Vào mọi lúc nên nhận rõ nhu yếu phải hành động (tỉnh giác) như vậy.

39- Khi muốn thân thể ở trong tư thế nào, sau khi an trú hãy luôn quan sát : thân này đang được giữ trong tư thế nào ?

40- Thường nỗ lực quán sát cái tâm như voi điên to lớn này, buộc nó vào cột trụ chánh pháp, không để cho nó sổng chạy.

41- Người tinh tấn tu tập thiền định thì trong một sát-na cũng không để cho tâm phân tán ra ngoài, thường quán sát như sau : tâm ý mình hiện đi đâu ?

42- Nếu gặp lúc nguy cấp hay vui vẻ, không thể chú tâm thì nên xả cho nó an nghỉ. KinhVô Tận Ý có dạy rằng : lúc hành bố thí, ta có thể xả những giới nhỏ nhiệm.

43- Khi đã suy nghĩ một việc mà muốn làm thì không nên nghĩ đến việc gì khác. Tâm chí phải chuyên chú làm cho xong việc ấy đã.

44- Được vậy việc mới thành, nếu không thì không xong việc nào cả. Sự mất tỉnh giác, con mắt bất chánh tri luôn rình rập, nhờ vậy cũng sẽ không lớn mạnh.

45- Khi đi vào những đám đông đang nói chuyện phiếm hoặc xem kịch, hãy đoạn trừ tâm tham đắm các việc ấy.

46- Khi vô cớ làm những việc cuốc đất dẫy cỏ, vẽ vời trên mặt đất, thì hãy nhớ di giáo của Phật nên sợ tội lỗi mà từ bỏ ngay hành vi ấy.

47- Khi thân muốn di động, miệng muốn ra lời, trước hãy xem tâm mình rồi mới làm hay nói một cách an ổn và hợp lý.

48- Khi ý khởi lên tham hoặc sắp nổi giận, hãy tạm đình chỉ nói làm, như cây đứng vững.

49- Khi tâm nghĩ lăng xăng (trạo cử), coi thường kẻ khác, hoặc sinh kiêu căng ngã mạn, muốn phê bình người, muốn nói lời không thực để lừa dối người,

50- Hoặc muốn khen mình chê người, nói lời thô ác, ly gián… thì hãy ở yên như cây đứng.

51- Hoặc nghĩ đến danh lợi, cung kính, muốn sai sử người khác, muốn được kẻ khác hầu hạ, hãy ở yên như cây đứng.

52- Khi muốn nói gì làm cho kẻ khác mất lợi giảm ích, để mưu cầu tự lợi, hãy ở yên như cây đứng.

53- Khi mất kiên nhẫn, làm biếng, sợ sệt, nói lời vô nghĩa, không biết thẹn, khi sinh tâm thiên vị, hãy ở yên như cây đứng.

54- Quán sát những tâm lý ô nhiễm, ưa làm chuyện vô nghĩa ấy rồi, Bồ-tát hãy dùng phương pháp đối trị để giữ tâm kiên cố.

55- Bồ-tát có đức tin sâu xa, rất cương quyết, vững vàng, cung kính, lễ độ, biết xấu hổ, sợ quả báo, an tịnh, siêng năng, mong đem lại an vui cho người.

56- Những ngu muội ấu trĩ thường không hợp ý nhau, tâm Bồ-tát cũng đừng sinh chán ghét, phải thấy chúng bị mê lầm mà ra như thế, nghĩ vậy rồi hãy trải tâm từ.

57- Vì lợi ích cho bản thân và hữu tình, ta không nên phạm tội, hãy thường xuyên chánh quán như huyễn vô ngã.

58- Hãy nên tư duy nhiều lần rằng trải qua nhiều kiếp ta mới có được nhàn cảnh thân người, vậy cần giữ gìn tâm này bất động như núi.

59- Này tâm ý, lúc bầy chim kên kên háu đói tranh nhau gặm thi thể, ngươi cũng bỏ qua, thì sao bây giờ ngươi lại để ý đến thân này ?

60- Sao còn ôm giữ cái thân xem nó là tôi ? Ngươi với nó khác nhau, nó có ích gì cho ngươi đâu ?

61- Này tâm ý ngu si kia, sao ngươi không giữ một cái thân như cây sạch sẽ, mà giữ chi cái khí cụ hư hoại ô uế này ?

62- Trước hãy dùng ý phân tách da khỏi thịt, rồi dùng trí tuệ sắc bén mà tách thịt ra khỏi bộ xương.

63- Lại chẻ xương ra mà quan sát sâu vào tủy để tự hỏi, có cái gì sạch và đẹp không ?

64- Tìm kỹ cũng không thấy được cái sạch đẹp, thì sao ngươi còn tham luyến, mến giữ cái thân này ?

65- Ngươi cần gì thân này khi ngươi không thể ăn dơ uế trong thân, uống máu trong thân, hút gan ruột trong thân ?

66- Cái lý do duy nhất để tham thân, là nó làm thự phẩm cho chồn và kên kên, vậy thân người chỉ đáng nên chịu sự sai khiến để làm việc thiện.

67- Nếu ngươi cứ bám giữ nó, thì thần chết cũng không buông tha, sẽ đoạt nó để cho chó và kên kên ăn, khi ấy ngươi làm gì được ?

68- Khi tớ không kham việc thì chủ không cho cơm áo, ngươi cưng dưỡng cái thân mà nó bỏ ngươi đi mất thì sao còn chăm sóc nó chu đáo làm gì ?

69- Đã trả lương cho nó thì phải làm lợi cho mình, nếu nó không lợi ích gì thì không cho nó xu nào cả.

70- Nên xem thân như con thuyền đưa ta qua lại làm lợi lạc hữu tình, chuyển nó thành thân Phật như ý.

71- Hãy tự làm chủ lấy thân tâm, thường lộ vẻ mặt vui tươi, đình chỉ sự giận dữ và những cái cau mày, trở thành người bạn tốt của chúng sanh.

72- Khi dời chỗ ghế giường, đừng tùy tiện gây tiếng động lớn. Khi mở cửa cũng phải nhẹ nhàng chớ thô bạo. Thường ưa nói lời hiền dịu nhu hòa.

73- Con vịt nước, con mèo và kẻ trộm lúc nào cũng làm việc một cách lặng lẽ trong bí mật, nên mới thành tựu được những việc chúng muốn làm. Đức Phật cũng thường làm việc cách đó.

74- Ở chung nên khéo khuyên răn người bỏ ác làm lành, khi người khác cho những lời khuyên lợi ích mà mình không yêu cầu thì phải cung kính mà đón nhận, hãy là đồ đệ học hỏi từ tất cả chúng sanh.

75- Hãy khen ngợi tất cả những lời Pháp khéo thuyết, và thấy ai làm việc phước thì nên ca tụng và sinh tâm vui mừng.

76- Hãy thầm khen công lao kẻ khác và cùng người nói về thiện đức kẻ khác Nghe ai nói đến công đức của mình thì hãy tự xét xem mình có thật như vậy hay không.

77- Tất cả việc làm đều cốt mang lại nguồn vui khó mua được bằng tiền bạc, bởi thế ta hãy nhân thiện hành của mọi người mà hưởng thú vui tùy hỷ.

78- Làm vậy thì chẳng những đời này không hại gì mà đời sau được vui lớn. Ngược lại, nếu vì ganh ghét mà sầu khổ thì đời sau thống khổ càng tăng.

79- Nói năng phải từ đáy lòng mình, lời và nghĩa minh bạch khiến người nghe vui vẻ, không nói vì tham sân thúc đẩy mà phải nói lời nhu hòa thích đáng.

80- Khi nhìn hữu tình, hãy nhìn với từ tâm và thành thực, nghĩ rằng nay tôi nhờ họ mà có thể thành Phật.

81- Hãy thường khởi tâm hành thiện, hoặc khởi tâm đối trị (bất thiện), như cúng thí vào ba ruộng phước là kỉnh điền (cúng dường Tam bảo), ân điền (cha mẹ) và bi điền (kẻ nghèo)thì sẽ được phúc lớn.

82- Khi đã có được trí thiện xảo và đức tin, thì ta nên thường hành thiện. Những việc lành hãy tự mình làm, không ỷ lại vào kẻ khác.

83- Các pháp Ba-la-mật như bố thí, trì giới,… cần phải càng ngày càng tăng tiến, đừng vì việc nhỏ mà mất lợi ích lớn. Hãy thường nghĩ làm sao lợi ích cho tất cả mọi người.

84- Đã rõ đạo lý kinh dạy như trên, thì hãy thường phát tâm siêng làm lợi người. Đức Phật thấy xa, đầy đủ bi mẫn đã mở cho Bồ-tát những giới cấm đối với kẻ khác.

85- Thực phẩm nên chia sớt cho những chúng sanh bị đọa, cho người không nơi nương tựa và cho những người giữ giới. Chỉ nên ăn vừa đủ mà thôi. Y phục chỉ nên giữ ba bộ, ngoài ra nên thí xả.

86- Thân này cốt để tu hành chánh pháp, không nên vì lợi nhỏ mà làm cho nó bị tổn thương. Được thế thì ước nguyện của chúng sanh sẽ mau thành tựu.

87- Không có một tâm đại bi hoàn toàn thanh tịnh thì không nên thí xả thân này, mà đời này cũng như các đời khác chỉ nên xả thân vì lợi lạc lớn lao cho hữu tình.

88- Không thuyết pháp cho nười có thái độ như kẻ bị bệnh, không cung kính, người cầm dù, gậy, binh khí, người trùm đầu.

89- Không thuyết pháp cho người khác phái chỉ có một mình ; không nói pháp rộng rãi sâu xa cho người thiếu trí ; nhưng phải cung kính tu tập bình đẳng tất cả pháp sâu cạn.

90- Không nên nói pháp nhỏ cho người có khả năng lớn, không nên xả luật hạnh Bồ-tát, không dùng chú thuật dối gạt người.

91- Khi nhổ nước bọt và vứt tăm xỉa răng phải lấy đất che lấp, không đổ phế thải lên đất sạch và nước trong.

92- Khi ăn chớ độn đầy miệng, nhai ra tiếng, há lớn miệng. Khi ngồi không duỗi chân ra, không xoa hai tay vào nhau.

93- Ở những nơi như trên xe, trên giường, không nên ngồi chung với người khác phái. Tóm lại là những gì khiến người đời mất niềm tin thì hãy theo đó mà tránh sự ghét hiềm.

94- Đừng ra hiệu hay chỉ đường bằng cách búng ngón tay, mà nên cung kính duỗi cả bàn tay phải.

95- Để bày tỏ ý mình không nên lắc mạnh cánh tay, mà chỉ cử động nhẹ, hoặc nói ra lời, hoặc khảy móng tay ; nếu không sẽ mất uy nghi.

96- Như khi Phật Niết-bàn, lúc ngủ hãy xoay đầu về hướng đáng hy vọng. Khi ngủ hãy giữ gìn chánh niệm tỉnh giác nghĩ đến lúc thức dậy.

97- Phật dạy vô số luật nghi Bồ-tát (không thể nào nói cho hết), nhưng những pháp hành để thanh lọc tâm trên đây hãy nên tận lực tu trì.

98- Ngày ba lần, đêm ba lần, hãy tụng đọc Kinh Ba Tụvà y cứ bốn năng lực là quy y, phát tâm,.. v..v… mà sám trừ các tội nặng.

99- Lúc nào cũng nên vì mình hay vì người mà siêng năng thực hành bất cứ hạnh gì Phật đã dạy.

100- Không có một giới nào mà Bồ-tát không cần học, nếu khéo sống được như vậy thì nhất định không thiếu phước

101- Dù trực tiếp hay gián tiếp, tất cả hành vi đều chỉ vì lợi tha, và cũng chỉ vì lợi lạc hữu tình mà ta hồi hướng tất cả cho sự nghiệp giác ngộ.

102- Dù phải mất tính mạng, tôi thề không từ bỏ bậc Bạn lành quý báu tinh thông giáo nghĩa Đại thừa và thực hành viên mãn giới Bồ-tát.


103- Nên tu học những phép tắc hầu thầy nói trong truyện Cát Tường Sinh ở kinh Hoa Nghiêm và những học giới khác đọc kinh sẽ biết.

104- Trong kinh có giới luật, vậy nên đọc qua tạng kinh, trước tiên là kinh Thánh Xử Hư Không Tạïng.

105- Vì sao phải tu hành ? Trong kinh Học Xứ Tập Yếu đã nói rộng điều này, bởi thế nên đọc bộ luậnChúng học xứ tập yếu.

106- Lại cũng nên đọc qua Nhất thiết kinh tập yếuvà hai bộ luận của Long Thọ.

107- Hãy siêng tu học những gì mà kinh luận không cấm, và thực hành những gì kinh dạy để giữ gìn đức tin của thế gian.

108- Tóm lại ý nghĩa của giữ gìn Chánh tri là : nên quán sát kỹ các trạng thái của thân và tâm.

109- Hãy nên cung kính thực hành chứ nói suông đâu có kết quả. Nếu chỉ đọc cái toa thuốc thì có ích gì cho cơn bệnh ?



--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567