- Lời nói đầu
- Phần I: Hội Thảo Khoa Học
- Phần II: Lịch Sử Truyền Thừa
- Phần III: Những Ngôi Chùa Cổ Phật Giáo Gia Định
- Phần IV - Các Phong Trào Phật Giáo
- Phần V - Văn Hóa - Giáo Dục Phật Giáo
- Phần VI - Phật Giáo Trong Sinh Hoạt Văn Hóa
- Phần VII - Các Vị Cao Tăng Trong Cuộc Vận Động Chấn Hưng PHẬT GIÁO
- Phần VIII - Phụ Lục - Nhớ chùa Khải Tường
300 Năm Phật Giáo Gia Định, Sàigòn
Phục Hưng Thiền Trúc Lâm Yên Tử
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Nguồn: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Nguồn: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Tôn giáo là một lĩnh vực của tinh thần, góp phần xây dựng nền đức lý cho xã hội, đem lại sự an lạc hạnh phúc và trật tự cho nhân loại. Phật giáo (PG) giúp cho chúng ta vượt thoát mọi khổ đau, nỗi bức xúc, từ những thăng trầm của cuộc sống, những sóng gió của cuộc đời mang đến; nó đưa hành giả đến chỗ an lạc, thấy rõ chân lý của cuộc sống, từ đó tiến đến giải thoát, không còn trầm luân trong cảnh khổ.
Qua sử liệu, lịch sử truyền thừa của PG Việt Nam, nếu bắt đầu từ Khương Tăng Hội (đầu thế kỷ thứ ba), là giai đoạn Giáo tông; từ thế kỷ thứ bảy đến giữa thế kỷ thứ mười chín, là sự truyền thừa của các thiền phái như: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Lâm Tế, Tào Động.
Trong các thiền phái đó, chỉ có thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang bản sắc đặc thù của dân tộc, mà Sơ Tổ là người Việt Nam khai sáng. Nó đã góp phần xây dựng văn hóa, chính trị, quân sự, đạo đức cho dân tộc; đã viết lên những trang sử oai hùng, xây dựng đời cực thịnh cho đất nước. Như trong phần Tổng quan về Phật giáo đời Trần, tác giả Việt Nam Phật giáo sử luận Nguyễn Lang đã nhận định: "PG Trúc Lâm là một PG độc lập; uy tín tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của PGTrung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng, nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình. Đứng về phương diện tư tưởng, tổ chức, cũng như hành đạo, Giáo hội Trúc Lâm có những nét độc đáo, khiến cho nó chỉ có thể là một Giáo hội Việt Nam, phục vụ cho người Việt, duy trì và bồi đắp cá tính Việt" (tập 1, trang 254).
Tuy biết rằng với tinh thần "vô ngã" của đạo Phật, thì PG không có phân biệt biên cương, lãnh thổ và chủng tộc, nhưng vì mỗi dân tộc có một bản sắc văn hóa riêng, nên Giáo hội PG của mỗi nước có những nét đặc thù, và sự sinh hoạt khác nhau. Trong mối giao lưu văn hóa giữa các nước, sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu cho kho tàng văn hóa văn minh của mình, không thể gọi là một sự bắt chước để phủ nhận giá trị của nó, mà là một sự tiếp thu có chọn lọc, có sáng tạo theo bản sắc đặc thù của mỗi dân tộc. Do đó, không thể nói PG đời Trần, hay thiền Trúc Lâm Yên Tử đã chịu ảnh hưởng của các hệ phái thiền đương thời và trước đó, mà không có tính sáng tạo và không có gì gọi là đặc điểm của thiền tông Việt Nam.
Tuy Trúc Lâm Đại Đầu Đà là Tổ thứ sáu của hệ phái Yên Tử, và tôn thờ Tuệ Trung Thượng Sĩ làm thầy (nhưng Thượng Sĩ vốn là cư sĩ nên không thể truyền giới pháp cho Ngài, và không có chú ý đến hình thức tổ chức Giáo hội), cho nên Ngài xứng đáng là Sơ Tổ của hệ phái Trúc Lâm. Với tài tổ chức của một minh quân, Ngài đã thống nhất các thiền phái đương thời thành một Giáo hội thống nhất, đưa Thiền tông hòa nhập vào dân tộc, với những tổ chức và hình thức lễ nghi biểu hiện ý thức, tự lực tự cường, độc lập của dân tộc thời bấy giờ. Ngài cho phát hành sách giáo khoa về đạo Phật (Thích khoa giáo, Chư phẩm kinh...), và cho phát hành toàn quốc cuốn Phật giáo pháp sự đạo tràng công văn cách thức, để thống nhất về nghi lễ cầu an, cầu siêu, chẩn tế, thọ giới, khánh thành... Giáo hội thời này đã lập sổ Tăng tịch và cấp độ điệp cho Tăng Ni. Suốt quá trình lịch sử phát triển của PG Việt Nam, chúng ta nhận thấy đây là thời cực thịnh của PG Việt Nam, đưa PG trở thành quốc giáo. Vua Trần Nhân Tông xứng đáng là vị giáo chủ lãnh đạo Giáo hội, là một vị Tổ khai sáng thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. PG đời Trần đủ điều kiện để đại diện cho Thiền tông Việt Nam. Vì thế, việc nghiên cứu, đánh giá về thiền phái Trúc Lâm là một vấn đề đang đặt ra cho toàn xã hội ; trong phần bài viết này, chúng tôi xin lược trình những nét chính theo cái nhìn chủ quan của chúng tôi.
I.- THIỀN TÔNG VIỆT NAM NÂNG CAO GIÁ TRỊ PHẬT GIÁO VN
1- Ông vua đi tu: Ở Ấn Độ, ông hoàng thái tử xuất gia tìm đạo giải thoát cứu khổ chúng sanh. Ở Việt Nam, một ông vua xuất gia vào núi tu hành để cứu dân độ thế. Vị Thái tử không màng giàu sang danh vọng, kể cả tương lai ngôi vị hoàng đế, trốn đi tu tìm cho ra mối đạo giải thoát để cứu khổ chúng sanh. Như vậy, đạo giải thoát này phải cao siêu tột đỉnh, Ngài mới vứt bỏ ngôi vị cao sang nhất trên đời. Vua Trần Nhân Tông thấm nhuần được Phật pháp, đang ngự trị ngai vàng mà chối bỏ, giao lại cho con, xuất gia tu Phật, tu theo hạnh Đầu đà. Phật giáo nếu không cao siêu, kỳ đặc thì làm sao lôi cuốn hấp dẫn được ông vua dám "xem ngai vàng như dép rách", đổi chiếc áo ngự bào, mặc áo nâu sồng làm người xuất gia vào núi tu hành. Giá trị PG ở Ấn Độ thật siêu xuất, giá trị PG Việt Nam cũng phi thường, mới đủ sức thuyết phục một ông hoàng, một ông vua đi tu. Ở Việt Nam, đời Trần ông vua đi tu Phật, ông trạng nguyên đi tu Phật, chúng ta thử xét giá trị Phật giáo đời Trần cao siêu đến ngần nào. Phật pháp đã cao siêu, người tu cũng đáng kính, cho nên PG rất thịnh hành trong thời này. Chúng tôi phục hưng tinh thần PG đời Trần cốt để nâng cao Phật giáo Việt Nam hiện nay.
2- Ông Tổ Thiền tông người Việt Nam: PG Việt Nam từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 18 do Thiền tông lãnh đạo truyền bá, các hệ phái Thiền tông hầu hết từ Trung Hoa truyền sang như: phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, phái Vô Ngôn Thông, phái Thảo Đường..., những vị Tổ đứng đầu mỗi hệ phái đa phần người Trung Hoa, Ấn Độ. Chỉ có phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, ông Tổ đầu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà chính thực là người Việt Nam. Ông Tổ Việt Nam mới thông cảm tâm tư, nguyện vọng, phong tục tập quán của người Việt Nam, giáo hóa mới thích ứng nhu cầu người Phật tử Việt Nam.
II.- ĐẶC ĐIỂM CỦA THIỀN TÔNG VIỆT NAM
1- Không chỉ riêng người xuất gia mà cư sĩ cũng ngộ đạo
a)- Vua Trần Thái Tông (1218-1277): Đây là ông vua đầu nhà Trần, bẩm tính hâm mộ tu Phật, gặp duyên trắc trở đau buồn, ông liền trốn lên núi Yên Tử xin tu (1236)... Thái sư Trần Thủ Độ dẫn quan quân đi tìm, đến núi Yên Tử gặp vua, ông quyết thỉnh vua về cho được. Vua đành phải trở về tiếp tục công việc trị dân. Hơn mười năm khi rảnh rỗi, vua mời các bậc kỳ đức đến hỏi đạo tham thiền. Vua thuật lại: "Trẫm thường đọc kinh Kim Cang đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", trong khoảng để quyển kinh xuống ngâm nga bỗng nhiên tự ngộ. Liền đem sở ngộ này viết thành bài ca, để tên là Thiền tông chỉ nam" (trích trong bài tựa Thiền tông chỉ nam).
Qua đó, chúng ta thấy đang lúc ngự trên ngai vàng cai trị muôn dân, vua vẫn nghiên cứu Phật pháp và tham thiền được ngộ đạo. Ai đa đoan bận rộn bằng ông vua đầy nhiệt tình lo cho đất nước, thế mà quyết tâm tu liền ngộ đạo. Đây là tấm gương sáng để chúng ta học tập theo.
b)- Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1297): Tướng quân Trần Tung, con Trần Liễu, đã hai phen cầm quân đánh giặc Nguyên Mông. Sau khi giặc tan, nước nhà thái bình, ông lui về ở phong ấp Tịnh Bang, đổi tên làng Vạn Niên. Ông học thiền và ngộ đạo với Thiền sư Tiêu Dao ở tịnh xá Phước Đường. Vua Thánh Tông kính quý ông nên tặng hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ và gởi Thái tử Trần Khâm đến học thiền với ông. Trong quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục, vua Trần Nhân Tông tán thán: "Ôi tinh thần sắc vận của Thượng Sĩ thật trang nghiêm, cử chỉ thẳng thắn uy đức, Thượng Sĩ bàn huyền nói diệu trong lúc gió mát trăng thanh, những hàng thạc đức đương thời đều bảo Thượng Sĩ tin sâu hiểu rõ, thuận hạnh nghịch hạnh thật khó lường được". Chẳng những cư sĩ đến học thiền với Thượng Sĩ mà Tăng sĩ cũng đến tham vấn. Con người của Thượng Sĩ thật tiêu dao phóng khoáng, đọc tác phẩm Vui thú giang hồ của Thượng Sĩ thấy rõ.
Tâm xưa hồ hải chửa từng khuây
Ngày tháng như tên lại tợ thoi
Gió mát trăng thanh sinh kế đủ
Non sông nước biếc nếp sống đầy
Sáng sớm giương buồm băng nước thẳm
Chiều nâng sáo thổi cợt gió mây
Tạ Tam nay đã không tin tức
Để chiếc thuyền trơ bãi cát này.
Cuộc sống của Thượng Sĩ đơn giản, đạm bạc, không màng danh lợi, nội tâm lúc nào cũng sung mãn an vui. Đọc bài thơ Tự tại sẽ thấy:
Bìm chuột không nhơn mãi mãi xâm
Lui về, già gởi chốn sơn lâm
Nhà tranh cửa gỗ đời thanh thoát
Không đúng, không sai tự tại tâm.
Khi quốc gia hữu sự, Thượng Sĩ xông pha trận mạc cứu nước cứu dân; lúc nước nhà thái bình, Thượng Sĩ sống thong dong tự tại trong đạo lý thiền, ai cần thì giúp, không cần thì vui thú hải hồ, thảnh thơi chốn sơn dã. Đời của Thượng Sĩ thật đẹp như bức tranh thủy mặc.
c)- Vua Trần Thánh Tông (1240-1290): Vua là con của Thái Tông, lên ngôi năm Mậu Ngọ (1258), đổi niên hiệu là Thiệu Long, vua học thiền với Quốc sư Đại Đăng. Một hôm, đọc ngữ lục của Thiền sư Đại Huệ, vua cảm ngộ làm kệ:
Đập ngói dúi rùa ba chục niên
Mấy phen xuất hạn bởi tham thiền
Một phen thấu vỡ gương mặt thật
Lỗ mũi xưa nay mất một bên.
Vua Thánh Tông nói thiền: "Dụng của chân tâm tĩnh tĩnh lặng lặng, không đi không đến, không thêm không bớt, vào lớn vào nhỏ, mặt thuận mặt nghịch, động như mây hạc, tĩnh như tường vách, nhẹ như sợi lông, nặng như tảng đá, sạch trọi trơn bày lồ lộ chẳng thể so lường, hoàn toàn không dấu vết, ngày nay vì anh biện biệt rành rẽ rõ ràng" (Trích Thánh đăng lục).
Qua đây chúng ta thấy, vua Thánh Tông thấu suốt lý thiền, trong lúc còn đang làm hoàng đế. Nhà vua không tìm nơi non cao rừng vắng, mà ngự tại triều đình tu vẫn được ngộ đạo. Đúng như lời Thiền sư Viên Chứng nói: "Phật tại tâm mình", nếu người biết xoay lại tâm mình thì có ngày ngộ đạo. Quả là tu thiền không trở ngại cho mọi công tác ở thế gian, có ai mà không tu được. Đây là một bằng chứng thiền học đời Trần rất tích cực.
2- Tinh thần nhập thế của Thiền tông Việt Nam
a)- Tam giáo đồng nguyên: Thuyết Tam giáo đồng nguyên xuất phát từ đời nhà Tống ở Trung Hoa. Nhà Trần ở Việt Nam chấp nhận thuyết này để dung hòa Tam giáo (Phật-Khổng-Lão). Người Việt Nam chịu ảnh hưởng Tam giáo rất sâu đậm qua những thời kỳ Bắc thuộc và giao lưu văn hóa. Những nhà lãnh đạo tư tưởng Thiền tông Việt Nam thời bấy giờ, bằng trí tuệ sáng tạo đã dung hợp Nho và Lão để tạo sự đoàn kết dân tộc, tận dụng mọi tài năng để bảo vệ và xây dựng đất nước. Do đó, không thể cho tinh thần Tam giáo đồng nguyên này là sự sao chép của nhà Tống. Tam giáo đồng nguyên của nhà Tống không tạo được sức mạnh cho dân tộc. Thiền phái Trúc Lâm khéo dung hợp Nho giáo để kiện toàn cơ cấu tổ chức chính quyền quân chủ, phát triển văn hóa, đào tạo nhân tài cho đất nước (mở trường dạy học, mở các khoa thi để tuyển chọn nhân tài...). Tinh thần này đã thể hiện rõ qua lời khuyên của Thiền sư Viên Chứng: "Phàm làm đấng nhân quân phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ trở về, Bệ hạ không về sao được? Song, phần nghiên cứu nội điển, mong Bệ hạ đừng xao lãng". Qua bài Phóng cuồng ngâm của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Cư trần lạc đạo của vua Trần Nhân Tông, đã thể hiện một phần ảnh hưởng Đạo giáo với tinh thần siêu thoát của Thiền.
b)- Tinh thần nhập thế của Thiền tông Việt Nam: Mặc dù "thiên hạ Lý-Trần bán vi Tăng" (người dân Lý-Trần hết phân nửa là Tăng), theo nhà sử nho Ngô Sĩ Liên thời đó nhận xét, dân tộc Việt Nam không vì tinh thần bác ái, khoan dung của đạo Phật mà trở nên bi quan, yếm thế, tiêu cực và quên lãng bổn phận đối với Tổ quốc và dân tộc khi có ngoại xâm, như trường hợp Ấn Độ, Indonesia trước sự xâm lăng của Hồi giáo, mà trái lại, đã ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông, một đội quân hùng mạnh và thiện chiến đã từng bách chiến bách thắng từ Á sang Âu.
Năm 1257, giặc Nguyên Mông xâm lăng đất nước ta, vua Thái Tông (một ông vua ngộ đạo, xem sống chết như trò đùa) đích thân chỉ huy nhiều mặt trận, có mặt ở cả mọi nơi nguy hiểm, khiến quân sĩ nức lòng chiến đấu. Kết quả, quân ta đánh tan quân xâm lược, giặc Nguyên Mông tháo thân chạy về Vân Nam (đầu năm 1258). Một ông vua Thiền sư hết lòng mộ đạo, đã từng làm kệ khuyên người đừng sát sanh:
Cánh lông mai vảy trọn hàm linh
Sợ chết tham sanh nào khác tình
Từ trước thánh hiền lòng chẳng nỡ
Đâu đành thấy chết vẫn tham sinh.
Tại sao ông lại cầm quân đánh giặc, giết hại biết bao sanh mạng, chắc phải có lý do, hành động này có mang tội sát không?
Sau khi nhường ngôi cho con, ông lui về lập am Thái Vi, ở vùng rừng núi Vĩ Lâm (cố đô Hoa Lư) để an dân lập ấp và lo tu hành, cùng khuyên dạy dân chúng tu. Khuyên người dân giữ năm giới, ông nói kệ về giới thứ ba:
Má thoảng hương mai, mặt nhụy đào
Thấy rồi mắt dán, ý nao nao
Thảy đều một đãy da hôi thúi
Thầm cắt ruột người chẳng động dao.
Ông luôn đem bốn tướng sanh, già, bệnh, chết nhắc nhở mọi người tu hành (bốn tướng này trong kinh gọi là bốn núi).
* Nhận định về vua Trần Thái Tông
Đem vua Trần Thái Tông so sánh với vua Lương Võ Đế ở Trung Hoa, chúng ta thấy có những nét đặc thù. Vua Lương Võ Đế (464-549) là con người rất sùng Phật, ông từng giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã và sớ giải các kinh... Song, khi Tổ Đạt Ma sang Trung Hoa năm 520 gặp vua, Tổ nói thiền, vua không lãnh hội, Tổ lên miền Bắc ở tại chùa Thiếu Lâm. Đến cuối đời vua Lương Võ Đế, bị giặc Hầu Cảnh kéo quân vây hãm thành Kiến Khang, quần thần xin xuất quân chống giặc, vua không cho, lại ra lệnh bế cửa thành, tụng kinh cầu nguyện cho giặc lui. Kết quả giặc chẳng lui, mà ông bị mất nước và phải chết. Trái lại, vua Trần Thái Tông là người ngộ được Thiền tông, khi giặc Nguyên Mông xâm lăng, vua chỉ huy cầm quân đánh giặc, giặc thua rút lui về, đất nước thái bình, vua mới ngồi yên tu thiền. Hai thái độ của hai ông vua đồng là kính mộ đạo Phật mà xử sự mỗi bên mỗi khác.
Vua Võ Đế bị giặc hãm thành không cho quân chống cự, lại ra lệnh trong thành tụng kinh cầu nguyện cho giặc lui. Đây là đem tôn giáo áp đặt trên chính trị nên phải mắc họa. Vua Thái Tôn tách bạch phân minh, phần nào thuộc tôn giáo, phần nào thuộc chính trị, nên cứu được đất nước khỏi lâm nguy. Tu theo Phật giáo là trau giồi đạo đức, rèn luyện tâm linh, là việc riêng của mỗi người Phật tử, tức là lãnh vực của tôn giáo. Giặc ngoại bang xâm lăng Tổ quốc, toàn dân đứng lên chống giặc, người lãnh đạo cổ động lòng yêu nước của dân và đứng ra chỉ huy đánh giặc là lãnh vực chính trị. Phân rành lãnh vực tôn giáo, lãnh vực chính trị là vấn đề rất thiết yếu. Người Phật tử thọ tam quy trì ngũ giới, nếu phạm giới sát sanh là có tội, đó là phần tu hành riêng của Phật tử, thuộc lãnh vực tôn giáo. Đất nước bị xâm lăng, toàn dân đứng lên chống giặc là trách nhiệm của mỗi công dân, thuộc lãnh vực chính trị. Nhất là đối với một đạo quân gây tang tóc cho hàng vạn, hàng triệu sinh linh từ Á sang Âu, vó ngựa của chúng tới đâu là gieo kinh hoàng, nhà tan cửa nát tới đó; việc chống lại đoàn quân hiếu sát, để bảo vệ sinh mạng và tài sản của nhân dân, theo nguyện vọng của toàn dân (qua Hội nghị Diên Hồng), là việc làm tự vệ theo nguyện vọng của toàn dân, không tạo bởi tâm hiếu sát, thì có thể đem tội sát luận vào chỗ này không, hay đây là việc làm của Bồ Tát thõng tay vào chợ, giống hành động của Bồ Tát (tiền thân đức Phật) giết tướng cướp khi qua đò để bảo vệ tài sản và sinh mạng của khách buôn... Do đó, không thể đem tội sát đặt vào chỗ này.
Vua Trần Thái Tông là một ông vua ham tu ngộ đạo mà trọn đời lo bảo vệ và xây dựng đất nước. Khi nước nhà bị địch họa, nhà vua liều mình cứu nước; lúc đất nước thái bình, tuy tuổi đã già, vẫn dạy dân khai hoang lập ấp, và chỉ dạy họ tu hành, trau giồi đạo đức. Nhà vua không những lo cho dân được cơm no áo ấm, mà còn lo cho dân có đức hạnh và biết gạn lọc tâm linh.
Qua lịch sử, chúng ta thấy vua tôi nhà Trần đã ngộ được lý thiền, vận dụng vào cuộc sống với tinh thần nhập thế, tích cực bảo vệ nền độc lập, xây dựng hạnh phúc cho toàn dân, đây là một đặc điểm chỉ có ở Thiền tông Việt Nam.
c)- Góp phần xây dựng văn hóa dân tộc: Các nhà lãnh đạo thiền phái Trúc Lâm chẳng những là những nhà chính trị, thiền sư, mà còn là những nhà văn hóa, những thi nhân có tài. Các ngài đã ý thức muốn bảo vệ nền độc lập dân tộc một cách hữu hiệu và lâu dài, phải phát triển nền văn hóa dân tộc, nên các ngài không ngừng học tập nội ngoại điển, để thông Lão-Nho, ngộ lý Thiền. Để khuyến khích dân chúng học hành, triều đình cho mở khoa thi Tam giáo để chọn nhân tài phục vụ đất nước.
Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ là những Thiền sư ngộ đạo, giỏi thơ văn, đã sáng tác những tác phẩm về đạo lý, dịch giảng kinh sách hướng dẫn nhân dân tu hành ; làm thi kệ, tụng, để dạy môn đồ... Những tác phẩm này đã tác động đến sự trưởng thành và phát triển của nền văn học đời Trần.
Một quốc gia độc lập hùng cường, đã có một ngôn ngữ riêng, muốn có một nền văn hóa độc lập thì không thể thiếu chữ viết riêng để ghi lại tâm tư, tình cảm, sinh hoạt văn hóa của dân tộc. Từ nhận thức đó, các Thiền sư lãnh đạo nước Đại Việt khuyến khích toàn dân sáng tạo và dùng chữ Nôm. Vào thời này, chữ Nôm mới bắt đầu hình thành với: Nguyễn Thuyên, người đã có bài văn tế Cá sấu chẳng kém Hàn Dũ; Nguyễn Sĩ Cố với tài làm thơ Việt, với biệt tài khôi hài, chẳng kém Đông Phương Sóc đời Hán, và với Chu Văn An... Thiền phái Trúc Lâm góp phần tham gia sáng tạo chữ Nôm, qua việc viết họ tên Phật tử trong các sớ điệp cầu an, cầu siêu, thọ tam quy ngũ giới... bằng chữ Nôm. Ngoài ra, các Ngài còn để lại những bài văn Nôm như: Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Sơ Tổ Trúc Lâm; Vịnh vân yên tự phú của Huyền Quang...
d)- Tính bao dung nội giáo: Đời Trần tuy lấy Thiền tông làm chủ đạo truyền bá, song cũng có Tịnh, Mật đồng thời hoạt động. Tịnh độ thì có sự Tịnh độ và lý Tịnh độ. Về sự Tịnh độ thì phải tin có cõi Cực lạc ở phương Tây, đức Phật A Di Đà là giáo chủ cõi này. Nếu người chí thành niệm Phật và tha thiết cầu sanh về cõi Cực Lạc, khi lâm chung được Phật Di Đà đón về Cực lạc. Về lý Tịnh độ là "Tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh độ" hay "Tâm Tịnh độ tịnh", tức là tâm mình thanh tịnh là Tịnh độ, tánh mình sáng suốt là Phật Di Đà. Tổ Trúc Lâm nói:
... Tịnh độ là lòng trong sạch
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tánh sáng soi
Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.
(Phú Cư trần lạc đạo - Hội thứ hai)
Thiền tông thừa nhận lý Tịnh độ, không quan tâm sự Tịnh độ. Thiền sư Vô Ngôn Thông nghe Tổ Bá Trượng nói: "Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu" liền ngộ đạo. Đất tâm nếu không, là tâm Tịnh độ tịnh. Tuệ nhật tự chiếu là tự tánh Di Đà. Vì A Di Đà dịch nghĩa là Vô Lượng Quang, nhà Thiền gọi là Tuệ nhật tự chiếu. Đứng về lý, Tịnh độ cùng Thiền tông cứu cánh không hai.
Qua các tác phẩm của đời Trần, chúng ta thấy ảnh hưởng của Mật tông không nhiều như thời Lý. Thiền tông đời Trần thiên về Thiền giáo, văn chương, nhẹ về Tịnh, Mật. Lịch sử PG Việt Nam đã minh chứng ảnh hưởng của Tịnh, Mật tuy có lúc nặng lúc nhẹ, nhưng Thiền vẫn luôn luôn chủ đạo, từ thế kỷ thứ 3 cho đến thế kỷ thứ XVIII.
III.- CHỦ TRƯƠNG PHỤC HƯNG THIỀN TÔNG VIỆT NAM, hay THIỀN TRÚC LÂM YÊN TỬ
A/- Nguyên nhân
1- Thời kỳ Nho giáo độc tôn: Suốt 200 năm kể từ khi nhà Trần bắt đầu suy đồi, giới trí thức hướng về Nho học, xem đây là một phương thức để dựng nước và giữ nước ; họ hướng về nền văn hóa Tống Nho, không thấy được truyền thống văn hóa của dân tộc (các phép thi, phong hàm quan lại, y phục, nhạc chương... theo Trung Quốc), đã đưa đất nước đến chỗ suy yếu, lệ thuộc sau này. Trong thời gian này, những vị cao tăng không thấy xuất hiện; có thể do thái độ chống Phật của các nhà Nho mà các vị lui về ẩn dật, không còn tham dự việc triều chính, hoặc những tác phẩm thời này bị binh lửa thiêu hủy... PG thời này thầy cúng nhiều hơn thầy tu.
2- Thời kỳ phục hưng của các thiền phái: Ở Trung Quốc, khi nhà Thanh lên thay nhà Minh, thì ở Việt Nam, Trịnh-Nguyễn phân tranh, loạn lạc nổi lên nhiều nơi; trong triều, sự tranh giành quyền hành, trước cảnh thăng trầm của cuộc đời, đã khiến cho một số Nho gia thức tỉnh quay về với đạo Phật. Các chúa Trịnh, Nguyễn quy hướng về Phật giáo để nương tựa tinh thần, tạo lập công đức. Trong thời kỳ này có các thiền phái Lâm Tế và Tào Động truyền sang nước ta: thiền phái Lâm Tế ở Đàng Ngoài có Thiền sư Chuyết Chuyết và Thiền sư Minh Hành. Ở Đàng Trong có Thiền sư Nguyên Thiều, Thiền sư Minh Hoằng và Thiền sư Liễu Quán. Thiền phái Tào Động bắt đầu truyền sang nước ta lần thứ nhất ở Đàng Trong và Đàng Ngoài.
* Sự phục hưng của thiền phái Trúc Lâm: Thiền sư Chân Nguyên, sinh năm 1646, xuất gia năm 19 tuổi, thọ pháp với Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú) ở chùa Hoa Yên, với pháp danh là Tuệ Đăng. Khi Thiền sư Tuệ Nguyệt tịch, ông đến chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham thiền với Thiền sư Minh Lương (đệ tử của Thiền sư Chuyết Chuyết); sau khi đắc pháp, Sư được ban cho pháp hiệu là Chân Nguyên. Về sau, Sư được truyền thừa y bát Trúc Lâm, làm trụ trì chùa Long Động và chùa Quỳnh Lâm là hai ngôi chùa lớn của phái Trúc Lâm. Sư có nhiều đệ tử xuất sắc như: Như Hiện, Như Trừng, Như Sơn, Như Trí. Sư đã để lại 11 tác phẩm, hiệu đính và trùng khắc Thánh đăng lục. Các thế hệ sau tiếp tục phục hồi nền văn học Phật giáo nước nhà. Những tác phẩm của hệ phái Trúc Lâm còn sót lại hôm nay một phần là do Sư cùng các đệ tử trùng khắc, hoặc trùng san lại.
Khi chúa Nguyễn di dân mở mang bờ cõi về phía Nam, các Thiền sư với bản nguyện độ sanh, cũng theo dân vào vùng đất mới để xây chùa chiền, truyền bá Phật pháp như: Thiền sư Đạt Bổn từ Qui Nhơn vào Gia Định (địa danh thời chúa Nguyễn) lập chùa Thiên Trường năm 1755, sau đổi tên là Kim Chương tự. Trong thời kỳ này, Thiền sư Viên Quang, đời thứ 36, dòng Lâm Tế; Thiền sư Mật Hoằng khai sơn chùa Tập Phước, chùa Giác Lâm. Hai Thiền sư này là đệ tử của Thiền sư Linh Nhạc thuộc pháp phái Nguyên Thiều. Thiền sư Đạo Trung, dòng thứ 4, phái Liễu Quán, khai sơn chùa Linh Ẩn (1763) ở núi Điện Bà; Thiền sư Hoàng Long, người Qui Nhơn, vào tận Hà Tiên để hoằng hóa và tịch tại đây. Các thiền phái Lâm Tế, Liễu Quán, Tào Động, Trúc Lâm tiếp tục truyền thừa trong các chùa từ Bắc chí Nam cho đến giữa thế kỷ thứ XIX.
Nhìn lại chùa chiền Việt Nam ngót một thế kỷ nay, lấy hai thời khóa tụng làm công phu tu tập, hai thời khóa tụng này xuất phát từ đời nhà Thanh Trung Quốc, đây là giai đoạn lịch sử mà theo ông Trần Khuê, tác giả quyển sách "Nghiên cứu và tranh luận", đã viết : "... bên kia thi cử thế nào, bên này thi cử như thế; bên kia Đại Thanh nhất thống chí, bên này Đại Nam nhất thống chí ; bên kia cương mục, bên này cũng cương mục. Thậm chí bộ luật nhà Thanh của Càn Long thì bên này sao y bản chính"... (Trích bài Nho giáo và sự phát triển của Việt Nam, trang 365).
3- Thời kỳ chiến tranh chống đế quốc: Chư Tổ Việt Nam đã khéo ứng hợp hai thời khóa tụng vào hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm, lòng dân ly tán, mất niềm tự tin, sống trong cảnh phập phồng ngày đêm lo sợ bom, đạn pháo không biết rơi xuống lúc nào. Đêm ngày không dứt tiếng súng, tiếng bom đạn gần xa vọng về, thì làm sao an tâm nhập định, khi người thân đang cầm súng nơi chiến trường. Chùa chiền ngày đêm có thể bị khủng bố xét hỏi bất cứ lúc nào, đâu còn yên tĩnh để tĩnh tâm tọa thiền. Sống trong bối cảnh từ thành thị đến thôn quê, nhà nào cũng có hầm núp tránh bom đạn, nghe tiếng bom, tiếng pháo nổ gần, tiếng súng nổ giòn liên tục thì lập tức xuống hầm, miệng niệm Phật, niệm Bồ Tát không dứt... Cho nên đêm đêm đốt hương niệm Phật, tụng kinh trì chú, nguyện cầu tha lực cho gia đình bình an, cho tâm bớt lo sợ, là một thực tế linh hoạt của PG Việt Nam, là điều khế cơ khế lý, đối với hiện tình đất nước trong thời gian đã qua.
Nhưng ngày nay nước nhà độc lập, mọi người an tâm trong cuộc sống và hăng hái đi vào sản xuất... Việc xét lại đường lối tu hành của PG Việt Nam trong bối cảnh đất nước hiện nay, theo đúng với lý tưởng xuất gia cầu giải thoát, đem giáo lý của Phật giáo hóa chúng sanh khế hợp với trình độ tiến hóa của xã hội văn minh ngày nay, mà vẫn giữ được truyền thống đặc thù của dân tộc, là việc phải làm của những bậc thức giả, nhiệt tình với tiền đồ của PG Việt Nam trong giai đoạn mới, để không bị lạc hậu, để xứng đáng là người cầm đuốc soi đường cho hàng hậu học và chúng sinh trên con đường hướng đến giải thoát.
Trên con đường phát triển văn hóa, bất kỳ một sự sao chép nào, dù là sao chép của tổ tiên cũng là một sự nô lệ, không hợp thời hợp lý, huống chi là sao chép của ngoại bang, trong hoàn cảnh đổi mới của đất nước. Bài học lịch sử còn đó, sự nô lệ văn hóa đưa đến tinh thần vọng ngoại, làm tay sai cho ngoại bang, cuối cùng đưa đến mất nước. Chúng tôi chủ trương phục hưng thiền Trúc Lâm Yên Tử, bằng cách dịch giảng những tác phẩm của các thiền phái ở Việt Nam, nhất là thiền phái Trúc Lâm, để cho hàng hậu học thấy được tinh thần và cái hay của tổ tiên mình, thấy được cái tinh hoa và truyền thống của PG Việt Nam gắn liền với dân tộc, thấy được cốt lõi của đạo Phật, là việc làm "tùy duyên nhi bất biến". Trong tinh thần đó, chúng tôi hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử tu thiền với phương pháp và tri thức của nhân loại đang chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI.
4- Ích lợi của Thiền: Thiền là một phương pháp giúp chúng ta an định tâm. Khi tâm an định thì trí tuệ sáng suốt, đó là một quy luật tất yếu giữa tâm và trí tuệ (khi tâm bất an, đầy sợ hãi thì dễ đưa đến loạn tâm), đúng như lời Tổ Bá Trượng đã nói: "Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu". Chư Phật và Tổ nhờ thiền định mà tâm an định sâu, chứng ngộ đạo quả, có trí tuệ siêu việt, thấy được chân lý của vạn hữu, từ đó sống ung dung tự tại giải thoát...
Các vua đầu nhà Trần (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông) và Tuệ Trung Thượng Sĩ đều là những thiền giả đạt đến trạng thái an định sâu, nên mới chứng ngộ, thấu suốt lý thiền lẽ đạo, từ đó trí tuệ phát sáng, các Ngài viết kinh sách hướng dẫn người tu. Do tâm an định, trí tuệ sáng suốt linh hoạt, xem "sinh tử nhàn nhi dĩ" (sống chết nhàn mà thôi), từ đó các Ngài không khiếp sợ trước đạo quân Nguyên Mông thiện chiến, hùng mạnh và đông đảo. Xem tứ đại vốn không, nên xả thân vì nước vì dân, xông pha vào trận mạc, sát cánh cùng ba quân tướng sĩ chiến đấu đến thắng lợi. Bằng trí tuệ và đạo đức của mình, các Ngài lấy đức trị dân, áp dụng chính sách bình dị, thân dân, dân chủ. Vua Trần Nhân Tông thường hỏi han dân chúng, không cho vệ sĩ nạt nộ, vua nói: "Lúc thái bình thì nhờ có thị vệ tả hữu, lúc nước nhà lâm hoạn nạn thì chính những người gia nhân ấy đi theo bảo vệ".
Thiền còn mang đến cho hành giả một sức mạnh nội tâm hay nội lực, từ đó các nhà yoga, võ thuật, khí công, dưỡng sinh, ngoại đạo, ứng dụng tọa thiền để tăng định lực, rèn luyện thân thể, tăng nội lực, khí lực, hay để chữa trị một vài chứng bệnh nan y. Khi tâm an lạc, cơ thể ít tiết ra độc tố (là một trong những nguyên nhân phát sinh bệnh), và còn có khả năng điều trị được những chứng bệnh thuộc về tinh thần.
Hiện tại, con người đang bị quay cuồng theo công việc, chạy theo máy móc trong hệ thống dây chuyền, đưa đến chứng bệnh stress, là bệnh của thời đại ở các nước công nghiệp. Khoa học dưỡng sinh đã khuyên, mỗi ngày nên tập tọa thiền từ mười lăm hai mươi phút đến nửa giờ để thư giãn, an định tinh thần, là phương pháp tốt nhất để phục hồi trí tuệ, và chống lại sự lão hóa của não.
Trong các pháp tu của Phật thì tọa thiền là phương pháp an định tâm tốt nhất, bởi vì khi tọa thiền (giai đoạn khởi tu), mắt nhìn xuống hay khép hờ nên tâm bớt chạy theo ngoại cảnh; thân ngồi yên không cử động nên dễ định tâm hơn lúc đi đứng nói năng, cử động. Do đó, khi tọa thiền, hành giả dễ quan sát thấy tâm, khi tâm an định khá, hành giả sẽ tu trong bốn oai nghi.
B/- Tinh thần phục hưng thiền Trúc Lâm Yên Tử
1- Sơ Tổ Trúc Lâm (1258-1308): Ngài là con vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu, tên là Trần Khâm. Khi lớn lên, vua cha cho ngài theo học thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ. Một hôm, Ngài hỏi Thượng Sĩ về "bổn phận tông chỉ Thiền", Thượng Sĩ đáp " "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc" (soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, không từ bên ngoài mà được). Nghe qua, Ngài thông suốt được lối vào và thờ Thượng Sĩ làm thầy.
Năm 21 tuổi, Ngài lên ngôi hoàng đế (1279) hiệu là Trần Nhân Tông. Quân Nguyên Mông xâm lăng nước ta, Ngài phải cầm quân đánh đuổi giặc đến hai lượt (1285, 1288)... Đến năm Quý Tỵ (1293), Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Năm Kỷ Hợi (1299), Ngài vào núi Yên Tử xuất gia tu hành, lấy hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà và làm Sơ Tổ phái Trúc Lâm Yên Tử. Do chỗ sở ngộ ban đầu của Ngài, nên lấy câu "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc" làm kim chỉ nam cho phái thiền Trúc Lâm Yên Tử.
2- Câu "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc", nhìn xuyên suốt từ đời tu của đức Phật qua giáo lý, đến các pháp thiền:
a)- Đời tu của Đức Phật hoàn toàn soi sáng lại nội tâm của mình. Suốt bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ đề, Ngài quán chiếu nội tâm được giác ngộ thành Phật. Đức Phật là cội nguồn của đạo Phật, do quán chiếu nội tâm mình được chứng đạo, nên nói "phản quan tự kỷ bổn phận sự". Trọn đời Ngài không cầu xin, trông cậy cái gì khác bên ngoài, nên nói "bất tùng tha đắc".
b)- Giáo lý Phật dạy, bốn bộ kinh A Hàm, sáu trăm quyển kinh Bát Nhã, kinh Pháp Hoa... cũng không ngoài lối tu "phản quang" này. Kinh A Hàm lấy pháp Tứ đế làm căn bản, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo không phần nào chẳng quán chiếu lại mình. Kinh Bát Nhã lấy Bát Nhã Tâm kinh làm trọng tâm, mà "chiếu kiến ngũ uẩn giai không" là nền tảng tu hành. Kinh Pháp Hoa (mục đích nhận ra tri kiến Phật của mình), hình ảnh chàng cùng tử trở về tìm cha là ý nghĩa "phản quan tự kỷ".
c)- Các pháp thiền đều tu "phản quan tự kỷ"
* Thiền Nguyên thủy hiện nay hoặc tu thiền Tứ niệm xứ, hoặc tu thiền Minh sát tuệ. Pháp thiền Tứ niệm xứ là quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, đều là soi sáng lại chính mình. Pháp thiền Minh sát tuệ thì trước dùng hơi thở, biết rõ hơi thở ra vào, dài ngắn, lạnh ấm... nhờ nương hơi thở, tâm được định. Kế dùng trí tuệ quán sát thân tâm là vô thường, khổ, không, vô ngã biết đúng như thật. Theo dõi hơi thở và quán sát thân tâm vô thường... đều là "phản quan tự kỷ".
* Thiền Đại thừa quán chiếu theo kinh Bát Nhã, hoặc "chiếu kiến ngũ uẩn giai không" của Bát Nhã Tâm kinh, hoặc quán "nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán" của kinh Kim Cang, Bát Nhã. Cả hai lối quán này đều là "phản quang tự kỷ", cho đến pháp "Tam quán" của Thiền sư Huệ Văn do đọc Trung quán luận ngộ được. Sư đem pháp này dạy cho đệ tử là Thiền sư Huệ Tư (515-577), thành lập phái thiền Đại thừa "Tam quán". Pháp quán này y cứ bài kệ trong luận Trung quán là : "Nhân duyên sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị không. Diệc danh vi giả danh, diệc danh trung đạo nghĩa", lập thành ba pháp quán: Không quán, Giả quán, Trung đạo quán. Trong ba pháp quán này, cũng là "phản quan tự kỷ".
* Thiền tông hẳn căn cứ "phản quang tự kỳ". Cội gốc Thiền tông là "phản quan tự kỷ". Câu "Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật" là châm ngôn của Thiền tông do Tổ Đạt Ma tuyên bố. Không phản quan làm sao kiến tánh, không kiến tánh thì đâu có được thành Phật. Bởi Thiền tông chủ trương Phật tức tâm, ngoài tâm không có Phật.
3- Tại sao phải phản quan tự kỷ ?
Người tu Phật phải biết đúng như thật nơi thân tâm mình. Chúng sanh mê lầm, nên mọi sinh hoạt đều để phục vụ cho mình, mà thật sự không biết mình là gì. Do mê lầm sinh ra kiến chấp sai lạc, tạo không biết bao nhiêu tội lỗi làm khổ mình và làm khổ mọi người. Soi sáng lại thân tâm mình thấy đúng như thật thì mọi kiến chấp đều phá vỡ, đem lại sự an lạc cho mình và mọi người. Soi sáng thân tâm mình chia làm hai phần:
a)- Thấy rõ thân tâm vô thường : Trong bài văn Trữ từ tự răn, Thượng Sĩ nói :
Ngày tháng nước chảy, giàu sang mây trôi
Gió lửa tan rồi, trẻ già thành bụi
Hồn phách lìa sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, con rối kéo lôi
Hàng ngày đùa, đưa tay bắt bóng...
Trong mộng tạo tác, thức rồi đều không
Trong mộng tạo, sanh thô sanh tế
Tỉnh giấc rồi, không mãi tóc kẽ tơ...
Đến Tổ Trúc Lâm, trong bài Sơn phòng mạn hứng, cũng nói:
Phải quấy niệm rơi theo hoa rụng
Lợi danh tâm lạnh với mưa đêm
Mưa tạnh, hoa trơ, non vắng lặng
Chim kêu một tiếng lại xuân tàn.
Thân tứ đại hòa hợp, tâm danh lợi phải quấy đều vô thường hư dối, người tu thấy rõ như vậy là thức tỉnh giác ngộ. Thế nhân lúc nào cũng thấy thân vật chất là thật, tâm nghĩ phải quấy danh lợi là thật nên mê muội khổ đau, soi sáng thân tâm thấy đúng như thật là điều kiện tối thiết yếu trên đường tu.
b)- Nhận ngay ra nơi thân vô thường có cái chân thường
Bài Phật tâm ca của Thượng Sĩ có đoạn nói :
... Muốn tìm tâm, đừng tìm ngoài
Bản thể như nhiên tự rỗng lặng
Niết bàn sanh tử buộc ràng suông
Phiền não bồ đề đối địch rỗng
Tâm tức Phật, Phật tức tâm
Diệu chỉ sáng ngời suốt cổ kim
Xuân đến, tự nhiên hoa Xuân nở
Thu về, hiện rõ nước thu sâu...
Lặng lặng lặng, chìm chìm chìm
Cái tâm muôn pháp là tâm Phật
Tâm Phật lại cùng tâm ta hợp
Lẽ ấy như nhiên suốt cổ kim
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Trong lò lửa rực một hoa sen...
Tổ Trúc Lâm cũng nói:
Vậy mới hay ! Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa
Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt
Đến biết hay chỉn Bụt là ta.
(Phú Cư trần lạc đạo - Hồi thứ năm)
Qua hai đoạn dẫn trên, chúng ta thấy rõ Thượng Sĩ và Tổ Trúc Lâm chỉ thẳng tâm mình tức là Phật. Song phải là tâm lặng lẽ hằng nhiên, chớ không phải tâm đối đãi sanh diệt. Trong thân tâm vô thường sanh diệt có tâm lặng lẽ hằng nhiên, như trong lò lửa cháy rực có hoa sen tươi thắm. Tại vì chúng ta quên tâm Phật của mình, chạy tìm Phật ở bên ngoài. Một khi chúng ta biết quay trở lại tâm mình thì sẽ thấy tâm mình tức là Phật.
IV.- KẾT THÚC
Chủ trương phục hưng Thiền tông đời Trần là để nâng cao giá trị của đạo Phật. PG Việt Nam với những đặc thù: từ bi, bác ái, giải thoát, nhưng không tiêu cực, bi quan, yếm thế, mà tích cực góp phần xây dựng xã hội, bảo vệ đất nước. Với tinh thần bao dung, Thiền sẽ đoàn kết với các hệ phái và tôn giáo bạn nhằm đem đến sự an lạc, hạnh phúc, đạo đức và mở sáng trí tuệ cho mọi người. Với tinh thần nhân bản của PG, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh bình đẳng, nên không phân biệt sang hèn, văn minh hay lạc hậu; thấu suốt lẽ đó, vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân để xây dựng nền hòa bình lâu dài cho hai dân tộc Việt-Chiêm, để "chúng sanh" thoát khỏi nạn binh đao. Trong tinh thần đó, Thiền tông Việt Nam góp phần kiến tạo hòa bình giữa các cộng đồng dân tộc.
Tinh thần Thiền tông Việt Nam đã được thể nghiệm qua đời Trần, là hướng đi thích hợp của PG Việt Nam hiện tại và tương lai; bởi vì bao giờ con người còn vô minh, còn khổ đau, thì còn cần phải xoay lại mình, tìm hiểu chính mình, thấy biết rõ mình để tu sửa thân tâm, đưa cái tâm đảo điên trở về trạng thái thanh tịnh hằng nhiên, để chấm dứt khổ đau, thấy được chân lý của cuộc đời, tiến đến giác ngộ giải thoát (hiện đời sáu căn không vướng mắc với sáu trần, vị lai không còn trầm luân trong cảnh khổ). Đây là cái cốt lõi của đạo Phật ; các pháp môn nguyện cầu tha lực (giống như các tôn giáo khác) cũng chỉ là phương tiện để dẫn dụ "chàng cùng tử lang thang" (không tin tâm mình là Phật) quay trở về nhà, để rồi từ từ nhận lại kho báu nhà mình. Vì nhận ra con "đường chim" này từ Phật, Tổ đã nối tiếp trao truyền, chúng tôi tạm mượn lời để diễn bày cho những người hữu duyên với nó, thấy lối về nhà, mặc dù điều này trái với tinh thần của Thiền tông...
Gửi ý kiến của bạn