Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 7

22/04/201317:07(Xem: 8826)
Phần 7

NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001

TOÀN TẬP

TÂM NHƯ TRÍ THỦ

--- o0o ---

TẬP 2

NHỮNG ĐIỀU CĂN BẢN

CHO CÁC PHẬT TỬ MỚI QUI Y TAM BẢO

(1970)

Khi đức Phật mới thành đạo, Ngài dạy:

“ Cửa vô sanh đã rộng mở

Ai có tai hãy nghe và

Dứt bỏ tà kiến mê lầm của mình ”

LỜI NÓI ĐẦU

Chúng ta đương bị mê lầm thống khổ nên chúng ta tìm đến đấng Từ bi Giác ngộ để nương tựa, hầu dứt trừ đau khổ, hưởng sự an vui. Đức Phật dạy ai chí thành qui y Phật, Pháp, Tăng sẽ khỏi đọa vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và các nơi tà kiến hung ác.

Phàm mỗi khi làm lễ qui y, người Phật tử đều được Bổn sư truyền cho phép Tam qui, Ngũ giới và những điều căn bản khác.

Nhưng làm sao trong một lần mà người nghe có thể thu nhận và nhớ kỹ tất cả những điều mà bổn sư đã nói. Nó cần được nghe, được nói, hoặc đọc đi đọc lại nhiều lần mới có thể không quên.

Vả lại trong đời sống thường nhật, phần đông các Phật tử phải lăn lộn nhiều, vất vả lắm trên địa hạt sinh nhai, không rảnh thời giờ để học hỏi hết những điều mình cần phải học, phải làm cho đúng với tư cách một tín đồ đạo Phật.

Nên ở đây chúng tôi soạn ra tập tài liệu nầy gọi là Những điều căn bản cho các Phật tử mới qui y Tam Bảo để giúp có một sự hiểu biết căn bản khả dĩ hướng dẫn bước tu tiến, không đi sai với mục đích của Đạo.

Chúng tôi mong tập tài liệu này được phổ biến sâu rộng trong mọi tầng lớp Phật tử tại gia. Vậy yêu cầu quý vị cho truyền bá đến tận nơi các Phật tử chưa có để họ được học và thực hành.

Đó là điều lợi ích chung mà chúng tôi hằng mong muốn.

Nguyện sanh cực lạc cảnh phương Tây

Chín phẩm liên hoa là cha mẹ

Hoa nở thấy Phật, chứng vô sanh

Bồ tát bất thối làm bạn lữ.

I. SƠ LƯỢC VỀ MỤC ĐÍCH THỊ HIỆN CỦA ĐỨC PHẬT

Đức Phật xuất hiện nơi thế gian này không phải vì danh, vì lợi, cũng không phải để ngồi trên ngai vàng mà cai trị bốn châu thiên hạ. Mà với mục đích làm cho chúng sanh đều được giải thoát vòng sanh tử luân hồi đau khổ, giác ngộ như Ngài.

Trong kinh Pháp hoa đãnói: “Như Lai xuất hiện nơi thế gian này với mục đích làm chochúng sanh khai, thị, ngộ, nhậpPhật tri kiến”. Nhưng vì chúng sanh căn cơ cao thấp không đồng cho nên giáo pháp của ngài chia ra từng bực khác nhau mà bước đầu và căn bản là Tam qui, Ngũ giới: tam qui để tạo lòng chánh tín, ngũ giới tạo đức hạnh tốt lành; từ đó mà tiến dần lên bước đường tu học đưa đến niết bàn giải thoát.

II. SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI THI HIỆN CỦA ĐỨC PHẬT

Đức Giáo chủ của đạo Phật chúng ta là đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Trong vô lượng kiếp về trước Ngài cũng là một chúng sanh như ta. Nhưng Ngài đã sớm giác ngộ nỗi khổ đau của chúng sanh, nên Ngài đã thành Phật.

Trong kiếp hiện tại, vì muốn cứu vớt chúng sanh ra khỏi biển khổ sanh tử cho nên cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm (nhằm năm 624 trước Tây lịch), Ngài đã giáng sanh làm vị thái tử tên là Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da nước Ca-tỳ-la-vệ thuộc Bắc Ấn Độ.

Lúc còn làm thái tử, Ngài thông minh đỉnh ngộ, tài trí hơn người; hiếu, đức đầy đủ. Ngài rất được vua cha cùng tất cả mọi người thương mến và cung cấp cho đủ mọi thứ sung sướng trong đời. Nhưng mục đích xuất thế không phải để hưởng sự sung sướng vật chất. Cho nên, Ngài đã từ bỏ những vinh hoa phú quí của cuộc đời vương giả, vượt thành, xuất gia tìm đạo Giác ngộ.

Qua sáu năm khổ hạnh thực hành đủ các pháp tu, sau rốt, với 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc Bồ-đề, Ngài đã chứng ngộ và thành Phật.

Sau khi giác ngộ, Ngài đi khắp nơi trong xứ Aán Độ để thuyết pháp độ sanh. Số người được độ bởi giáo pháp của Ngài nhiều không thể kể xiết. Năm 80 tuổi, cơ duyên độ sanh viên mãn, Ngài nhập niết-bàn nơi rừng ta-la song thọ xứ Câu-thi-na.

Hôm nay nhờ chút duyên lành, chúng ta được gội nhuần trong biển pháp của Phật, biết đường lối tu tập để cầu thoát khổ. Vậy chúng ta phải cố gắng tu tập hơn và đem hết năng lực để hộ trì chánh pháp, hầu mong đền đáp công ơn cao dày của Ngài.

III. TAM QUI

Tam qui là gì? Là qui y Tam Bảo. Tức là qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng.

Phật là đấng giác ngộ hoàn toàn, phước, trí đầy đủ , bên trong không bị các phiền não hoặc nghiệp làm rối loạn, bên ngoài không bị hoàn cảnh thuận, nghịch , làm trở ngại. Được tự tại giải thoát.

Pháp là giáo thuyết vô thượng của Phật. Nghĩa là những phương thức, đường lối Phật nói ra cho chúng ta tu tập để được giác ngộ và giải thoát như Ngài.

Tăng là những vị xuất gia chân chính, luôn luôn y theo giáo pháp của Phật mà tu tập, đồng thời đem giáo pháp ấy truyền bá trong nhân gian, hầu mong tất cả mọi người đều được giác ngộ.

Phật, Pháp, Tăng (tam bảo) có đủ công năng tự giác ngộ và giác ngộ cho tất cả mọi người như thế, nên chúng ta cần phải chí thành qui y.

Chữ qui y có nghĩa là quay về để nương tựa. Ví như đứa con dại từ lâu xa cha mẹ đi lưu lạc xứ người, hôm nay tự thấy đời mình bơ vơ đau khổ, hồi tâm trở về nương tựa cha mẹ để được sự nuôi nấng an ủi.

Qui y còn có nghĩa bỏ trái trở về phải, bỏ ác trở về thiện. Xoay mê mờ trở về giác ngộ, ngược chiều sanh tử khổ đau xoay về niết-bàn an lạc.

Nhưng muốn cho việc tu hành của mình có kết quả thiết thực, người Phật tử cần phải chí tâm và duy nhất về sự qui y. Nghĩa là:

- Sau khi qui y Phật rồi, không qui y thiên, thần, quỷ, vật. Bởi những vị ấy còn là chúng sanh ở trong tam giới, vẫn bị sanh tử luân hồi, chưa được hoàn toàn giải thoát như Phật.

- Sau khi qui y Pháp rồi, không qui y ngoại đạo tà giáo. Vì những giáo thuyết ấy chưa được chu toàn hướng dẫn đến chỗ giác ngộ hoàn hảo.

- Sau khi qui y Tăng rồi, không qui y thầy tà bạn ác. Vì những người ấy thường đem lại cho ta những suy tưởng lỗi lầm dẫn đến đau khổ cho cuộc sống.

Vậy các Phật tử nên thận trọng và chín chắn trong vấn đề qui y này.

IV. NGŨ GIỚI

Ngũ giới là năm cấm giới của Phật .

Người Phật tử tại gia sau khi lãnh thọ pháp Tam qui rồi cần phải tiếp thọ năm cấm giới . Năm cấm giới này do Phật thân chế ra với mục đích là ngăn ngừa những lời nói và hành động bất thiện, phi pháp của chúng ta . Nó là căn bản để làm người, mà cũng là bước thang đầu tiên để chúng ta hoàn thành đạo quả vô thượng Bồ-đề.

Năm cấm giới ấy là:

1./Không sát sanh, hại vật.- Tất cả các sanh vật đều tham sống sợ chết, biết đau khổ, lo buồn như ta. Để dứt oan nghiệp vay trả nhiều đời nhiều kiếp và để trau dồi lòng từ bi đối với tất cả sanh vật cho nên chúng ta không sát hại.

2./ Không trộm cướp lường gạt.- Tất cả của cải mọi người đều do lao tâm nhọc sức làm ra mới có. Để cho họ yên vui sung sướng hưởng lấy của ấy và để khỏi chịu cảnh rượt bắt truy lùng kiếp này hoặc quả báo làm thân tôi mọi kéo cày mang nặng nhiều đời kiếp về sau, chúng ta không đem tâm trộm cướp.

3./ Không tà dâm bất chính.- Để tránh cảnh nhà tan cửa nát trong xã hội, để xây dựng êm đẹp hạnh phúc của gia đình, và để giảm bớt cội rễ sanh tử khổ đau cho nên chúng ta không tà dâm bất chính.

4./ Không nói dối.- Muốn cho tất cả mọi người đều sống an vui tin cẩn, hòa thuận, không có sự thù hiềm ganh ghét và hãm hại lẫn nhau, chúng ta không nói lời láo xược, không nói lời đâm thọc, không nói lời thêu dệt và không nói lời hung dữ.

5./ Không uống rượu.- Người rượu chè say sưa thì mất hết giống trí tuệ. Đạo nghiệp không bao giờ thành mà phải đọa vào địa ngục tối tăm đau khổ. Chúng ta muốn cho đạo nghiệp mau thành, trí huệ chóng khai phát cho nên chúng ta không rượu chè say sưa.

Trong năm cấm giới này, người Phật tử tại gia khi làm lễ qui y có thể lãnh thọ bao nhiêu và giới nào, tùy khả năng mà phát nguyện. Nhưng khi đã lãnh thọ thì dù có tan mất thân mạng cũng quyết không hũy phạm. Vì nó là thuyền đưa ta đến chỗ giải thoát. Ví như người qua biển, khi chưa đến bến thì quyết không rời thuyền.

Tam qui và Ngũ giới là nền móng căn bản cho sự tu trì của người Phật tử tại gia. Ngoài ra còn cần phải có những trợ duyên thiết yếu giúp cho công hạnh tu trì chóng đến kết quả. Những trợ duyên thiết yếu đó như dưới đây.

V. ĂN CHAY

Aên chay là ăn những rau trái dưa đậu mà không ăn thịt, cá, tôm, cua v.v... Vì ăn thịt, cá, tôm, cua ... tất nhiên phải làm tổn hại sinh mạng của chúng. Như ta đã biết tất cả chúng sanh đều tham sống sợ chết, cũng thích sung sướng và sợ đau khổ. Vì thế người Phật tử thể theo lòng từ bi của đức Phật, không nỡ giết hại chúng sanh để nuôi sống thân mạng mình.

Tùy theo khả năng và sự phát nguyện, chúng ta có thể ăn những trai kỳ như sau: Mỗi tháng ăn chay

Hai ngày(nhị trai)- Mồng một và Rằm

Bốn ngày (tứ trai)- Ba mươi, mồng một, 14 và rằm

Sáu ngày(lục trai)- Mồng một, 14, rằm, 18, 23 và 30

Mười ngày(thập trai)- Mồng một, mồng tám, 14, rằm, 18, 23, 24, 28, 29và 30

Mỗi năm ăn chay ba tháng(tam nguyệt trai) - tháng Giêng, Năm và tháng Bảy

Hoặcăn chay những ngày vía Phậtăn chay trườngnhư các vị xuất gia thì càng quý.

Nên NhớNhững ngày ăn chay thì chúng ta bặt không nghĩ đến chuyện cá, thịt. Nếu làm thêm được những việc thiện như bố thí, phóng sanh thì phước biết chừng nào.

VI. NIỆM PHẬT

Niệm Phật là nhớ nghĩ đến đức Phật. Nhớ nghĩ đến các đức tính từ bi, trí huệ và giải thoát. Nhớ nghĩ đến các đức tướng thanh tịnh trang nghiêm không ai sánh bằng. Nhớ nghĩ đến các công hạnh tự lợi, lợi tha hoàn toàn viên mãn của Phật. Hầu đem áp dụng vào cuộc sống của mình và mọi người cho được hữu ích; mong tất cả đều giải thoát và giác ngộ như Phật. Đây là một pháp môn trong muôn ngàn pháp môn mà Phật đã nói ra cho hàng Phật tử tu tập.

Niệm Phật có nhiều cách. Như nhớ nghĩ hình dung đức tánh hoặc nhẫm đọc danh hiệu Phật.

Trong kinh Di Đà, đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni có dạy: “Cách mười muôn ức cõi Phật về phương Tây có thế giới tên làCực Lạc và hiện thời có đức Phật tên là A Di Đà đang thuyết pháp độ sanh ... Nếu có chúng sanh nào nghe lời nói này đem lòng tin chắc, phát nguyện muốn vãng sanh về nước Ngài và đồng thời hàng ngày chí thiết chấp trì danh hiệu của Ngài đến chỗ nhất tâm bất loạn thì sau khi lâm chung sẽ được vãng sanh về nước Ngài.

Nhưng tại sao chúng ta lại mong được vãng sanh về Thế giới cực lạc của đức Phật A Di Đà?

Vì ở thế giới đó không có sự khổ sanh, già, bệnh, chết và những nỗi thống khổ như thế giới mà chúng ta đang sống đây. Trái lại chỉ thuần những sự an vui tự tại, luôn được gần gũi các vị Bồ tát và luôn được nghe Pháp âm của Phật. Mau thành đạo, chứng quả. Vì thế nên chúng ta tha thiết mong muốn được vãng sanh về Thế giới cực lạc của Ngài.

Về phương thức thực hành thì tùy theo hoàn cảnh và khả năng từng người. Như người không có nhiều thời gian rảnh rỗi, nên mỗi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng lúc thức dậy, thực hành theo phương pháp “Mười niệm” của ngài Từ Vân Sám Chủ sau đây: Trước bàn thờ Phật kính lễ ba lạy, tụng một bài kinh ngắn rồi lấy hơi dài chí tâm niệm “Nam mô A Di Đà Phật” không luận bao nhiêu câu, cứ mãn một hơi là một niệm, mười hơi là mười niệm. Kế thiết tha hồi hướng cầu vãng sanh Cực lạc. Rồi lễ Phật màlui ra. Nếu ở chỗ không có thờ Phật thì quay mặt về hướng Tây cung kính xá rồi niệm và phát nguyện như trên. Trong lúc niệm phải buộc tâm nghe rõ tiếng niệm của mình không cho tán loạn. Hoặc người có thì giờ rỗi rãi thì niệm nhiều hơn tùy số mình định nhưng phải giữ cho thường, không nên bữa niệm bữa nghỉ.

Ngoài ra thường ngày, lúc đi đứng nằm ngồi hoặc làm việc, đi chơi, lúc nào cũng có thể thầm niệm; không nghĩ đến những chuyện xằng bậy khác. Niệm như vậy lâu dần, tịnh niệm nối luôn, vọng niệm tiêu trừ. Khi còn sống luôn tưởng niệm đến Phật thì tâm an ổn, được Phật hộ trì và lúc chết quyết được vãng sanh về thế giới cực lạc của Ngài.

VII. SÁM HỐI

Tất cả chúng ta từ hồi nào đến giờ vì mê lầm, không nhận rõ lý chân thật của các pháp nên đã gầy tạo vô lượng tội ác. Do đó, chúng ta bị sanh tử luân hồi chịu không biết bao nhiêu là đau khổ. Ngày nay muốn tiêu trừ tất cả tội ác mà chúng ta đã gầy tạo thì cần phải chí thành sám hối. Sám hối có nghĩa là ăn năn tất cả tội ác đã gây ra từ trước và nguyện từ nay về sau không gây tạo thêm nữa. Nếu y theo nghĩa nầy mà sám hối thì bao nhiêu tội ác bất luận nặng hay nhẹ đều có thể tiêu tan hết. Cũng ví như trong một căn nhà tối không biết bao lâu, nhưng khi đem vào một cây đèn sáng thì sự tối tăm ấy đều tiêu hết.

Phương pháp sám hối có nhiều. Nay nói phương pháp thông dụng nhất là “tác pháp sám hối”: Mỗi tháng vào tối 14 và 30 ở các chùa hoặc niệm Phật đường, chư tăng cùng tín đồ tập họp đông đủ trước Tam Bảo chí thành lễ hồng danh các đức Phật để cầu xin sám hối. Đó là thực hành “tác pháp sám hối”. Những ngày đó chúng ta nên về chùa mà cùng nhau chí thành sám hối.

Nhưng nên nhớ rằng đã sám hối như vậy thì từ ngày ấy về sau cần phải luôn giữ gìn ba nghiệp thân, miệng và ý không gây tạo lỗi lầm. Có như vậy, bao nhiêu tội từ trước mới tiêu trừ.

Phương pháp giữ gìn không tạo ba nghiệp tội thân, miệng, ý, không gì hơn là không hủy phạm năm giới cấm Phật dạy.

VIII. THỜ PHẬT

Tượng Phật ngự trị tại nhà để nhớ Phật tại tâm. Chúng ta ra vào hàng ngày chiêm ngưỡng để noi theo và luôn luyện tập những đức tánh cao quí sáng chói muôn thuở của Ngài như Từ bi, Hỷ xả, Hùng lực, Bình đẳng, Thanh tịnh, Trí huệ ...

Thờ Phật là thờ chân lý cao siêu tuyệt diệu. Không gì quí hơn có Phật ngự trị trong nhà.

IV. LẠY PHẬT

Đức Phật đã trải qua vô lượng kiếp tu hành, phước đức cao dày vô biên vô tận. Chúng ta lạy Phật sẽ được hằng sa phước đức, diệt trừ các phiền não nghiệp chướng. Lạy Phật để sửa mình, phục thiện, dẹp bỏ tánh cống cao ngã mạn. Lạy Phật để tỏ lòng tri ân sâu xa của mình đối với đấng cha lành đã cứu độ biết bao sanh linh ra khỏi trầm luân khổ hải.

X. CÚNG PHẬT

Hằng ngày chúng ta đốt một nén hương, dâng một cành hoa cúng Phật để tỏ lòng thành kính tri ân. Như thế, chúng ta sẽ tạo được phước đức trong hiện tại và ngày mai. Cúng Phật cần nhất là phải thành tâm. Câu chuyện cậu bé cúng đất sét cho Phật, bà già cúng đèn, người hành khất cúng muối ... đã chứng tỏ rằng với lòng thành thì vật nhỏ mọn cũng trở thành quí giá.

XI. TỤNG KINH

Tụng kinh để hiểu và nhớ lời Phật dạy, để ba nghiệp được thanh tịnh, thâu nhiếp vọng tâm, sanh định và phát huệ. Aên uống để nuôi dưỡng cơ thể như thế nào thì tụng kinh để nuôi dưỡng tâm thần cũng cần thiết như thế. Phải tụng đọc rõ ràng, trang nghiêm và đúng đắn.

XII. BỔN PHẬN CỦA MỘT PHẬT TỬ TẠI GIA

Người Phật tử sau khi qui y Tam bảo rồi muốn xứng đáng mình là một Phật tử chân chính, cần phải nhận thức và thực hiện đúng với bổn phận của mình trên mấy phương diện sau đây:

a/ -Đối với Tam bảo.- Phải có lòng tin Tam bảo đúng với ý nghĩa chân chính của nó và tin một cách vững chắc. Không để cho một thử thách cam go nào làm dao động. Không bao giờ làm điều gì có phương hại đến Tam bảo. Nhiệt tâm hộ trì và truyền bá chánh pháp. Nhất là ủng hộ các bậc xuất gia chân chính thực tâm tu học và hoằng dương đạo pháp.

b/ - Đối với xã hội.-Dựa trên tinh thần từ bi và bình đẳng của đức Phật hết lòng phục vụ và xây dựng xã hội, làm cho cuộc sống giữa xã hội trở nên yên vui hòa hợp, không có sự tranh giành, ganh ghét hãm hại lẫn nhau.

c/ - Đối với gia đình.- Phải hiếu thảo với cha mẹ. Hòa thuận vợ chồng, anh em họ hàng thân thích ... Làm thế nào cho tất cả mọi người trong gia đình đều trở về với tam bảo và xây dựng gia đình trên nền tảng Phật hóa.

d/ -Đối với bản thân.- Tinh tấn tu học đúng theo giáo pháp Phật dạy. Bỏ dần dục vọng, ích kỷ. Tập sống cuộc đời rộng rãi, giải thoát. Luôn luôn làm những điều lợi mình lợi người. Tin đúng nhân quả. Nhận rõ tất cả sự vật đều vô thường để không sanh tâm tham đắm. hướng cuộc đời đi đúng vào con đường giác ngộ.

VÀI CHI TIẾT CẦN BIẾT

Ý nghĩa lá phái.- Lá phái là vật để đánh dấu và tiêu biểu nhắc nhở trên bước đường tu tập của mình. Đem lá phái về, chúng ta nên treo ở một nơi nào dễ thấy. Hằng ngày nên nhìn đến nó và luôn luôn nhớ rằng năm ấy tháng ấy ngày ấy, chúng ta đã đến chùa ấy, cầu thầy ấy truyền cho Tam qui, Ngũ giới, pháp danh là gì.

Luôn luôn nhớ rõ pháp Tam qui Ngũ giới như trong phái đã dạy, để y theo đó mà tu trì. Có như vậy thời thiện căn mỗi ngày mỗi tăng trưởng, sẽ hưởng phước lạc an lành. Không phải việc gói cất kỹ đợi khi chết ép đem theo.

Bổn phận, tư cách đối với bổn sư và nơi mình đã đến qui y.- Sau khi qui y rồi, chúng ta nên xem vị Bổn sư là người thay mặt đức Phật và chúng Tăng truyền tam qui ngũ giới cho ta. Nơi đã đến qui y như là từ đường của chúng ta. Chúng ta nên thường về chùa để được gần gũi bổn sư, gần gũi các thầy mà học hỏi giáo lý. Có điều gì sai lầm nên về sám hối trước bổn sư và cầu xin chỉ dạy. Nên xem chúng ta là người con trong gia đình, người con của thầy, phải hết lòng cung kính và giúp đỡ các thầy về mọi phương diện.

Tư cách khi gặp các vị tăng già.- Tăng già là tiếng chỉ chung cho các bậc xuất gia chân chính, tức là ngôi Tăng Bảo mà mình đã qui y. Cho nên bất cứ ở một nơi nào khi gặp vị xuất gia, chúng ta phải cung kính chấp tay chào hỏi, xem như vị bổn sư của mình. Lúc đến chùa phải giữ trang nghiêm thanh tịnh. Đối với mọi người phải giữ lễ độ. Không mặc cảm tự tôn hoặc tự ty mà luôn tỏ thái độ xứng đáng mình là đệ tử của đấng Đại từ Đại bi Đại giác ngộ.

NGHI THỨC QUI GIỚI

LỜI NÓI ĐẦU

Từ khi đức Bổn sư truyền thọ pháp Tam qui ngũ giới cho trưởng giả Đề vị, người đệ tử Ưu bà tắc đầu tiên trong hàng đệ tử tại gia của đức Phật; lấy đó làm điển hình, về sau giáo pháp truyền đến đâu cũng đều dùng tiếng bản xứ (thổ âm) để truyền thọ cho hàng đệ tử tại gia. Cốt người truyền, người thọ, người nói, người nghe phải hiểu biết nhau thì giới thể mới thành tựu.

Ở Trung Hoa, Việt Nam, các vị Tổ sư y luật qui định thành nghi thức riêng cho lễ Qui Giới bằng Hán văn (Các bổn hoằng giới). Đến nay, ở nước ta Hán văn không còn người hiểu biết, mà nghi thức truyền qui giới, các vị giới sư cứ y theo vần mà đọc, giới tử chẳng hiểu nói gì; có vị làm một cách quá đơn giản, đơn giản đến nỗi chỉ đọc một cái sớ và truyền cái phái qui y bằng Hán văn y như một lễ cúng khác.

Cái việc làm mà không hiểu, đương nhiên không tránh khỏi tệ. Vấp vào hai lỗi rất lớn:

Một là việc truyền thọ không đúng chánh pháp. Nghĩa là người truyền và người thọ không hiểu gì nhau. Đức Phật dạy: ‘Người thọ giới không hiểu giới, thì truyền và thọ gì cũng bất thành cả.’

Hai là làm cho Phật pháp suy đồi. Vì làm không đúng chánh pháp nên tín đồ chẳng hiểu bổn phận của mình là phải làm gì cho mình và cho đạo.

Chúng ta cần chú ý: Nền móng không chắc thì lâu đài sụp đổ. Tam qui ngũ giới là nền móng của tất cả hàng đệ tử Phật, bất luận tại gia hay xuất gia; nếu bước đầu sai lạc thì đừng mong đạt đến đích tốt đẹp!

Từ lâu Tổng trị sự chúng tôi thấy cần phải ấn hành một nghi thức bằng Việt văn để chư tăng có thể theo đấy mà làm lễ qui giới cho tín đồ.

Ủy viên nghi lễ là Thầy Thích Trí Thủ của Giáo hội tăng già Trung Việt đã nghiên cứu các bản tuyên giới Hán văn mà soạn cuốn Nghi thức này, ngoài việc truyền Tam qui ngũ giới, còn có nghi truyền thọ Bát quan trai, lịch sử đức Phật và ý nghĩa của qui giới để hướng dẫn tín đồ hiểu đức Phật và biết bổn phận người tại gia. Bài ‘Pháp trưởng tịnh cho tại gia’ là cách bố tát cho hàng tại gia nửa tháng một lần như lễ bố tát của chư tăng vậy.

Tóm lại Tổng trị sự muốn chư Tăng truyền thọ giới pháp được thống nhất, nhất là không sai chánh pháp, làm cho tín đồ hiểu biết bổn phận. Rạch ròi đời sống mê mờ (khi chưa qui y), sống theo đời sống giác ngộ (sau khi đã qui y), để có thể tiến mạnh trên đường đạo, khả dĩ xứng đáng làm người trong loài người và xứng đáng làm đệ tử Phật.

Tổng trị sự rất mong chư Tăng vì nhiệm vụ hoằng truyền đạo pháp mà thiết tha với các việc truyền thọ giới pháp được rành mạch, làm cho Phật pháp được tái chỉnh, Tăng bảo được có thành quách ngoại hộ kiên cố, thì lo gì thiên ma ngoại đạo không kính phục, chánh pháp không được trường tồn, để lợi lạc cho chúng sanh?

Ấy là lòng tha thiết cầu nguyện của Tổng trị sự.

NAM MÔ HỘ PHÁP VI ĐÀ TÔN THIÊN BỒ TÁT

Tổng trị sự Giáo hội Tăng già Trung Việt.

BA PHÁP QUI Y

Ba pháp qui y là qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng.

Phật là vị đã hiểu biết tất cả những điều cần phải hiểu biết, đã dứt trừ tất cả những điều cần phải dứt trừ và đủ năng lực làm tất cả những điều cần phải làm. Nói tóm, Phật là một đấng đã giác ngộ, đầy đủ vô lượng phước đức và trí huệ nên gọi là Lưỡng Túc tôn.

Pháp là giáo lý phân tích rõ ràng sự khổ não, vạch rõ nguyên nhân của khổ não và đề ra phương pháp diệt trừ nguyên nhân ấy. Nói tóm, Pháp là phương pháp để diệt khổ, nên gọi là Ly dục tôn.

Tăng là đoàn thể thoát ly tất cả những gì của mình, trên thì cầu được sự giác ngộ vô thượng và dưới thì phục vụ tất cả sanh linh. Nói tóm, Tăng là đoàn thể hành trì chánh pháp, gọi là Chúng trung tôn.

Qui y nghĩa là quay đờisống trái chân lý của mình lại mà sống theo Phật Pháp Tăng như trên. Khi đã qui y Phât rồi thì không được theo trời đất quỉ thần; qui y Pháp rồi thì không được theo lý thuyết sai lạc; qui y Tăng rồi thì không được theo phe phái độc ác.

Như vậy, người nào qui y Phật Pháp Tăng rồi và qui y một cách duy nhất thì người đó là con của Phật, gọi là Phật tử.

NĂM ĐIỀU GIỚI CẤM

Năm điều giới cấm là không được sát sinh, không được trộm cướp, không được tà dâm, không được nói dối trá và không được rượu chè.

Không được sát sinh là không được tàn sát một cách vô lý; không được trộm cướp là không được gian giảo bóc lột; không được tà dâm, là không phóng đãng; không được nói dối trá là không được lừa đảo; không được rượu chè là không được say sưa.

Bản tánh của con người vốn thanh tịnh. Bản tánh của xã hội vốn bình đẳng. Nguyên nhân làm cho con người tội lỗi và làm cho xã hội bất bình đẳng là vì sát sanh, trộm cướp, tà dâm, dối trá và rượu chè. Nên năm giới cấm của Phật chính là điều kiện để cải tạo một con người tốt và một xã hội hoàn mỹ. Vì lẽ đó, người Phật tử đã qui y rồi thì gắng sức mà thọ trì năm cấm giới này. Nếu hoàn cảnh không thể thọ trì được cả năm giới thì lựa lấy mà thọ trì từ hai cho đến bốn trong năm giới đó.

NGHI THỨC QUI Y

A. TÁN LỄ TAM BẢO

1. Niệm hương bạch Phật

2. Tán hương cúng dường

3. Tụng chú Đại bi

4. Tán dương tam bảo.

B. GIỚI TỬ ĐẢNH LỄ

Nhất tâm đảnh lễ Thập phương thường trụ Tam bảo.

Nhất tâm đảnh lễ Ta bà giáo chủ Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Thập phương thanh tịnh đại hải Chúng Bồ tát.

Nhất tâm đảnh lễ Linh sơn hội thượng vô lượng Thánh hiền.

Nhất tâm đảnh lễ Hộ giáo chư vị Thiện thần, Tây thiên Đông độ lịch đại Tổ sư.

(Mỗi hiệu ba lạy, lạy xong quỳ xuống chấp tay.)

C. THỌ PHÁP TAM QUI

1. GIỚI SƯ KHAI THỊ.

Phật tử, các ngươi hãy lắng nghe: Đời là bể khổ mênh mông không bờ bến. Nếu không có đấng Chí tôn (Phật) đủ vô lượng công đức và trí huệ thì chúng ta chẳng biết nương vào đâu để cầu thoát khổ. Vậy các ngươi muốn thoát bể khổ, phải qui kính Tam bảo; muốn thoát khỏi luân hồi nên giữ gìn giới pháp.

Phật Pháp Tăng là thuyền từ qua bể khổ, là ánh sáng của đêm trường, là đường đi đến nhân thiên, là bước đầu tiên của đạo quả. Cho nên kinh dạy: ‘Nếu chúng sanh nào muốn trừ khổ não, hưởng quả yên vui, thì nên qui y Tam bảo; nếu ai đem tâm thanh tịnh qui kính trong giây phút thì đời đời thế nào cũng được niết bàn an lạc.’

Qui y là gì? Là tôn thờ, vâng theo hay quay về. Tôn thờ ngôi Tam bảo, vâng theo lời chỉ giáo và quay về với tâm thanh tịnh của chúng ta. Thầy khuyên các người trước phải nhận lãnh Tam qui, sau nên thọ trì ngũ giới.

Tam qui là qui y với Phật, Pháp và Tăng. Phật là đấng đã giác ngộ hoàn toàn. Chúng sanh mê lầm trong bể sanh tử, không biết tự giác; đức Phật giác ngộ tất cả đều vô thường, chứng được đạo niết bàn nên gọi là Giác giả. Đức Phật trong hiện tại là đức Thích ca Mâu ni đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, là đạo sư cả ba cõi, cha lành của muôn loài, trí huệ vô lượng, phước đức cao cả!

Pháp là đạo pháp chơn chính. Nghĩa là những phương pháp Phật đã dạy, nếu ai tin tưởng tu hành sẽ được trừ hết phiền não, chứng quả yên vui thanh tịnh như Phật.

Tăng là chúng hòa hợp thanh tịnh, xuất gia đệ tử Phật, hiến đời mình cho đạo, tuân theo kinh luật mà tu trì, làm ruộng phước cho nhân thiên, làm gương lành cho muôn loài.

Tam bảo có đủ công đức như thế. Cho nên Phật Pháp Tăng là ba ngôi quí báu nhất của thế gian và xuất thế gian. Nếu người nào phát tâm qui y thì không đọa vào ba đường dữ, luôn gặp Phật, mau chứng quả bồ đề. Nay các người đã có duyên lành biết qui y Tam bảo, nên vận hết thành tâm và phải nghĩ là khó gặp, chăm chú để nghe lời chỉ giáo. Bây giờ các người hãy nói theo đây:

3. PHÁT NGUYỆN QUI Y.

(Phật dạy: Người qui y nếu tự mình không đọc Tam qui và không xưng tên họ thì qui y bất thành. Trong khi đọc, thầy đọc trước giới tử đọc sau, không được đọc một lần.)

Đệ tử chúng con (xưng tên) nguyện suốt đời qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. (Đọc ba lần, xá ba xá.)

Đệ tử chúng con nguyệnđã qui y Phật, đã qui y Pháp, đã qui y Tăng. (Đọc ba lần, xá ba xá.)

4. GIỚI SƯ KHUYÊN BẢO .

Phật tử, các ngươi đã qui y Phật rồi, từ nay phải tôn Phật làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không qui y với trời, thần, quỷ, vật vì những kẻ ấy là phàm phu còn quanh quẩn trong ba cõi, không đầy đủ trí huệ như Phật là đấng đã giải thoát vòng sanh tử của thế gian.

Qui y Pháp rồi, từ nay về sau phải tôn Pháp làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không qui y với ngoại đạo tà giáo vì những đạo pháp ấy không phải là những phương pháp xuất thế, có thể làm cho chúng ta thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi được.

Qui y Tăng rồi, từ nay về sau phải tôn Tăng làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không qui y với bè đảng xấu ác vì những người ấy không thể so với hàng đệ tử Phật đã tu chứng Tam thừa, Tứ quả.

Giờ đây các người đã chân thành qui y, sẽ được Tam bảo luôn luôn cứu hộ, hiện tại chắc chắn yên vui, tương lai sẽ được sinh về Cực lạc. Tam bảo đã có công năng như thế, các ngươi nên đêm ngày tưởng nhớ thì quyết chứng được quả bồ đề vô thượng. Vậy các ngươi hãy đọc theo thầy những lời thề nguyện:

Đệ tử đã qui y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không qui y trời, thần, quỷ, vật.

Đệ tử đã qui y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không qui y ngoại đạo tà giáo.

Đệ tử đã qui y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không qui y bè đảng xấu ác.

(Theo luật thì: bước đầu tiên của một người phát tâm theo Phật, trước phải thọ tam qui sau mới thọ ngũ giới. Nếu người nào vì hoàn cảnh chưa thọ giới được thì nên thọ tam qui mà thôi. Nếu chỉ thọ tam qui thì đến đây là lễ thọ tam qui đã xong, giới sư nên thêm vài lời khuyến khích và hồi hướng là rồi lễ.)

D. THỌ PHÁP NGŨ GIỚI

1. GIỚI SƯ KHAI THỊ

Phật tử ! Các ngươi đã lãnh thọ pháp tam qui, bây giờ thầy sẽ trao cho năm giới. Năm giới này là căn bản để làm người, là nền tảng của giới Sa di, Tỳ kheo, Bồ tát, cho đến đạo quả vô thượng Bồ đề. Ví như muốn xây lầu bốn tầng, chúng ta phải bồi đắp nền móng; muốn trải qua đường muôn dặm, chúng ta phải khởi hành từ bước đầu tiên. Chư Phật đạt đến mục đích Đạo quả viên mãn, đều đã nương vào giới pháp nầy.

Giờ đây, các ngươi muốn được lợi ích thiết thực quyết nên thọ trì giới pháp.

Nhưng muốn thọ trì giới pháp, trước hết phải sám hối những tội lỗi đã chất chứa từ lâu, để cho thân tâm được trong sạch, thì sự lãnh thọ giới pháp mới được hoàn toàn. Bây giờ các ngươi hãy nói theo thầy để chí thành sám hối:

2. TỎ BÀY SÁM HỐI

Đệ tử chúng con, chí thành sám hối: nhiều kiếp đến giờ chưa gặp Tam bảo, chẳng biết thiện ác nhân quả, biết bao tội lỗi do thân, khẩu, ý gây nên; khi dễ Tam bảo, tạo mười ác nghiệp. Ngày nay nhờ Phật, biết sự lỗi lầm, đối trước mười phương Tam bảo tỏ bày sám hối, nguyện đều tiêu diệt.

Đệ tử gây nên các vọng nghiệp

Đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân, khẩu, ý phát sanh ra,

Đệ tử chí thành xin sám hối.

(Đọc ba lần, lạy một lạy và quỳ xuống)

3. GIỚI SƯ TRAO GIỚI.

Phật tử ! Các ngươi đã sám hối đúng pháp, bây giờ thầy sẽ trao cho năm giới pháp. Giới pháp này rất khó gặp, nếu Phật không ra đời thì không có. Giới pháp này đủ sức trừ sạch phiền não sanh tử và đưa chúng ta đến đạo quả bồ đề giải thoát. Bởi lẽ ấy, giờ đây các người muốn thoát sanh tử, cầu chứng niết bàn, nên gắng lãnh thọ giới pháp.

Lãnh giới pháp này, đàn ông thì gọi là Ưu bà tắc, đàn bà thì gọi là Ưu bà di, nghĩa là những người đã bỏ dữ làm lành, gần gũi phụng sự Tam bảo. Trong năm giới này các ngươi có thể tùy năng lực và hoàn cảnh của mình mà lãnh thọ một giới, gọi là nhất phần Ưu bà tắc (hay Ưu bà di); lãnh thọ hai giới gọi là thiểu phần; lãnh thọ ba giới gọi là bán phần; lãnh thọ bốn giới gọi là đa phần; và lãnh thọ cả năm giới gọi là mãn phần. Vậy, bây giờ các ngươi muốn lãnh thọ phần nào, giới nào, tùy theo hoàn cảnh và năng lực mình mà thọ lãnh. Nhưng phải nhớ: khi đã thọ lãnh giới nào thì dù gặp hoàn cảnh có thể mất tánh mạng, cũng thề quyết không hủy phạm. Vì sao thế? Vì giới pháp là thuyền bè đưa chúng ta ra khỏi bể khổ sanh tử luân hồi, thật là khó gặp mà thân mạng thì dễ mất, dầu có giữ gìn cho lắm rồi nó cũng sẽ mất; nếu không giữ giới thì thuyền bè bể rạc tất nhiên phải chìm đắm, khổ đau nhiều đời ! Để cầu giới pháp các người hãy nói theo thầy.

4. PHÁT NGUYỆN THỌ GIỚI

Đệ tử chúng con đã qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng, nguyện suốt đời thọ trì mãn phần (hay đa, bán, thiểu phần ... tùy nguyện) ưu bà tắc (hay ưu bà di) giới. Phật là đấng chí tôn vô thượng giác, là bậc Thế tôn của chúng con. (Đọc ba lần, xá ba xá).

Đệ tử chúng con đã qui y Phật rồi, qui y Pháp rồi, qui y Tăng rồi, nguyện suốt đời thọ trì mãn phần (hay đa, bán, thiểu phần ... tùy nguyện) ưu bà tắc (hay ưu bà di) giới. Phật là đấng chí tôn vô thượng giác, là bậc Thế tôn của chúng con. (Đọc ba lần, xá ba xá).

Thầy dạy: Phật tử ! Thầy đã trao giới pháp cho các ngươi, giới thể đã được viên toàn. Bây giờ các ngươi muốn biết giới tướng để tu trì, thầy sẽ chỉ bảo thêm, nếu giới nào giữ được thì trả lời giữ được.

1. Trọn đời không sát sanh là giới của Ưu bà tắc (hay Ưu bà di), các ngươi giữ được không?

2. Trọn đời không trộm cắp là giới của Ưu bà tắc (hay Ưu bà di), các ngươi giữ được không?

3. Trọn đời không tà dâm là giới của Ưu bà tắc (hay Ưu bà di), các ngươi giữ được không?

4. Trọn đời không nói dối là giới của Ưu bà tắc (hay Ưu bà di), các ngươi giữ được không?

5. Trọn đời không uống rượu hay dùng các chất loạn tánh tình ... là giới của Ưu bà tắc (hay Ưu bà di), các ngươi giữ được không?

Phật tử ! Các ngươi được thọ giới rồi, từ nay phải khéo giữ gìn, dù gặp nhân duyên trắc trở cũng không nên hủy phạm. Nếu ai phạm những giới trên đây, hiện tại mất hết nhân cách và nền móng tốt đẹp; tương lai phải chịu nhiều kiếp đọa đày trong cảnh giới đau khổ. Các ngươi hãy cố gắng lên !

5. GIỚI SƯ KHAI THỊ NIỆM PHẬT

Phật tử ! Các ngươi nên hiểu: chúng ta sinh nhằm đời mạt pháp chánh tà lộn xộn, ma Phật khó phân. Nếu không nhờ oai thần của Phật gia hộ, thì khó bề giữ vững đạo tâm và hoàn thành những lời thề nguyện và khó bề khỏi lạc vào đường ma lối quỷ. Cho nên các người phải chăm lòng tưởng nhớ, niệm danh hiệu Phật, nhất là Phật A Di Đà ở thế giới cực lạc phương Tây. Các người hãy nghe lời thề rộng rãi của Ngài: ‘Nếu ai niệm danh hiệu của Như lai, sẽ được Như lai hộ trì tiếp dẫn, sanh về cảnh giới của Như lai. Sanh trong hoa sen, hoa nở thấy Phật, gần gũi các vị Bồ tát, dứt hết luân hồi, mau thành chánh quả.

Vậy thời, các người hãy phát nguyện, hằng ngày chuyên tâm niệm Phật. Các người nên đọc theo lời thầy:

Nguyện sanh tịnh độ cảnh Tây phương,

Chín phẩm hoa sen làm cha mẹ,

Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh

Bất thối Bồ tát làm bè bạn.

Nam mô Tây phương thế giới Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (Đọc 3 lần, lạy 3 lạy)

6. GIỚI SƯ KHUYẾN KHÍCH.

Phật tử ! Một lần nữa, thầy nhắc lại với các người: Trên đây, các người đã phát nguyện thọ trì Tam qui và Ngũ giới. Về Tam qui các người phải luôn luôn giữ vững lòng chánh tín đối với Tam bảo, suốt đời giữ trọn lời thề và cúng dường phụng sự; không nên tin tưởng phụng thờ trời thần quỷ vật, ngoại đạo tà giáo, bạn bè phe phái tàn ác. Về Ngũ giới pháp, các người nên nhớ lời phát nguyện mà giữ gìn cho trọn vẹn, không nên vì một lẽ gì mà xao lãng lời thề nguyện và hủy phạm giới pháp để phải chịu khổ nhiều đời !

Ngoài việc qui y và thọ giới, hằng ngày các người nên cố gắng niệm Phật để cầu Phật lực gia hộ. Cũng tùy ở hoàn cảnh và khả năng, các người có thể niệm nhiều hay ít, niệm nhỏ hay lớn, cần nhất phải chí thành và tin tưởng, hằng ngày không sai.

Các người thực hành được như thế, có thể gọi là làm tròn bổn phận Phật tử tại gia. Tuy nhiên đó chỉ là phần tự lợi. Muốn được lợi tha, các người phải tận tâm hộ đạo. Tùy tài tùy sức góp của góp công, giúp đỡ vào mọi Phật sự, hoằng dương chánh pháp, cùng nhau duy trì nền chánh giáo của đức Bổn sư. Được thế mới thật xứng đáng một tín đồ trung thành với Tam bảo. Các ngươi nên cố gắng !

Đáp:Chúng con xin vâng lời. (3 lần 3 xá).

HỒI HƯỚNG TAM BẢO

1. LỄ TẠ TAM BẢO.

Nhất tâm đảnh lễ Thập phương thường trụ Tam bảo.

Nhất tâm đảnh lễ Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Truyền giới bổn sư.

Nhất tâm đảnh lễ Hộ giới chư vị đại đức.

(Mỗi hiệu 1 lạy.)

2. TRÌ TỤNG HỒI HƯỚNG.

Tụng bài: ‘Đệ tử kính lạy ... ’

3. TAM TỰ QUI.

Tự qui y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.

Tự qui y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.

Tự qui yTăng, xin nguyện chúng sanh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại.

4. PHÁT ĐIỆP VÀ XƯỚNG PHÁP DANH.

Lời dặn: Nếu muốn rút ngắn thời gian thì có thể lược qua một vài đoạn giải thích không cần lắm. Ngoài ra không thể bỏ được, vì liên quan lẫn nhau.


LỜI DẶN CẦN THIẾT
TRONG KHI PHÁT PHÁI QUI Y

1. Y như pháp thì các ngươi nay đã thành tựu một người Phật tử chơn chánh. Lá phái chẳng qua là vật để đánh dấu và tiêu biểu nhắc nhở các ngươi. Hằng ngày các ngươi nên nhìn đến lá phái mà luôn luôn nhớ rằng: Năm ấy, tháng ấy, ngày ấy, các người đã đến chùa ấy, cầu thấy ấy truyền thọ cho giới pháp Tam qui và Ngũ giới, pháp danh là gì. Có như thế thì thiện căn mỗi ngày một tăng trưởng và sẽ hưởng phước báo vô cùng.

2. Tam qui y cũng là một giới, nếu không giữ trọn thì mất. Ví dụ người đã qui y rồi mà cũng thờ cúng tín ngưỡng quỷ thần tà ma ngoại đạo hay tin theo tà thuyết của thế gian và nhập vào bè đảng tàn ác, là mất giới Tam qui. Người ấy không còn gọi là đệ tử Phật: mất hết công đức trong Phật pháp.

3. Người qui y Phật rồi, phải chánh tín nhơn quả. Vì nhơn quả là một định luật của thế gian và xuất thế gian mà đức Phật đã chứng minh một cách xác thực. Có tin nhơn quả mới tinh tấn bỏ ác làm lành, hoán cải cảnh đời xấu xa trở nên tốt đẹp. Như thế mới là chơn chính đệ tử của đức Phật.

4. Thể theo đức từ bi của đức Phật, Người Phật tử tại gia ngoài bổn phận giữ gìn giới điều mình đã lãnh thọ, cần phải phát nguyện mỗi tháng ít nhất ăn chay từ hai ngày cho tới mười ngày và các ngày vía kỷ niệm chư Phật để tỏ lòng thương xót đối với loài vật.

5. Từ ý nghĩ, nói phô cho đến hành động, ít nhất mỗi ngày phải có một việc lành, như dùng lời giáo hóa, tán thán công đức Tam bảo hoặc khuyến khích ít nhất mỗi năm cũng phải có một người noi theo mình mà qui y Tam bảo. Đây là một điều vô cùng phước đức, cần phải chú ý.

6. Không được vô tình hay hữu ý trong lúc nói phô hoặc hành động để cho người bàng quan chê bai Tam bảo, có phương hại đến danh dự của chánh pháp. Nếu sơ lỡ phải lạy Phật sám hối liền, vì đó là một điều vô cùng tội lỗi. Trái lại phải luôn luôn tìm mọi cách hộ trì chánh pháp là bổn phận tối cao của người Phật tử.

7. Phái học hiểu chánh pháp, ít nhất cũng phải biết qua tôn chỉ, mục đích của đạo Phật và đời tu hành cao quí của đức Phật. Phải thuộc làu những bài kinh thường tụng, để huân tập (tự kỷ ám thị) vô lậu nghiệp vào tâm thức.

THÀ GIỮ ĐẠO MÀ CHẾT,

HƠN LÀ MẤT ĐẠO MÀ SỐNG

BÁT QUAN TRAI GIỚI

I. Ý NGHĨA .

Mục đích của người tu theo đạo Phật là cầu giác ngộ và giải thoát. Nhưng nếu có trần sự bận rộn tâm trí, thì không thể nào đạt mục đích ấy được. Cho nên không luận đại thừa hay tiểu thừa, chỉ có một con đường duy nhất là xuất gia.

Xuất gia là thoát ly hẳn những gì bận rộn ô nhiễm, thúc phược thân lẫn tâm. Xuất gia có ba nghĩa:

1. Xuất thế tục gia (thoát ly nhà thế tục): Nghĩa là thoát ly gia đình, vợ con, chức vụ, tất cả những gì ở thế tục này.

2. Xuất tam giới gia (thoát ly nhà ba cõi): Nghĩa là phát tâm tu hành theo vô lậu nghiệp, hầu mong chứng đến quả vị tam thừa, tứ quả. Không tham cầu những phước báo sang giàu nhàn tịnh hữu lậu trong ba cõi dục, sắc và vô sắc giới.

3. Xuất phiền não gia (thoát ly nhà phiền não): Nghĩa là phát tâm hướng về quả vị vô thượng Phật đà. Đoạn sạch tất cả phiền não tham sân si mạn .v.v... Thệ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh. ‘Địa ngục chưa không, thề chẳng thành Phật’. Không tham cầu quả vị Thanh văn niết bàn tự lợi.

Quả vị cao rộng mênh mông mà đường đi chỉ có một là xuất gia. Chúng sanh vì nghiệp hạnh bất đồng, căn cơ sai khác, không thể nào ai cũng xuất gia được. Với lòng từ bi vô hạn, đức Phật muốn cho các hàng đệ tử Ngài, dù mau dù chậm, cuối cùng cũng sẽ đạt đến mục đích cứu cánh là giác ngộ và giải thoát như Ngài. Cho nên Ngài chế ra nhiều lối xuất gia như:

Đồng chơn xuất gia (xuất gia suốt đời từ khi còn nhỏ).

Bán thế xuất gia và xuất gia theo kỳ hạn phát nguyện.

Cuối cùng là xuất gia trong một ngày đêm 24 tiếng đồng hồ, tức là thực hành theo Bát quan trai giới này vậy.

Bát quan trai giới nghĩa là tám cửa trai giới. Những người tại gia trong mỗi tháng vào những ngày trai như : mồng 8, 14, 15 .v.v...bỏ tất cả những sự bận rộn ở thế tục vào chùa nhờ một thầy tỳ kheo truyền cho tám giới và một trai (1 trai tức là không ăn quá giờ ngọ) mà hành trì trong một ngày một đêm. Nếu xa chùa và không có thầy tỳ kheo thanh tịnh thì tự mình đến trước Phật sám hối tội lỗi phát nguyện thọ trì trai giới cũng được. Thọ trì trai giới này tức là đóng bít cửa ác đạo mà mở cửa nhơn thiên diệu thiện niết bàn. Nên gọi là tám cửa trai giới.

Tóm lại, đức Phật vì thương xót hàng đệ tử tại gia, nên chế ra pháp bát quan trai giới này để cho hàng tại gia tu tập theo tịnh hạnh của người xuất gia, gieo giống bồ đề vô thượng vào tâm khảm mọi hàng đệ tử, hầu tiến dần đến quả vị cứu cánh tuyệt đích của chư Phật.

Trong kinh thí dụ pháp bát quan trai giới này như ngọc bửu châu ma ni (ngọc như ý), dù nhỏ nhưng giá trị so với các thứ ngọc khác không sao sánh kịp.

II. TRUYỀN THỌ.

Cầu thầy truyền thọ.Hàng tại gia thiện tín gặp những ngày trai như mồng 8, 14, rằm ... hoặc các ngày rảnh, dẹp bỏ tất cả công việc gia đình, chức vụ, phát tâm thanh tịnh hoan hỷ, đến chùa cầu một thầy tỳ kheo thanh tịnh làm giới sư truyền giới: bắt đầu từ sáu giờ sáng nầy đến sáu giờ sáng mai là xả giới. Nếu được thời đến chùa trước một hôm để nghe thầy giảng dạy ý nghĩa tu hành; cách thức hành lễ và lạy hồng danh sám hối cho thân tâm thanh tịnh thì tốt hơn.

Giới sư sẽ theo nghi thức hành lễ như sau: a/ Niêm hương bạch Phật: Giới sư như nghi thức qui y trước mà niêm hương bạch Phật. b/ Tán Phật và c/ Lễ Phật; cũng như trước.

III. GIỚI SƯ KHAI THỊ.

Khổ hải vô biên, nếu không có thuyền từ thì không sao lên được bờ giải thoát; luân hồi mờ mịt, nếu thiếu hẳn tịnh giới thì khó mà ra khỏi cảnh tối tăm. Chính chư Phật cũng nhờ giới mà thành chánh quả. Bất luận đại thừa, tiểu thừa, thế gian hay xuất thế gian không ai là không thọ trì giới pháp mà được hưởng quả an vui. Ngặt nỗi hàng tại gia bị trần lụy đoanh vây, không thể chung thân theo dõi ! Vì thế đức Như Lai phương tiện chế ra giới pháp nầy dạy cho hàng tại gia mỗi tháng gặp ngày trai phải một ngày một đêm thọ trì. Công đức của giới bát quan trai này, nó là tịnh nhơn vô lậu hơn tất cả phước báo nhơn thiên và là con đường thẳng đến đạo quả vô thượng bồ đề.

IV. SÁM HỐI.

Các người từ vô thỉ kiềp đến nay, vì mê lầm nên thân, khẩu, ý đã tạo ra muôn ngàn tội lỗi. Giờ đây trước hết các ngươi phải phát lòng chí thành đối trước Tam bảo cầu xin sám hối, để cho thân tâm thanh tịnh, rồi sau mới thọ lãnh giới pháp.

Các ngươi hãy đọc theo đây: (giới sư đọc trước, giới tử đọc theo sau, không nên cùng đọc một lần).

Đệ tử chúng con (ai nấy đều xưng tên họ của mình) từ vô thỉ kiếp đến nay, gây nên ba nghiệp dữ, mười điều ác và các tội tà kiến. Nay đối trước mười phương Tam bảo cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu diệt. (Đọc ba lần, vái 3 vái, đứng dậy)

Nam mô Thập phương thường trụ Tam bảo. (Lạy ba lạy, quỳ xuống, đọc tiếp:)

Xưa kia con đã tạo các vọng nghiệp, đều do vô thỉ tham sân si, bởi thân khẩu ý phát gây nên, tất cả, chúng con xin sám hối.

Nam mô cầu sám hối Bồ tát ma ha tát.. (Đọc ba lần, lạy ba lạy rồi quỳ xuống)

V. THẦY KHAI THỊ TRUYỀN GIỚI .

Nầy các Phật tử ! Từ trước đến nay các người đã phát tâm chí thành sám hối, ba nghiệp đã được thanh tịnh, bắt đầu từ giờ này cho đến sáng mai phải học tập theo giới Bát quan trai. Bát quan trai là gì? Nghĩa là tám giới điều và một trai pháp : không được sát sanh, không được trộm cắp, không được dâm dục, không được nói dối, không được uống rượu, không được thoa ướp hương hoa và trang sức sắc phục không được ca múa xướng hát và đi xem nghe, không được ngồi giường cao ghế đẹp và không được ăn phi thời (nghĩa là không ăn quá giờ ngọ). Tám điều trước là giới; giữ tám điều này tức là đóng kín cửa ác đạo. Không ăn phi thời là trai. Trai nghĩa là tề, là ăn đúng giữa giờ ngọ, để thích hợp với con đường trung đạo mà Tam thế chư Phật đã noi theo. Nói chung cả trai và giới nên gọi là Bát quan trai giới. Các người nên phát tâm vô thượng để được giới pháp vô thượng. Vậy, các người sẽ đọc theo đây để thọ trì giới pháp: (Đọc như trên)

Đệ tử chúng con (xưng tên họ) qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng, xin một ngày một đêm làm người tịnh hạnh ưu bà tắc, (nếu đàn bà thì gọi ưu bà di). Như Lai là bậc chí chơn vô thượng đẳng chánh giác, là Thế Tôn của chúng con (Đọc ba lần)

Đã qui y Phật, thề suốt đời không qui y trời thần quỷ vật; Đã qui y Pháp, thề suốt đời không qui y ngoại đạo tà giáo; Đã qui yTăng, thề suốt đời không qui y bè đảng tàn ác; xin một ngày một đêm làm người tịnh hạnh ưu bà tắc, (nếu đàn bà thì gọi ưu bà di). Như Lai là bậc chí chơn vô thượng đẳng chánh giác, là Thế Tôn của chúng con (Đọc ba lần, vái ba vái).

VI. THẦY KHAI THỊ GIỚI TƯỚNG.

Phật tử ! Đã truyền cho các người pháp Tam qui xong là giới thể đã chu toàn. Nay vì các người sẽ nói rõ các giới tướng, để cho các người hộ trì và không hủy phạm. Vậy các người hãy nói theo thầy (thầy đọc trước, giới tử đọc theo sau):

1. Như chư Phật suốt đời không sát sanh, chúng con (xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không sát sanh.

2. Như chư Phật suốt đời không trộm cắp, chúng con (xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không trộm cắp.

3. Như chư Phật suốt đời không dâm dục, chúng con (xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không dâm dục.

4. Như chư Phật suốt đời không nói dối, chúng con (xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không nói dối.

5. Như chư Phật suốt đời không uống rượu, chúng con (xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không uống rượu.

6. Như chư Phật suốt đời không thoa ướp hương hoa vào mình và không trang sức sắc phục, chúng con (xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không thoa ướp hương hoa vào mình và không trang sức sắc phục.

7. Như chư Phật suốt đời không ca múa xướng hát và không đi xem nghe, chúng con (xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không ca múa xướng hát và không đi xem nghe.

8. Như chư Phật suốt đời không ngồi giường cao ghế đẹp, chúng con (xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không ngồi giường cao ghế đẹp.

9. Như chư Phật suốt đời không ăn phi thời, chúng con (xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không ăn phi thời.

VII. THẦY KHUYẾN THỊ.

Nầy các Phật tử, thân người khó được, tánh mạng vô thường, ngày giờ thấm thoắt như thoi đưa, đời sống bấp bênh như bọt mổi! Nếu không tinh tấn tu hành thì về sau ăn năn không kịp. Nay các ngươi đã có nhiều nhơn duyên lành, hãy cố gắng lên.

Đáp: Y giáo phụng hành.

VIII. HỒI HƯỚNG.

Tụng bài Đệ tử kính lạy. Xướng lễ Phật. Tam tự qui.

IX. XẢ GIỚI.

Sớm hôm sau lúc trời sáng, giới tử cung thỉnh giới sư lên điện niêm hương bạch Phậtxả giới.

Xướng hiệu Phật lạy tạ, giới tử đồng lạy.

Tụng Bát nhã tâm kinh, những bài hồi hướng, tự qui.

TỰ THỌ GIỚI

Nếu xa chùa, không có thầy truyền giới hay không tiện đến chùa, các thiện nam tín nữ đến ngày trai có thể tự mình đến trước bàn Phật phát nguyện thọ trì trai giới cũng được. Trước một hôm giới tử phải trai giới thanh tịnh lễ Phật sám hối: 6 giờ sáng đến trước bàn Phật niêm hương, khai tên họ pháp danh, tuổi, làng ... xin phát nguyện thọ trì bát quan trai giới trong một ngày một đêm. Niêm hương xong, xướng lạy danh hiệu Phật, Bồ tát, các vị tổ sư và Hộ pháp, Thiện thần. Lạy xong quỳ sám hối:

Con, xưa đã tạo các vọng nghiệp, đều do vô thỉ tham, sân, si; bởi thân khẩu ý phát sanh ra, tất cả, chúng con xin sám hối. Nam mô cầu sám hối Bồ tát ma ha tát. (Đọc ba lần, lạy ba lạy)

Quỳ thọ giới, tự mình phải đọc:

Đệ tử chúng con (xưng tên) qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Xin một ngày một đêm làm người tịnh hạnh Ưu bà tắc (nếu đàn bà thì Ưu bà di). Như Lai là bậc chí chơn vô thượng đẳng chánh giác; là Thế Tôn của chúng con.(Đọc ba lần, vái ba vái).

Đệ tử đã qui y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không qui y trời thần quỷ vật; đã qui y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không qui y ngoại đạo tà giáo; đã qui y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không qui y bè đảng tàn ác. Con xin một ngày một đêm làm người tịnh hạnh Ưu bà tắc (nếu đàn bà thì Ưu bà di). Như Lai là bậc chí chơn vô thượng đẳng chánh giác; là Thế Tôn của chúng con.(Đọc ba lần, lạy ba lạy).Rồi quỳ đọc thọ giới.

1. Như chư Phật suốt đời không sát sanh, con ( xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không sát sanh.

2. Như chư Phật suốt đời không trộm cắp, con ( xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không trộm cắp.

3. Như chư Phật suốt đời không dâm dục, con ( xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không dâm dục.

4. Như chư Phật suốt đời không nói dối, con ( xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không nói dối.

5. Như chư Phật suốt đời không uống rượu, con (xưng tên họ) xin một ngày một đêm không uống rượu.

6. Như chư Phật suốt đời không thoa ướp hương hoa vào mình và không trang sức sắc phục, con ( xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không thoa ướp hương hoa vào mình và không trang sức sắc phục.

7. Như chư Phật suốt đời không ca múa xướng hát và không đi xem nghe, con ( xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không ca múa xướng hát và không đi xem nghe.

8. Như chư Phật suốt đời không ngồi giường cao ghế đẹp, con ( xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không ngồi giường cao ghế đẹp.

9. Như chư Phật suốt đời không ăn phi thời, con ( xưng tên họ ) xin một ngày một đêm không ăn phi thời.

(Đứng dậy lạy ba lạy)

Quỳ tụng bài hồi hướng ‘Đệ tử chúng con ...’. Tam tự qui. Thọ giới xong, tùy mình phân thời gian tu tập.

Sáng mai, khi trời sáng, đến trước bàn Phật niêm hương xin xả giới:

Niêm hương bạch Phật. Tụng Bát nhã. Hồi hướng. Tự quy.


NIÊM HƯƠNG

Hương là tiêu biểu cho Giới, Định, Huệ, ...

Cho nên hành giả trong khi niêm hương bạch Phật cần phải thân tâm tinh khiết, nhất tâm chuyên chú hướng về Tam bảo. Trước hết đứng ngay thẳng trước Phật, chiêm ngưỡng Phật, quán tưởng đức tướng Phật, đọc thầm 21 biến Tịnh pháp giới chơn ngôn: ‘Án lam tóa ha’ quán tưởng chữ Lam ( ... ) đỏ lửa từ trong miệng theo tiếng đọc tuôn ra lên trên đảnh phủ xuống và bao quanh cả toàn thân, làm cho từ thân thể đến cả pháp giới đều thanh tịnh. Kế đến, cầm hương đốt, miệng đọc “Hương vân kiết thể, thông xuất tam giới; ngũ uẩn thanh tịnh, tam độc liễu nhiên. Aùn phóng ba tra tóa ha”. Quỳ xuống đưa hương lên đầu đọc bài tán hương: ‘Lư hương sạ nhiệt, pháp giới mông huân, chư Phật hải hội tất diêu văn, tùy xứ kiết tường vân, thành ý phương ân, chư Phật hiện toàn thân. Nam mô hương vân cái Bồ tát ma ha tát. (Lò hương vừa đốt, xông ngát mười phương, chư Phật Bồ tát thảy đều nghe, tùy chỗ kết mây lành, một niệm chí thành, chư Phật hiện toàn thân). Tiếp niệm bài cúng hương:

Giới hương Định hương dữ Huệ hương,

Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương,

Quang minh vân đài biến pháp giới;

Cúng dường thập phương vô thượng tôn.

Nam mô Hương cúng dường Bồ tát ma ha tát.

Kế niệm:

Nguyện thử diệu hương vân

Biến mãn thập phương giới

Cúng dường nhất thiết Phật,

Tôn Pháp, chư Bồ tát,

Vô biên Thanh văn chúng,

Cập nhứt thiết Thánh hiền.

Duyên khởi quang minh đài

Quá ư vô biên giới,

Vô biên Phật độ trung;

Xưng tánh, tác Phật sự.

Phổ huân chư chúng sanh

Giai phát bồ đề tâm,

Viễn ly chư vọng nghiệp

Viên thành vô thượng đạo.

Nam mô Đại hạnh phổ hiền Bồ tát (3 lần).

Kế tưởng niệm tán Phật:

Pháp vương vô thượng tôn,

Tam giới vô luân thất.

Thiên nhơn chi đạo sư,

Tứ sanh chi từ phụ.

Ư nhứt niệm qui y:

Năng diệt tam kỳ nghiệp.

Xưng dương nhược tán thán

Ức kiếp mạc năng tận.

Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,

Thập phương thế giới diệc vô tỷ,

Thế gian sở hữu ngã tận kiến

Nhất thiết vô hữu như Phật giả.

Sát trần tâm niệm khả sổ tri,

Đại hải trung thủy khả ẩm tận,

Hư không khả lượng phong khả kế,

Vô năng tận thuyết Phật công đức.

Nam mô Ta bà thế giới tam giới đại sư, tứ sanh từ phụ, nhơn thiên giáo chủ, thiên bách ức hóa thân Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật.

Nam mô Thập phương tam thế nhất thiết chư Phật, biến pháp giới chư tôn Bồ tát Ma ha tát. Linh sơn hội thượng vô lượng thánh hiền, Hộ pháp hộ giáo hộ giới già lam chư vị Thiện thần. Tây thiên Đông độ Nam quốc truyền giáo chư vị Tổ sư Hòa thượng Liên ba tọa hạ tác đại chứng minh.

Ư kim ... niên ... nguyệt ... nhật ... Việt Nam quốc ... phủ, huyện ... xã ... tự viện ... Đệ tử ... Pháp danh ... Tự ... Hiệu ... qui đầu Tam bảo phát nguyện thọ trì tam qui ngũ giới pháp (tùy việc mà canh cải). Ngưỡng khởi thập phương Tam bảo sát hải vạn linh, từ bi vô lượng thệ hải hoằng thâm, nguyện giáng oai quang chứng minh mặc hộ. Tỷ đệ tử chúng đẳng qui y chi hậu, thân tâm thanh tịnh, nghiệp chướng tiêu trừ, trí tánh thường minh, bồ đề khai phát. Nguyện sanh sanh thế thế, tại tại xứ xứ thường vi Tam bảo tiếp thọ cứu hộ, sanh phùng Phật pháp, tri ngộ thiện hữu, bất vong quảng đại bồ đề chi tâm, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, phàm hữu kiến văn giai phát đạo tâm, đồng triêm lợi lạc. Cánh kỳ: Pháp giới oán thân, tình dữ vô tình đồng thành Phật đạo. Thiệt lại Phật đức chi bất khả tư nghì dả.

Cắm hương lên bàn. Đọc bài đảnh lễ Phật:

Sở hữu thập phương thế giới trung

Tam thế nhất thiết nhơn sư tử,

Ngã dĩ thanh tịnh thân, ngữ, ý,

Nhất thiết biến lễ tận vô dư ...

Xướng và lạy:

Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo.

Mặc tưởng:

Năng lễ sở lễ, tánh không tịch.

Cảm ứng đạo giao nan tư nghị.

Ngã, thử đạo tràng,như đế châu:

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Đầu, diện tiếp túc, qui mạng lễ.

(Tùy tâm phát nguyện lạy nhiều hay ít, và tùy theo việc mà lạy danh hiệu chư Phật, Bồ tát ...Lạy xong bắt đầu làm lễ).

 

PHÁP TRƯỞNG TỊNH (BỐ TÁT) CHO NGƯỜI TẠI GIA.

Duy na xướng:

Tam qui ngũ giới giả xuất ban (xếp hàng)Đảnh lễ tam bái Hồ quỳ hiệp chưởng.

Thầy gọi : Các người Ưu bà tắc, Ưu bà di ! (Dạ)

Phải lắng lòng nghe đây. Hôm nay gặp tháng hắc nguyệt (hoặc bạch nguyệt) 15 ngày (hoặc 14 ngày nếu tháng thiếu) là ngày chúng Tăng vân tập để sám hối và bố tát. Các người đã phát tâm hướng về Phật đạo, thọ trì ba qui y và năm điều giới pháp để xây đắp nền phước báo nhơn thiên và niết bàn diệu quả. Các ngươi nên xét lại nửa tháng vừa qua, có điều gì trái phạm thì nên chí thành tỏ bày sám hối, để cho thanh tịnh. Nếu ẩn tàng thì tội lỗi mỗi ngày một tăng, không phải là Phật tử chân chính, mất hết tất cả công đức lợi ích.

Này các ngươi ! Qui y Phật là đấng phước đức và trí huệ cao cả; Qui y Pháp là giáo lý vô thượng thậm thâm; Qui y Tăng là đoàn thể hòa vui thanh tịnh. Là ba ngôi báu nhất của thế gian và xuất thế gian.

Đã qui y Phật, suốt đời phụng thờ Phật làm Thầy, không được qui y với trời thần quỷ vật.

Đã qui y Pháp, suốt đời lấy chánh pháp làm phương châm tu hành, không được qui y với ngoại đạo tà giáo.

Đã qui y Tăng, suốt đời thân cận chư Tăng làm gương mẫu, không được bè đảng với kẻ tàn ác.

Vậy các người có khi nào quên Tam bảo, móng tâm qui y với trời thần quỷ vật, ngoại đạo tà giáo và bè đảng với kẻ tàn ác không ?

Đáp:Không.

Còn năm điều cấm giới là:

1/ Không được sát sanh, các người có phạm không?

2/ Không được trộm cắp, các người có phạm không?

3/ Không được tà hạnh, các người có phạm không?

4/ Không được nói dối, các người có phạm không?

5/ Không được uống rượu, các người có phạm không?

Lành thay ! Nầy các Phật tử ! Thân người khó được, nay các ngươi đã được; Phật pháp khó nghe, nay các ngươi đã nghe; Chúng Tăng khó gặp, nay các ngươi đã gặp. Thật là vô cùng may mắn. Các ngươi hãy sanh lòng sung sướng mà cố gắng lên.

Đáp :Xin vâng lời dạy.

Chí thành đảnh lễ lui ra.

GIỚI LUẬT (1)

VIÊN ÂM SỐ 89 - 90 TRANG 14 NĂM 1950

I. ĐỊNH NGHĨA GIỚI LUẬT

GIỚI: Nguyên tiếng Phạn là thi la (sila). Tàu dịch là Giới, có nghĩa là phòng bị, răn cấm, câu thúc. Đức Phật chế giới luật để người học đạo phòng ngừa tội lỗi, răn cấm hành động trái pháp, kìm hãm dục vọng, và câu thúc đời sống tư hữu của mình, hầu mong tiến dần đến quả vị giác ngộ.

Giới có nghĩa là phòng phi chỉ ác. Giới điều là những phương tiện giúp Phật tử sống thanh tịnh cao cả, bằng cách ngăn ngừa đoạn trừ những tâm niệm xấu xa, những hành động bạo ngược. Giới cũng gọi là biệt biệt giải thoát. Vì không phạm một điều ác, tất phá tan một hình ngục; làm được một điều thiện, tất có ảnh hưởng tốt đẹp cho phong hóa. Giới cũng vậy, nếu giữ trọn một giới nào, tức là giải thoát được quả báo đọa đày bởi nghiệp lực của giới ấy mà chúng ta đã phạm, đồng thời cũng hưởng được quả báo phước nghiệp của giới ấy, do chúng ta đã thọ trì. Thí dụ: Người không ăn trộm, tức không có kết quả tù đày lao ngục, đồng thời được người đời khen ngợi tán thán v.v... Ấy gọi là giới.

LUẬT: Tiếng Phạn là ưu ba la xoa (upalaksa), Tàu dịch là Luật: kỷ luật, pháp luật, luật lệ, nghĩa là những khuôn khổ, pháp tắc, điều luật thống nhất của Phật giáo Phật tử không có quyền phủ nhận, phải triệt để tuân hành. Nên nhớ pháp luật này, không ai có quyền thêm bớt, dù các hàng đại bồ tát cũng vậy; duy chỉ có đức Phật mới có quyền sáng chế thiết lập mà thôi. Cho nên người nào đã phạm những kỷ luật ấy, nhất là chính mình đã một phen bạch kiết ma thọ lãnh, tức là phạm luật; và người xử tội, cũng phải triệt để y cứ trên khuôn mẫu pháp luật, do đức Phật đã thân hành chế ra, mà xử đoán trọng khinh. Thí dụ: người nào đã phạm vào những luật lệ chung của nước nhà, tức là phạm tội, và người mang trách nhiệm xử đoán tội nhân, cần phải căn cứ trên quốc pháp để chuẩn định nặng nhẹ. Ấy gọi là luật.

Trong đạo Phật, nhất về luật tạng, chúng ta thấy rất phiền toái và phức tạp, bởi có vô số danh tướng và thể thức riêng biệt nhau như danh, chủng, tánh, tướng, khai giá, trì, phạm v.v... Cũng bởi vì sự sai khác ấy, cho nên đồng làm một việc, có người thì phạm, mà có kẻ thì gọi là trì.

Cắt nghĩa một cách tóm tắt cho dễ hiểu: Giới luật tức là những qui củ, khuôn khổ, phép tắc do đức Phật thuận theo lý tánh chân thật mà kiến lập, để chế ngự và đối trị nghiệp duyên của chúng sanh. Cho nên Phật tử cần phải triệt để tuân hành, nếu lơ đểnh hay trái phạm, tức là phá hủy lời dạy vô thượng của đức Phật, và không hướng thuận về pháp tánh chơn như, nghĩa là tự dìm mình xuống đáy sâu tội lỗi.

II. PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH GIỚI LUẬT

Với phần định nghĩa trên, chúng ta đã khái quát tinh thần thuần túy giới luật, nhưng cách áp dụng giới luật trên đời sống thực tại bằng phương tiện nào, thì chúng ta chưa thấy, cho nên đoạn này cần phải chỉ thị. Chúng sanh rất có nhiều chủng loại, trình độ khả năng cũng như niên lạp rất sai khác nhau, nên đức Phật kiến lập và truyền thọ giới luật cũng có nhiều tầng bậc. Tuy nhiên, lượng có sai khác, nhưng phẩm vẫn đồng nhất. Vì đồng nhất nên không ngoài bốn câu kệ sau đây:

a/ Chư ác mạc táctránh xa tất cả những hành động tàn ác bạo ngược.

Giới luật cũng như hàng rào ngăn ngừa những điều phi pháp và đoạn trừ những cử chỉ bất lương. Cho nên một người nào không hành động hại mình hại người, ở hiện tại và tương lai, chính là người tuân hành giới luật. Đây là đứng về phương diện chỉ trì, giới tự lợi của hàng Tiểu thừa Thanh văn.

b/ Chúng thiện phụng hànhtriệt để thực hành tất cả những điều thiện.

Muốn hoàn thành tinh thần giới luật, không những chỉ chuyên trọng đoạn ác mà cần phải làm điều thiện. Tránh ác đã là một việc đáng quý nhưng làm thiện lại càng hi hữu hơn. Vì đấy là cử chỉ xả kỷ vị tha, là những bước hướng mạnh đến chân lý. Thọ trì giới luật tức là phụng sự điều thiện; một người chú trọng và tôn thờ điều thiện, tức là vâng giữ giới luật. Đây là đứng trên quan điểm tác trì của hàng Đại thừa Bồ tát.

c/ Tự tịnh kỳ ýchỉ trì và tác trì thiên trọng về nơi thân nghiệp, câu này mới thật căn cứ trên tác tư của ý nghiệp.

Nếu thực hành đúng hai phương diện chỉ, tác mà ý nghiệp chưa thanh tịnh, nghĩa là còn cấu đục bởi vô minh ích kỷ, tất nhiên không phải thuần thiện. Trạng thái này có thể quan sát trên hành động của kẻ đi câu thì sẽ thấy rõ. Cho nên đánh giá một hành vi nào, muốn khỏi sai lầm, cần phải xét đoán trên tâm niệm, nhất là kết quả của hành vi ấy, và người nào ý niệm thuần lương, tức là thanh tịnh giới thể.

d/ Thị chư Phật giáo.

Không làm điều ác, phụng sự điều thiện, và ý niệm thuần khiết, là lời dạy bất di bất dịch của mười phương ba đời các đức Phật. Đây là một câu kết thúc, khuyến chúng sanh phải triệt để thực hành theo tinh thần và ý nghĩa của ba phương tiện trên. Nói một cách khác tức là đức Phật sách tấn chúng ta phải tôn trọng và tuân hành giới luật.

III. SỰ QUAN HỆ CỦA GIỚI LUẬT .

Giới luật học là môn học trong ba tạng giáo điển của đức Phật, cho nên giới luật là một vấn đề quan hệ, Phật tử không thể nào bỏ qua.

Kinh có câu: “Giới tức là hạnh của Phật“. Cho nên nếu người nào không giữ giới mà mong giải thoát, thời cũng đồng như người tìm sự thật trong mộng tưởng.

Sự tu hành cũng như cuộc khởi đi của kẻ lữ khách, muốn đến đích cần phải cụ bị lương thực, và tinh tấn tiến bước. Thiếu cần mẫn và tư lương tức không thể phát hành và đến đích. Và Tư lương của kẻ tu hành là Giới, Định, Huệ.

GIỚI:Như trên đã cắt nghĩa, giới là phòng phi chỉ ác, nghĩa là năng lực ngăn ngừa điều trái và đoạn phục các hành động bất thiện. Một người muốn thở không khí trong sạch giải thoát, cần phải thận trong và tu trì giới pháp. Giới là cơ sở duy nhất của Định và Huệ; thiếu giới, định, huệ không thành; cũng như không có đất, dinh thự và lâu đài phải sụp đổ. Định và huệ của phàm phu ngoại đạo, sở dĩ chênh lệch và sai khác với định và huệ của Phật giáo cũng do điểm này.

ĐỊNH: Trừng tịnh tâm duyên, sản phẩm trung thành của giới. Do giới chỉ trì nên thân, khẩu nghiệp không làm điều phi pháp, đồng thời ý nghiệp được thanh tịnh, không còn tâm tư xao xuyến khi nhập thiền định. Tự nhiên hành động của thân, miệng, ý xứng hợp với luật nghi, gọi là định cộng giới. Chúng ta nên nhớ, chỉ có định lực mới đủ khả năng kềm hãm vọng tâm và làm cho chơn tâm hiển hiện, nhưng lực sở dĩ thành tựu là do giới làm căn bản.

HUỆ:Năng lực minh mẫn chiếu liễu của trí. Huệ là phản ảnh của định. Có Định, Huệ mới phát sanh; ví như nước có đứng trong mặt trăng mới tỏ hiện. Nhờ ánh sáng trí huệ soi đường, sự tu hành khỏi lạc vào ma đạo. Cũng như muốn đi trúng đích, kẻ bộ hành phải có nhãn quan tinh diệu. Nên nhớ: có trì giới, tu định, huệ mới phát sanh. Tam thừa thánh nhân do tu vô lậu thiền định mà phát sanh vô lậu trí huệ, tương ứng với vô lậu luật nghi. Giới thể phòng phi chỉ ác cùng với trí huệ cộng sanh thì gọi là đạo cộng giới.

Giới Định Huệ là cơ quan nguyên yếu của đạo Niết bàn An tịnh.

IV. HIỆU LỰC VÀ ÍCH LỢI CỦA GIỚI LUẬT.

Chúng ta đã nhận thấy phương pháp thực hành và sự quan hệ của giới luật, nhưng chưa thấy sự hiệu lực và ích lợi của giới luật.

Như chiếc xe hỏa, nếu bánh xe không ăn khớp với lề đường thời không thể chạy được và xe sẽ trúc đổ. Hiệu lực của giới luật đối với sự tu hành cũng vậy. Nếu vượt ngoài qui củ giới luật tất nhiên không thể tăng tấn trên đường giải thoát, nếu không phải là tăng thượng duyên của sự đọa lạc. Trì giới đã khó khăn, tất nhiên kết quả cũng vĩ đại, nhưng không ngoài ba quan điểm sau đây:

a/ Đối với quá khứ: Một nhà bác học chuyên cần nghiên cứu thí nghiệm, lẽ dĩ nhiên phát minh, sáng tạo được nhiều nguyên lý và ứng dụng tinh xảo. Sự ngờ vực ngu dốt lúc thiếu thời do đó mà tiêu tan. Cũng vậy, người tu trì giới luật nhờ năng lực trì giới, có thể chuyển nghiệp bất thiện ở quá khứ, và ảnh hưởng trực tiếp đến sự hưởng thọ đầy đủ hiện tại.

b/ Đối với hiện tại: Quả báo hiện tại là phản ảnh trung thành của nghiệp nhân quá khứ. Một khi chuyển được nghiệp quá khứ, quả báo hiện tại phải thanh tịnh an lành. Lại hiện tại đã tu trì giới luật, nghĩa là làm tất cả điều thiện, diệt trừ điều ác, thời lòng được sảng khoái vui tươi, và những nỗi niềm hồi hộp lo sợ không còn nữa. Giải thoát triền phược, diệt tận dục vọng mê mờ là phương châm cao đẹp của người trì giới. Không phạm hình luật, lương tâm không ăn năn hối hận. Đấy chính là hiệu quả của người thọ trì giới luật .

c/ Đối với vị lai: Nhà nghệ sĩ chuyên môn rèn luyện nghệ thuật, người học trò siêng năng trau dồi học và hạnh, tương lai phải rực rỡ, kết quả sẽ phải tốt đẹp. Người trì giới thanh tịnh, nghĩa là chuyên trọng huân tập vô lậu chủng tử, dĩ nhiên kết quả vị lai phải trong sáng ngát hương. Đấy là định luật nhân quả, một sự thật tuyệt đối, không ai có quyên phủ nhận.

Một bằng chứng rõ ràng nữa, là nhờ có nền giới luật thiết thực và rộng rãi, Phật giáo không bị hoen ố bởi sự chi phối của thời gian, bao giờ cũng giữ màu sắc thuần túy đạo Phật. Vì sống trong qui củ giới luật, bất cứ thời đại nào, phương sở nào, dưới một hình thức nào Phật tử cũng có thể nhịp nhàng, dung hòa và chung sống với nhau như hòa hợp một bản đàn kỳ diệu. Bởi hiệu quả và ích lợi như trên, cho nên Phật tử cần phải lãnh thọ và tu trì giới luật.

V. CÁCH TRUYỀN THỌ GIỚI LUẬT.

Vì giới luật có quan hệ mật thiết với sự tu hành giải thoát nên đức Phật sau khi thành đạo mười hai năm, đã kiến lập và chế ra giới luật. Cho nên Phật tử, nghĩa là người tiếp tục thi hành sứ mệnh vị tha, nhất là hạng xuất gia, cần phải truyền thọ giới luật. Nhưng tuyền thọ bằng cách nào?

Muốn truyền giới cho người khác, tất nhiên mình phải thanh tịnh đầy đủ giới đức, và ít nhất người truyền giới cần phải hơn người được truyền một bậc, kể cả giới pháp và đức hạnh. Thí dụ, bậc tỳ kheo mới có quyền trao năm giới hay mười giới cho một hay nhiều người khác. Nếàu không thì tất nhiên sự truyền giới không hợp pháp và giới thể không thành tựu. Cũng vì điều này nên hàng tại gia cư sĩ không được truyền thọ giới pháp cho ai.

Còn người thọ giới trước tiên phải tinh thành sám hối, tẩy trừ nghiệp chướng. Khi thân tâm đã rỗng không, sạch các túc chướng phiền não, mới được thọ giới. Đây cũng như muốn nhuộm áo, cần phải giặt sạch trước khi nhuộm. Cần nhất phải hợp xứ, hợp thời, và đầy đủ mọi điều kiện, giới thể mối được thành tựu. Phải trao thọ giới pháp trước ngôi Tam bảo, vì thọ giới chính là vâng theo lời dạy của ngôi Tam bảo và cũng để cầu khải hộ trì của Tam bảo.

Chúng ta lại cần phải biết rằng: thọ giới là một cử chỉ tùy nguyện, do thân tâm chân thành phát ra chớ không phải một sự miễn cưỡng ép buộc; cũng như người muôn qua sông, cần phải vin vào dây nổi, đấy là một lẽ tự nhiên, chứ không ai có quyền áp chế bắt buộc. Vậy nên sau khi thọ giới, chúng ta cần phải triệt để tuân hành, dù có phương hại đến tánh mạng cũng vậy. Vả lại giới luật chính đức Phật y cứ nơi tự tâm thanh tịnh của chúng sanh mà kiến lập. Thọ giới chính là vâng theo những đức tánh thuần lương mỹ diệu của tự tâm, như thế có gì là ép buộc miễn cưỡng? Cũng như muốn bảo tồn cơ thể tất nhiên đói phải ăn, khát phải uống. Sự thọ trì giới luật cũng như thế mà thôi.

Bởi thế cho nên muốn khỏi thối đọa duy trì tự tâm,kiến lập một cơ đồ giải thoát giác ngộ, Phật tử chúng ta cần phải triệt để tuân hành giới luật. Vô thượng thay đức Phật, người đã sáng lập giới luật; cao quý thay người đã sưu tầm, kiết tập và truyền bá giới luật. Đáng thán phục và đáng tôn trọng thay người đã phát nguyện vâng giữ giới luật.

GIỚI LUẬT (2)

VIÊN ÂM SỐ 91, TRANG 7, NĂM 1950

I. YẾU ĐIỂM GIỚI LUẬT

Bài trước đã nói đại cương sự quan hệ của giới luật, ở đây nói rõ thêm và phân biệt ranh giới giữa đại thừa luật và tiểu thừa luật.

Giới luật là một trong ba tạng giáo điển của Phật đà. Hai tạng Kinh và Luận có xen sự nghị luận của các Bồ tát và các đệ tử Phật v.v... Về luật thì nhất định chỉ có đức Phật mới chế định mà thôi. Đức Phật căn cứ vào nhất thế chủng trí, như sự thật mà thuyết minh giới luật cốt xứng hợp hành vi của hàng đệ tử với thường trú chơn tâm cứu cánh chơn thật của muôn loài vạn vật. Muốn thấy sự thật của muôn loài vạn vật như Phật, phải nghiêm trì giới luật; muốn đạt được chơn hạnh phúc hoàn toàn của nhơn sinh, tức là cảnh giới Phật Đà, cũng phải nghiêm trì giới luật. Đức Phật dạy: “Thọ Phật giới tức nhập chư Phật vị”, “Giới luật là đại sư của các ngươi, cũng như ta còn tại thế”“Giới luật còn là đạo ta còn”. Người không nghiêm trì giới luật là người phản bội đức Phật, đi ngược cảnh giới giải thoát là cảnh giới thường trú chơn tâm, không thể thấy sự thật và hưởng hạnh phúc chơn chính. Người thọ trì giới luật, không những không phạm đến các điều ngăn cấm của Phật đã chế ra, mà hành vi hàng ngày càng xứng hợp với oai nghi khuôn mẫu. Oai nghi là những hành vi như đi đứng nằm ngồi v.v.... đúng theo một khuôn mẫu, qui tắc đã định. Đại thừa hay tiểu thừa luật đều y vào bốn yếu điểm sau:

1. TÁC: Nghĩa là tạo tác. Những người chưa thọ trì giới pháp, nay y theo pháp tắc oai nghi, làm lễ thọ giới. Nếu xét lại từ trước đến giờ, ví lầm lạc đã tạo ra nhiều điều phi pháp, cũng y theo qui tắc luật chế mà sám hối; về sau nếu còn vô tình phạm đến các giới điều đã cấm, thì cũng y theo phương pháp mà sám hối lại.

2. CHỈ: Nhĩa là ngăn dứt. Đối với những hành vi bất thiện như ngũ nghịch, thập ác ... quyết ngăn dứt mà không làm. Một nghĩa nữa nếu giữ gìn giới luật tinh tấn thì vô minh vọng tưởng sẽ ngăn dứt mà không phát sanh lại được nữa.

3. TRÌ: Có hai nghĩa: a) Trì xả, nghĩa là đối với những điều ác, quyết bỏ hẳn, không bao giờ làm lại, dù có hại đến tánh mạng. b) Trì thủ, nghĩa là đối với việc thiện quyết giữ gìn làm theo không để bỏ qua, dù là một việc thiện rất nhỏ.

4. PHẠM: Nghĩa là những hành vi không hợp pháp, trái với điều đã ngăn cấm; điều này mới là quan hệ. Người cầm cân giới luật cần phải sáng suốt, thông hiểu tất cả ngững tâm lý hành vi của hành giả. Căn cứ vào giới luật Đại thừa hay Tiểu thừa mà ấn định có phạm luật hay không. Lại còn phải căn cứ vào tâm niệm (nhất là tâm niệm) vào thời gian và nghiệp cảnh ([1])là thế nào mới có thể định đoạt là phạm hay không phạm. Ví dụ về giới sát sanh: Giết một con vật, đối với Thanh văn tiểu thừa là phạm nhẹ, đối với Đại thừa bồ tát thì phạm giới nặng, vì làm mất căn bản Từ bi tâm. Còn phải căn cứ vào tâm niệm cố ý lầm lạc, khi khởi tâm giết hại mạnh hay yếu, trong thời gian khởi tâm giết hại, đến khi với sau khi giết, trong khoảng thời gian ấy, trực tiếp hay gián tiếp, hối hận hay không hối hận, ác niệm tăng hay giảm, và nghiệp cảnh giết hại có thích hợpvới lòng ưa muốn không. (Như móng tâm muốn giết con bò mà khi giết lại giết lầm con trâu v.v...). Từ khi móng tâm, trải qua thời gian đến nghiệp cảnh kết quả, một tâm niệm không thay đổi là tội nặng nhất. Nếu trong đó, móng tâm thì hăng hái hoặc vì một thiện niệm đến khi làm và sau khi làm thì hối hận hoặc gián tiếp, hoặc làm việc không kết quả như ý muốn, thiø phạm tội nhẹ. Tùy theo những cảnh huống ấy mà định đoạt phạm hay không phạm, tội lỗi nhẹ hay nặng. Tội lỗi nặng nhẹ có chia làm ba loại thượng, trung và hạ. Về Đại thừa thì chú trọng nhất về tâm niệm. Bốn điểm yếu trên này làm khuôn khổ cho tất cả giới luật, dù Đại thừa hay Tiểu thừa cũng vậy.

II. NĂM THỪA LUẬT.

Giáo pháp của Phật dạy có chia ra năm thừa sai biệt khác nhau, giới luật cũng y theo đó mà có năm thừa.

Năm thừa luật là Nhơn thừa luật, Thiên thừa luật, Thanh văn thừa luật, Duyên giác thừa luật và Bồ tát thừa luật. Nhơn thừa luật là năm giới của Ưu bà tắc, ưu bà di. Thiên thừa luật là mười thiện giới. Hai hạng trên này gồm cả tại gia và xuất gia (Bát quan trai giới cũng nhiếp ở trong này). Thanh văn thừa luật và Duyên giác thừa luật chỉ đặc biệt riêng cho hàng xuất gia, gồm có bốn chúng Sa di (con trai), Sa di ni (con gái), có mười giới; Tỷ kheo(đàn ông) có hai 250 giới, Tỷ kheo ni (đàn bà) có 350 giới; có luật tăng đến 500 giới. Duyên giác thừa luật gồm ở trong Thanh văn chứ không có luật riêng. Bồ tát thừa luật gồm cả tại gia và xuất gia, phổ thông đều theo giới kinh Phạm võng, có tất cả 58 giới, chia ra 10 giới nặng và 48 giới khinh.

Năm thừa luật trên đây, tùy theo căn cơ trình độ, hoàn cảnh mà lãnh thọ, trong đó chia ra có đại thừa và tiểu thừa sai khác nhau. Như bốn thừa trước thuộc về tiểu thừa luật, một thừa sau tức bồ tát thừa là thuộc về đại thừa luật.

III. NHẤT THỪA LUẬT.

Nhất thừa luật, không phải ngoài năm thừa luật trước mà có, tức là chỉ cho Đại thừa bồ tát. Đây cũng căn cứ vào giới kinh Phạm võng, 10 điều trọng và 48 điều khinh làm căn bản. Như người tùy theo hoàn cảnh, muốn làm khuôn mẫu đạo đức về nhơn đạo, chỉ thọ trì năm giới tại gia, nhưng thâm tâm muốn phát bồ đề tâm, hồi hướng về quả vô thượng bồ đề, nên dù ở hoàn cảnh triền phược gia đình, có thể thọ trì thêm giới bồ tát luật gọi là Ưu bà tắc bồ tát hay Ưu bà di bồ tát. Còn hàng xuất gia, chí khí trượng phu, trang nghiêm nhơn tướng làm khuôn mẫu cho muôn loài, cũng thọ giới bồ tát là hàng sa di bồ tát, sa di ni bồ tát, tỷ kheo bồ tát, tỷ kheo ni bồ tát v.v... Cho nên năm thừa luật cũng không ngoài nhất thừa luật mà có, mà cuối cùng năm thừa luật đều qui nạp vào nhất thừa luật cả. Nhất thừa luật mới thật là mục tiêu cứu cánh về giới luật. Và cũng chính bản ý của Phật hiện thân ở thế gian này. Muốn chỉ định hành vi của Nhất thừa bồ tát luật (tức Đại thừa luật) cần phải căn cứ vào ba phương diện sau này:

a) Phương diện tiêu cực nghĩa là nghiêm trì tất cả giới luật oai nghi một cách rốt ráo thanh tịnh, tuyệt hẳn bao nhiêu lỗi lầm nhỏ nhiệm không có thể phạm được.

b) Phương diện tích cực nghĩa là thâu nhiếp tất cả những điều thiện mỹ thế gian, xuất thế gian, hữu lậu vô lậu, để áp dụng vào hành vi đạo đức của mình. Hai phương diện trên này thiên trọng về tự lợi.

c) Phương diện cứu cánh lợi tha. Đến phương diện thứ ba này mới thật hoàn toàn cứu cánh của người thọ trì giới pháp đại thừa. Nghĩa là một hành vi gì, không cần kể đến có lợi hay có hại cho mình, miễn hành vi ấy có lợi cho quần chúng, một cách thiết thực về hiện tại cũng như về tương lai, thì chơn chính đại thừa Phật tử triệt để thi hành ngay, không do dự lùi bước. Chỉ có người phát đại bồ đề tâm, mới thọ trì nhất thừa luật. Người ấy mới xứng với hai chữ Phật tử.

LỜI PHẬT:

Thọ giới Phật dạy là được dự vào hàng chư Phật.

Giới luật còn là đạo ta còn.

Giới luật là vị đạo sư của các ngươi,

cũng như ta còn tại thế, không có sai khác.

TAM QUY

VIÊN ÂM SỐ 84 TRANG 18 NĂM 1949

I. ĐỊNH NGHĨA QUY Y TAM BẢO

A. QUI Y.

1/ QUI nghĩa là trở về. Người đi tha phương cầu thực nay trở về với cố hương, kẻ lạc đường trong đêm tối, nhờ có ánh sáng của trăng sao, liền quay lại con đường chơn chánh. Tự tâm chúng ta sẵn có giác tánh tức là Phật tánh, nhưng từ lâu đời bị vọng trần ngăn che, nay nhờ có ánh sáng của giáo lý khai ngộ; theo ngoại đạo, bạn dữ, thầy tà, nay ta trở về với đạo lý chơn chánh, với thầy sáng suốt, bạn thuần lương.

2/ Y nghĩa là nương tựa, y cứ theo, như cây trầu nương tựa và y cứ theo cây cau để sống và phát triển. Từ trước đến nay ta y theo vọng cảnh vọng trần, y theo tà giáo mà hành động thành thử bị luân chuyển trong đau khổ, nay nhờ được người chỉ đường sáng suốt, chúng ta quyết y cứ trên tự tánh thanh tịnh, tâm nương tựa những bậc dẫn đường, những giáo lý chân chánh để sống mà hành động.

Trong chữ qui y chúng ta nhận thấy có ba ý chính:

1) Đem cả thân mạng để qui hướng.

2) Qui thuận theo giáo pháp chơn chánh.

3) Thâu nhiếp sáu căn, không dong ruổi theo sáu trần mà tu tập, phản vọng qui chơn, để trở về với nhất tâm thanh tịnh sẵn có của mình.

B. QUI Y TAM BẢO

Qui y Tam bảo là qui y Phật, Pháp, Tăng. Phật, pháp, tăng là ba ngôi quí báu nhất trên đời nên gọi là Tam bảo.

1/ QUI Y PHẬT là trở về nương tựa trên tự tánh thanh tịnh tâm (Phật tánh) của ta. Tất cả chúng sanh đều có tánh giác rõ biết cùng khắp (giác tánh), tánh ấy tức là Phật tự tâm. Kinh có câu “nhứt thiết chúng sanh cụ hữu Như lai trí huệ đức tướng”chính là nghĩa nầy. Ngặt vì chúng ta đã lâu đời bị vô minh ngăn che, giác tánh không được hiển lộ, nên phải mê muội lăn lộn trong vòng chúng sanh. Người nào thể nhận được tự tâm ấy tức gọi là Phật. Mười phương ba đời các đức Như lai là những vị đã giác ngộ tự tâm, đều xứng đáng dể ta qui y. Gần với chúng ta hơn là đức Phật Thích ca Mâu ni, Ngài đã xa mọi sự quyến luyến của dục tình để đi tìm nguồn đạo cao cả, Ngài đã chiến thắng mọi phiền não bên trong, cũng như bao cảnh tráo trở giả dối bên ngoài để chứng đến địa vị cứu cánh thanh tịnh. Chúng ta nhận thấy Ngài là một vị toàn giác, đủ khả năng đem ta đến chỗ giải thoát, nghĩa là chứng ngộ được tự tâm. Vì những lẽ trên nên ta trở về nương tựa với Phật. Aáy gọi là Qui Y Phật.

2/ QUI Y PHÁP nghĩa là trở về nương tựa trên thật tánh của muôn pháp. Thật tánh tức là chỉ cho tự tánh như như bình đẳng của sự vật. Mặc dù hiện tượng giữa đời này có sanh diệt còn mất, nhưng thật tánh ấy vẫn không biến dịch. Mây, mù, hơi, nước, tuy khác nhau nhưng không ngoài tánh ướt. Từ trước đến nay vì mê mờ nên chúng ta không thể nhận được thực tánh ấy, mà cứ đắm say theo vọng trần giả cảnh của tâm thức biến hiện, rồi do đó mà tạo nghiệp thọ quả luân hồi sanh tử trong ba cõi. Nay ta nguyện trở về với thật tánh tức là qui y pháp. Tuy thế, nhưng muốn thể hội được thật tánh cũng không phải tìm đâu xa mà vẫn căn cứ trên cảnh giả hữu để thể nhận thật tánh mà thôi.

Khi nào ngộ được tánh chơn thường của sự vật tức là được ngộ Phật pháp. Với căn tánh ám độn như chúng ta, nếu không có giáo pháp chỉ bày thì khó nhận được tánh chơn thường ấy lắm, cho nên ta phải qui y pháp, nghĩa là trở về nương tựa ba tạng giáo điển của đức Phật đã dạy mà tu học, mong đoạn trừ mê chướng, chứng ngộ thật tướng bình đẳng của các pháp và thề không còn qui y theo một phương pháp nào khác nữa.

3/ QUI Y TĂNG nghĩa là trở về nương tựa với vị thầy giác ngộ chính đáng. Như trên chúng ta đã biết, tự tâm thanh tịnh sẵn đủ trong tất cả chúng sanh, chỉ vì mê không nhận thấy đó thôi. Nay ta đã biết trong tâm sẵn đủ giác tánh, chính giác tánh ấy là một bực thầy chơn chính của chúng ta, đủ đạo lực khai ngộ trí huệ cho ta, đem ta đến chỗ giải thoát, cho nên không chi hơn bằng qui y với vị thầy tự tâm ấy. Kinh có câu “Một niệm cùng khắp mười pháp giới”, như thế thì mười phương chúng tăng cũng chính trong tâm niệm của chúng ta nên ta qui y với mười phương chúng tăng tức là qui y tự tâm chúng ta đó vậy. Chữ tăng đây là chỉ cho mười phương chúng tăng.

Nói một cách hẹp hơn thì gần chúng ta đây cũng có Hiện tiền tăng. Tức là những đoàn thể tăng già học hạnh kiêm toàn. Phật pháp là một giáo điển siêu việt, nếu không nhờ các vị tinh thông chỉ bày thì ta làm sao thấu hiểu. Nên ta qui y Tăng bảo, nghĩa là trở về nương tựa những đoàn thể tăng già chân chính, để học đòi giáo điển, tinh tấn tu hành, nếu ta muốn thể nhận được tự tánh thanh tịnh của ta.

II. VÌ SAO CẦN PHẢI QUI Y.

Phật dạy: ‘Bồ tát sợ nhơn, chúng sanh sợ quả’ Nghĩa là bồ tát bao giờ cũng sợ hãi hành vi nhân địa không chơn chánh, chớ không sợ quả vị hưởng thọ có hay không; trái lại chúng sanh nước đến trôn mới nhảy, một khi đụng đầu đau khổ mới than van, chứ không kể gì gây nhơn bất thiện.

Ở đời chỉ có hạng người mê mờ ích kỷ sống không có ngày mai mới “nhắm mắt đưa chân”; ngoài ra ai lại không muốn có một cuộc đời an ủi có ý nghĩa. Muốn thế mà không được, suy nguyên chính chỉ vì muốn ăn quả mà không muốn trồng cây. Mà đời đau khổ là do nguyên nhân mê lầm, vì mê lầm nên phát sanh hành vi sai lại rồi sẽ chịu quả đau thương. Nay muốn khỏi đau khổ phải cải tạo hành vi, phải nương nhờ chỗ qui chí chơn chánh; chỗ qui chí chơn chánh là Phật, Pháp, Tăng vậy.

Hơn nữa, chúng ta qui y Tam bảo là vì ta nhận thấy tuy trong tâm ta sẵn có tự tánh Tam bảo, nhưng vì đã lâu đời bị vô minh ngăn che, mãi mãi dong ruổi theo cảnh trần giả hữu, gây nên vô lượng nghiệp nhân, luôn luôn quay cuồng trong vòng sanh tử. Chúng ta không khác một người mù lòa quờ quạng trong đêm tối, nếu không nhờ có ánh sáng đèn hay người dắt dẫn thì làm sao thoát khỏi được. Đức Phật đối với ta là một người cầm đưốc trong đêm tối, là một vị lương y có lòng từ bi không cùng tận! Chỉ có lòng từ bi tuyệt vời ấy mới có thể an ủi chúng ta trong lúc lệ nóng đang chan hòa với dòng sông và mới có thể ấp ủ được những tâm hồn khắc khoải vì đau thương ... Nhưng lòng thương ấy không phải phát sanh với một tâm hồn tiêu cực bi quan, mà duyên khởi bởi một tấm lòng từ bi vô hạn. Vì thế nên Ngài lại đem những phương thức chính đáng, những đạo lý siêu phàm để dạy vẽ chỉ bày, làm cho ta thoát khổ được vui. Những phương pháp ấy chính là ngọn hải đăng của kẻ thủy thủ lạc đường vậy. Còn Tăng đồ là những đoàn thể làm gương mẫu xứng đáng cho ta noi theo. Các ngài không phải làm trung gian giữa thực thể và cá nhân, mà chỉ có bổn phận dạy vẽ và làm kiểu mẫu cho ta trên đường giải thoát mà thôi. Nói tóm lại, vì Tam bảo đủ điều kiện khả năng làm cho ta thoát mê thành ngộ, lìa khổ được vui nên ta nhất tâm qui y cung kính.

III. QUI Y PHẢI THẾ NÀO ?

Có người vì không hiểu nghĩa của qui y nên tin tưởng rằng: Tam bảo là đấng thiêng liêng, đủ uy lực ban phước gieo họa cho người đời, vì thế nên họ đến chùa qui y cầu để tránh các tai biến hoạn nạn có thể sẽ xảy đến cho gia đình hoặc bản thân họ.

Quan niệm này sở dĩ mà có là vì chưa hiểu rõ chính nghĩa của chữ qui y. Qui y chính là phương tiện đưa ta đến quả vị giải thoát và nhất là để thể nhận tự tâm của chúng ta. Với những người lầm lạc ấy, sự qui y cũng không phải hoàn toàn vô ích; một khi đã đến nhà chùa, dù trong một thời gian rất ngắn, nhưng nhờ thấm nhuần được mùi đạo cũng có thể hoán cải người độc ác trở nên thuần lương và chính nhờ sự kết duyên với Tam bảo mà chủng tử thiện pháp ấy được gieo vào trong bát thức tâm điền, cho nên ở một đời sau, khi đủ duyên thì chủng tử ấy sẽ phát hiện ra và gặp được Tam bảo, tinh tiến tu hành.

Nếu chúng ta muốn sự qui y có nhiều kết quả lợi ích thiết thực ở hiện tại cũng như về tương lai thì ngay bây giờ đây trong khi trở về với nguồn đạo cao cả, chúng ta hãy tìm những vị tăng già gồm cả tu và học, vì chỉ có tăng già mới đủ sức đảm nhiệm sứ mệnh của đức Như Lai là hoằng pháp lợi sanh; nhất là phải chọn lựa những vị hợp với căn cơ trình độ của mình để học hỏi theo những giáo pháp của Phật đã dạy. Nhưng không phải học suông mả đủ. Qui y suông thì cũng chẳng lợi ích gì như đọc sách mà không hiểu. Cho nên trong sự qui y, chúng ta hãy đem tâm niệm chí thành, quyết thực hành theo những phương pháp của Phật dạy, thề không bao giờ qui y theo một tôn giáo hay đạo lý khác nữa. Như thế cũng chưa hoàn toàn, chúng ta hãy đem một tâm niệm vị tha bình đẳng, làm cho người khác cũng được lợi ích như mình, bằng cách khuyên bảo chỉ bày cho họ phát khởi chánh tín, nghĩa là cung kính và qui y Tam bảo. Bởi vậy khi chúng ta làm lễ qui y, chúng ta có phát ba lời tâm nguyện lớn:

1. Đệ tử qui y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không qui y thiên thần quỉ vật.

2. Đệ tử qui y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không qui y ngoại đạo tà giáo.

3. Đệ tử qui y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không qui y tổn hữu ác đảng.

Có thế mới mong rằng sự qui y của chúng ta có nhiều kết quả tốt đẹp cho mình và cho người, ở hiện tại cũng như về tương lai, và sự qui y ấy mới tránh khỏi cái tệ chỉ nói suông mà không thực hành vậy.

IV. KẾT LUẬN

Phật giáo với đạo lý Tam Qui có đủ diều kiện hoán cải tâm hồn của loài người, giới thiệu một con đường mới mẻ và đặt một lòng tin tưởng ở khả năng vô tận của loài người.

Là Phật tử, chúng ta cần phải chân chánh qui y Tam bảo, đem những gì trong trẻo cao đẹp nhất của chính mình mà hướng về Tam bảo, thể theo chánh nghĩa Tam Bảo làm chỗ y cứ cho hành vi ý nghĩ của chính mình. Có vậy mới là chơn chánh Phật tử, khỏi cô phụ lời dạy dỗ của đức Bổn Sư chúng ta mà cũng khỏi cô phụ tánh linh của chúng ta vậy.


[1]Chữ nghiệp đừng hiểu lầm theo nghĩa tạo tác thông thường.

--- o0o ---


Source:www.phatviet.net

Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com