Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Người con sinh từ hoa sen

09/03/201108:46(Xem: 5240)
15. Người con sinh từ hoa sen

TRUYỆN TÍCH VU LAN PHẬT GIÁO
Minh Châu sưu tầm, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Người con sinh từ hoa sen

Trích Soạn tập bách duyên kinh

Lúc ấy, Phật hóa độ qua các nơi trong nước Ma-kiệt-đề, đi đến bờ sông Hằng.

Cách bờ sông Hằng chẳng bao xa, có một cảnh tháp cổ điêu tàn, hư rã bởi những cơn mưa sa nắng táp, không ai trông nom, tu sửa. Chư tỳ-kheo thấy cảnh ấy, bạch hỏi Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chẳng hay tháp ấy là tháp chi? Vì sao lại hoang tàn như vậy, chẳng có ai trông nom tu sửa?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi nên chú ý lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói.

“Này chư tỳ-kheo! Về thuở quá khứ, vào khoảng giữa Hiền kiếp này, nước Ba-la-nại có một vị vua tên là Phạm-ma Đạt-đa. Vua ấy trị nước đúng theo chánh pháp, nên nhân dân sung túc, giàu có, mùa màng bội thu, dân cư đông đảo, yên ổn làm ăn, chẳng có những nạn binh đao, dịch bệnh xảy ra trong xứ, lại thêm trâu bò, gia súc đều đông đúc.

Vua ấy không có con. Người rất buồn bực, thành tâm mà cầu đảo các vị thần thánh, nhưng chưa thấy ứng nghiệm gì.

Thuở ấy, trong vườn hoa của vua, nhằm lúc hoa sen đua nở. Có một búp sen hiện lên, to lớn lạ thường. Búp sen ấy càng ngày càng lớn, đến khi nở ra, bên trong thấy một hài nhi xinh đẹp ngồi theo lối kiết già, có đủ ba mươi hai tướng quý và tám mươi vẻ đẹp, trong miệng tỏa ra hơi thơm của hoa ưu-bát-la, và các lỗ chân lông đều xuất ra mùi hương chiên-đàn.

Bấy giờ, người làm vườn tâu lên với vua. Vua nghe chuyện lấy làm vui mừng, liền ngự ra vườn hoa, có triều thần với các vị hậu phi theo hầu. Khi nhìn thấy đứa trẻ ấy thì vua bỗng vui mừng không tự chế được, lòng muốn chạy đến mà ôm lấy ngay. Đứa trẻ ấy vừa thấy vua liền lên tiếng nói rằng: “Vì đại vương thường cầu thỉnh, nên nay tôi đến đây làm con của ngài.”

Khi ấy, vua cùng với các vị hậu phi nghe lời ấy rồi thì thảy đều vui mừng, liền ẵm đứa bé về cung nuôi nấng.

Khi đứa trẻ dần dần lớn lên, mỗi khi đi đứng nơi đâu, chỗ bước chân đều nảy sinh lên những đóa hoa sen, còn các lỗ chân lông trong người thì tỏa ra mùi hương chiên-đàn thơm ngát, nhân đó mà đặt tên là Chiên Đàn Hương.

Bấy giờ, đứa trẻ ấy tự quan sát thấy những chỗ mình đi qua đều nảy sinh hoa sen, mới sanh thì tươi tốt, xinh đẹp, chẳng bao lâu liền héo úa, tàn lụi. Thấy như vậy rồi, liền tự suy nghĩ, thấy thân người cũng không bền chắc, giống như vậy không khác. Nhân đó mà ngộ hiểu được lý vô thường, chứng quả Phật Bích-chi. Ngay khi ấy thân thể liền bay được lên không trung, hiện đủ mười tám phép thần biến, rồi nhập Niết-bàn.

Khi ấy, vua và các vị hậu phi, cung nữ đều buồn thảm than khóc. Liền mang di thể đi thiêu hóa, thu nhặt xá-lỵ rồi lập tháp đặt vào mà thờ kính, cúng dường. Đó chính là ngôi tháp cổ mà ngày nay các ngươi thấy đó.”

Chư tỳ-kheo lại hỏi Phật: “Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng hay vị Phật Bích-chi ấy nhờ nhân duyên phước báo gì mà được có mùi thơm chiên-đàn tỏa ra từ nơi thân thể như vậy?”.

Phật nói với chư tỳ-kheo: “Các ngươi nên chú ý lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói.

“Này chư tỳ-kheo! Về thuở quá khứ, cách nay vô số kiếp, nước Ba-la-nại có Phật ra đời hiệu là Ca-la-ca Tôn-đà. Thuở ấy có một vị trưởng giả giàu có vô cùng, tài sản, châu báu không tính kể xiết. Khi ấy, ông trưởng giả chẳng may mất sớm, vợ ông với đứa con trai lại chẳng ở chung nhau. Người con trai ông trưởng giả ấy rất đam mê sắc dục, gặp một cô kỹ nữ đem lòng mê mệt. Cô đòi hỏi phải bỏ ra trăm lượng vàng thì cô mới tiếp một đêm. Cứ như vậy qua nhiều năm thì tài sản cạn kiệt hết. Ngày kia không còn đủ vàng cho cô nữa, cô không chịu tiếp. Người con ông trưởng giả mới tha thiết khẩn cầu, chỉ xin được gần cô một đêm nữa thôi. Cô kỹ nữ ấy nói rằng: ‘Nếu anh có thể kiếm được một bông hoa thật đẹp mà mang đến cho tôi, thì tôi chịu tiếp anh một đêm.’

“Khi ấy, người con ông trưởng giả mới suy nghĩ rằng: ‘Nay tài sản ta chẳng còn chi, đến tiền mua một cành hoa cũng không có nữa, lấy chi mà mang cho cô ấy.’ Rồi lại nghĩ rằng: ‘Nay trong tháp của nhà vua chắc chắn là có hoa đẹp, hay là ta vào đó lấy trộm một cành.’ Nghĩ rồi làm liền.

“Nơi tháp của nhà vua lại có một người giữ, chẳng thể nào vào nơi cửa trước được. Người con ông trưởng giả liền lẫn theo lối sau, ẩn mình chờ khi thuận tiện thì đột nhập được vào trong tháp, mới trộm lấy một cành hoa.

“Được hoa rồi mang đến chỗ cô kỹ nữ, cô liền tiếp một đêm. Ngờ đâu đến sáng hôm sau, thân thể bỗng nổi lên rất nhiều ung nhọt, đau nhức, khổ não không thể nói hết. Khi ấy mời các vị danh y đến xem bệnh liệu trị, đều nói rằng phải dùng loại chiên-đàn thơm quý mà tán bột rắc lên những chỗ ung nhọt ấy, mới có thể khỏi.

“Người con ông trưởng giả tự nghĩ: ‘Nay ta chẳng còn tiền bạc chi, lấy gì mua bột chiên-đàn quý ấy?’ Liền bán hết nhà cửa đất đai, được sáu trăm ngàn đồng tiền vàng, mang đi mua được sáu lượng bột chiên-đàn thơm.

“Khi ấy, ông suy nghĩ rồi không chịu trị bệnh nữa, nói với lương y rằng: ‘Nay bệnh của tôi thật là bệnh trong tâm, nếu chỉ trị ngoài thân thể làm sao dứt được?’

“Nói lời ấy xong, liền vào trong một ngôi tháp, phát lời nguyện lớn rằng: ‘Đức Như Lai ngày xưa tu đủ các hạnh khổ, thệ nguyện độ hết chúng sanh trong chốn khổ ách. Nay thân thể này của con đọa vào chổ khổ não không cùng, nguyện đức Thế Tôn đại từ lân mẫn cứu cho khỏi nạn.’ Phát lời nguyện như thế rồi, liền lấy số bột chiên-đàn ra hai lượng, rắc lên cúng dường tháp, hai lượng mang đền trả lại giá trị cành hoa, hai lượng chí tâm cúng dường Phật, cầu xin sám hối.

“Ngay khi ấy, ung nhọt tự nhiên dứt trừ, trong thân thể các lỗ chân lông đều xuất ra mùi hương thơm chiên-đàn. Nghe được mùi hương ấy, lòng vui không kể xiết.

“Từ khi phát nguyện và cúng dường như thế về sau, nhờ công đức ấy mà chẳng đọa các nẻo dữ, lại khi sinh ra trong cõi trời, cõi người, mỗi nơi đi qua đều nảy sinh hoa sen xinh đẹp, từ trong lỗ chân lông lại tỏa ra mùi thơm dễ chịu.

“Này chư tỳ-kheo! Người con ông trưởng giả ngày trước rắc bột chiên-đàn cúng dường trong tháp ấy, về sau chính là vị Bích-chi Phật thờ trong ngôi tháp cổ đó.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4649)
Không ai sinh ra đời lại không có mẹ có cha, nhưng trên thực tế cũng có một số ít người bất hạnh vẫn chưa một lần gặp cha thấy mẹ, có thể vì chiến tranh cha mẹ mất sớm, hay một lý do thương tâm nào khác. Nhưng dù gì đi nữa, không một người mẹ người cha nào lại không thương con. Tình cảm đó như thế nào, tôi nghĩ ai đã làm mẹ làm cha hiểu nhiều hơn bất cứ ai hết. Dù chúng ta có thể là kẻ bất hạnh, nhưng ý niệm đẹp về mẹ về cha vẫn còn thì chúng ta vẫn còn mẹ và cha, vẫn hân hạnh được làm người con có hiếu.
10/04/2013(Xem: 2943)
Mẹ Việt Nam Năm ngàn năm tổ quốc oai hùng Năm ngàn năm lịch sử huy hoàng Để muôn đời là núi là sông
10/04/2013(Xem: 9364)
Chỉ có một vài trang tài liệu trong Thư tịch Phật giáo Thái Lan (PGTL) nói về Phật giáo Việt Nam (PGVN), tuy nhiên với sự động viên của chư tôn đức và nhu cầu tìm hiểu về PGVN tại hải ngoại, chúng tôi bước đầu giới thiệu vài nét về những ngôi chùa thuộc Phật giáo Việt Nam hay còn gọi là Việt tông (Annamnikaya) tại xứ sở này.
10/04/2013(Xem: 5949)
Trong thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đâu xa, cứ nhìn các con vật thì biết: gần gủi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và hung bạo như con beo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình mang thai, con cái thường sống cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi con đực không cho lại gần.
09/04/2013(Xem: 2721)
Trước thời kỳ Phật giáo Tranh đấu cho quyền Tự do và Bình đẳng Tôn giáo năm 1963, tại Huế, có một danh xưng truyền thống phổ biến mà người bình dân cũng như hàng quý tộc Phật tử xứ này luôn dùng xưng hô với quý Thầy cao niên hàng danh tăng, đạo hạnh, đó là tiếng “Ôn”. Trong ngữ âm tiếng Huế, từ “Ôn” được phát âm một cách khiêm cung, trìu mến, trang trọng bằng âm hưởng “ôôn” nằm lưng chừng giữa ngữ âm cuối “ôn” trong tiếng Bắc và “ông” trong tiếng Việt phổ thông.
08/04/2013(Xem: 49320)
Mỗi thế hệ thi ca đều xuất hiện những tâm hồn đặc biệt của các nhà thơ qua từng thế hệ. Phần nhiều, tâm hồn xuất phát từ cảm tính của thi nhân qua mọi sinh hoạt của xã hội. Tập thơ Hoa Song Đường của nhà thơ Mặc Giang vượt ra ngoài cái vòng tâm tư hiện hữu xưa nay, nó mang tính chất triết lí nhân sinh, chứa chất mọi quy luật sinh tồn mà con người và vũ trụ cố gắng tranh đấu để bảo tồn lẽ sống cùng với vạn hữu.
08/04/2013(Xem: 4367)
Đức Phật có nhiều danh xưng khác nhau như Như lai, Thiện thệ, Chánh đẳng giác, Thế tôn, Đạo sư, bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến, bậc Toàn giác, v.v... Bậc Nhất thiết trí là danh xưng của chư Phật không phải là danh xưng của đức Phật Thích Ca.
08/04/2013(Xem: 18198)
Việc tự tứ và trai tăng trong ngày Vu lan, và qua đó mà báo hiếu cha mẹ, thì không cần phải nói đến nữa. Điều đáng nói là các chùa nên tổ chức hiệp kỵ cho Phật tử trong ngày Vu lan, sau khi tự tứ và trai tăng. Ngày nay kỵ giỗ của mỗi nhà cũng không thể còn như xưa
08/04/2013(Xem: 11922)
Con vẫn luôn nhớ lời Mẹ kể, lúc con còn bập bẹ trong nôi, từng giọt sữa ngọt từ tim Mẹ đã rót sang môi con, từng giọng hát ru ngọt ngào của Mẹ đã rót vào tâm hồn con. Thế là con đã thiếp ngủ đi trong tình thương cao vời đó. Khi con đầy tuổi, ôi! còn nụ cười nào đẹp hơn nụ cười của Mẹ ở phút giay nhìn con chập chững những bước đầu tiên!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567