Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Voi chúa nuôi dưỡng voi mẹ

09/03/201108:46(Xem: 5102)
6. Voi chúa nuôi dưỡng voi mẹ

TRUYỆN TÍCH VU LAN PHẬT GIÁO
Minh Châu sưu tầm, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Voi chúa nuôi dưỡng voi mẹ

Thời quá khứ, Bồ Tát tiền thân của đức Phật Thích-ca sanh làm voi chúa lông trắng, có đàn tùy tùng gồm có 84.000 con voi. Voi Bồ Tát nuôi dưỡng mẹ già đui mù trong khu rừng núi Himavanta.

Về sau, Bồ Tát voi chúa từ bỏ đàn voi, dẫn voi mẹ đến chân núi Candorana, để voi mẹ trong động gần hồ sen. Hằng ngày, Bồ Tát mang thức ăn về phụng dưỡng voi mẹ.

Khi ấy, một người thợ săn dân thành Bàrànasì bị lạc đường trong rừng sâu suốt 7 ngày, không biết đường trở về, đi lạc đến chỗ ở của voi chúa. Bồ Tát liền chở người này trên lưng của mình với tâm từ bi, đưa anh ta ra khỏi rừng đến địa phận của loài người mới thả xuống, rồi trở về chỗ ở của mình.

Người thợ săn vô ơn kia đi thẳng đến kinh thành xin vào yết kiến đức vua rồi tâu rằng:

– Tâu bệ hạ, kẻ tiện dân đi săn trong rừng có thấy một voi chúa lông trắng xứng đáng làm phương tiện của hoàng thượng.

Trong triều đình, bạch tượng của đức vua đã qua đời, chưa tìm ra bạch tượng khác. Khi nghe người thợ săn tâu, đức vua rất hoan hỉ, liền truyền lệnh cho người nài voi đi cùng với người thợ săn vào rừng bắt Bồ Tát voi chúa đem về nhốt trong chuồng voi. Chính đức vua đến ban những nắm cỏ ngon lành đến Bồ Tát voi chúa.

Bồ Tát voi chúa nghĩ rằng: “Không thấy voi mẹ, ta không chịu ăn.”

Đức vua truyền rằng:

– Này bạch tượng chúa, xin dùng cỏ ngon này.

Đức Bồ Tát không nhận, tâu rằng:

– Tâu đại vương, tôi có bổn phận nuôi dưỡng voi mẹ già đui mù. Voi mẹ nếu không có tôi nuôi dưỡng thì không thể sống được. Nay tôi không có voi mẹ thì không cần đến thứ gì trên đời này cả. Hôm nay đã là ngày thứ 7 voi mẹ của tôi không có một món ăn nào, voi mẹ của tôi sẽ ra sao?

Lắng nghe bạch tượng chúa tâu, đức vua vô cùng cảm kích trước tấm lòng hiếu thảo, liền truyền lệnh rằng:

– Này các ngươi, hãy thả bạch tượng chúa này trở về rừng ngay bây giờ.

Đức vua lại truyền rằng:

– Xin bạch tượng chúa trở về an toàn được sum họp đoàn tụ với voi mẹ già thân yêu và cùng tất cả thân quyến.

Bồ Tát bạch tượng chúa được giải thoát khỏi xiềng xích đôi chân, rồi thuyết pháp tế độ đức vua, dạy đức vua thực hành 10 pháp vương, trị vì đất nước bằng thiện pháp để đem lại sự an lành thịnh vượng trong nước cùng thần dân thiên hạ.

Bạch tượng khuyên đức vua rằng:

– Chớ nên buông thả, hãy cố gắng tinh tấn trong mọi thiện pháp.

Bồ Tát bạch tượng chúa được mọi người cúng dường, đi ra khỏi kinh thành Bàrànasì về gặp lại voi mẹ ngay trong ngày hôm ấy.

Đức vua có đức tin trong sạch nơi ân đức của bạch tượng chúa, truyền lệnh làm nhà gần hồ sen để cho bạch tượng chúa và voi mẹ ở, và hằng ngày cho người cung cấp đồ ăn cúng dường đến Bồ Tát bạch tượng và voi mẹ.

Về sau, khi voi mẹ của Bồ Tát qua đời, đức vua truyền lệnh làm lễ hoả táng thi thể xong mới hồi cung. Đức vua truyền lệnh cho xây cất chỗ ở cho 500 vị đạo sĩ ở triền núi ấy, hằng ngày đức vua hộ độ 4 thứ vật dụng đến các vị đạo sĩ.

Khi Bồ Tát bạch tượng chúa qua đời, đức vua làm lễ hoả táng xong, cho tạo một tượng bằng đá giống như Bồ Tát bạch tượng chúa làm kỷ niệm để tỏ lòng biết ơn Bồ Tát; và để dân chúng toàn vùng đến thăm viếng nhớ ơn Bồ Tát.

Những người con có hiếu nghĩa, biết công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, và biết đền ơn, biết lo phụng dưỡng cha mẹ dù là loài người hoặc loài thú, do phước thiện ấy, trong kiếp hiện tại được an lành hạnh phúc, tránh khỏi mọi tai hoạ, các bậc thiện trí đều tán dương ca tụng. Sau khi chết, kiếp vị lai do phước thiện phụng dưỡng cha mẹ ấy cho quả được tái sanh cõi thiện giới. Đó là tái sanh làm người cao quý trong cõi người, hoặc tái sanh làm chư thiên cao quý ở cõi trời Dục giới, hưởng mọi sự an lạc trên cõi trời ấy.

Ngược lại, người con nào bất hiếu, không biết ơn và không đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ, không biết lo phụng dưỡng cha mẹ già yếu, bệnh hoạn ốm đau, trong kiếp hiện tại người con ấy thường gặp điều bất hạnh, đau khổ, thường bị tai hoạ, các bậc thiện trí chê trách. Sau khi chết, kiếp vị lai do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh bị sa vào 1 trong 4 cõi ác giới. Đó là cõi địa ngục, a-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh, chịu khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

Cho nên, người con phải nên làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ, người con ấy không những được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc trong kiếp hiện tại, mà còn được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài trong kiếp vị lai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4654)
Không ai sinh ra đời lại không có mẹ có cha, nhưng trên thực tế cũng có một số ít người bất hạnh vẫn chưa một lần gặp cha thấy mẹ, có thể vì chiến tranh cha mẹ mất sớm, hay một lý do thương tâm nào khác. Nhưng dù gì đi nữa, không một người mẹ người cha nào lại không thương con. Tình cảm đó như thế nào, tôi nghĩ ai đã làm mẹ làm cha hiểu nhiều hơn bất cứ ai hết. Dù chúng ta có thể là kẻ bất hạnh, nhưng ý niệm đẹp về mẹ về cha vẫn còn thì chúng ta vẫn còn mẹ và cha, vẫn hân hạnh được làm người con có hiếu.
10/04/2013(Xem: 2945)
Mẹ Việt Nam Năm ngàn năm tổ quốc oai hùng Năm ngàn năm lịch sử huy hoàng Để muôn đời là núi là sông
10/04/2013(Xem: 9485)
Chỉ có một vài trang tài liệu trong Thư tịch Phật giáo Thái Lan (PGTL) nói về Phật giáo Việt Nam (PGVN), tuy nhiên với sự động viên của chư tôn đức và nhu cầu tìm hiểu về PGVN tại hải ngoại, chúng tôi bước đầu giới thiệu vài nét về những ngôi chùa thuộc Phật giáo Việt Nam hay còn gọi là Việt tông (Annamnikaya) tại xứ sở này.
10/04/2013(Xem: 5952)
Trong thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đâu xa, cứ nhìn các con vật thì biết: gần gủi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và hung bạo như con beo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình mang thai, con cái thường sống cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi con đực không cho lại gần.
09/04/2013(Xem: 2725)
Trước thời kỳ Phật giáo Tranh đấu cho quyền Tự do và Bình đẳng Tôn giáo năm 1963, tại Huế, có một danh xưng truyền thống phổ biến mà người bình dân cũng như hàng quý tộc Phật tử xứ này luôn dùng xưng hô với quý Thầy cao niên hàng danh tăng, đạo hạnh, đó là tiếng “Ôn”. Trong ngữ âm tiếng Huế, từ “Ôn” được phát âm một cách khiêm cung, trìu mến, trang trọng bằng âm hưởng “ôôn” nằm lưng chừng giữa ngữ âm cuối “ôn” trong tiếng Bắc và “ông” trong tiếng Việt phổ thông.
08/04/2013(Xem: 49459)
Mỗi thế hệ thi ca đều xuất hiện những tâm hồn đặc biệt của các nhà thơ qua từng thế hệ. Phần nhiều, tâm hồn xuất phát từ cảm tính của thi nhân qua mọi sinh hoạt của xã hội. Tập thơ Hoa Song Đường của nhà thơ Mặc Giang vượt ra ngoài cái vòng tâm tư hiện hữu xưa nay, nó mang tính chất triết lí nhân sinh, chứa chất mọi quy luật sinh tồn mà con người và vũ trụ cố gắng tranh đấu để bảo tồn lẽ sống cùng với vạn hữu.
08/04/2013(Xem: 4370)
Đức Phật có nhiều danh xưng khác nhau như Như lai, Thiện thệ, Chánh đẳng giác, Thế tôn, Đạo sư, bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến, bậc Toàn giác, v.v... Bậc Nhất thiết trí là danh xưng của chư Phật không phải là danh xưng của đức Phật Thích Ca.
08/04/2013(Xem: 18213)
Việc tự tứ và trai tăng trong ngày Vu lan, và qua đó mà báo hiếu cha mẹ, thì không cần phải nói đến nữa. Điều đáng nói là các chùa nên tổ chức hiệp kỵ cho Phật tử trong ngày Vu lan, sau khi tự tứ và trai tăng. Ngày nay kỵ giỗ của mỗi nhà cũng không thể còn như xưa
08/04/2013(Xem: 11931)
Con vẫn luôn nhớ lời Mẹ kể, lúc con còn bập bẹ trong nôi, từng giọt sữa ngọt từ tim Mẹ đã rót sang môi con, từng giọng hát ru ngọt ngào của Mẹ đã rót vào tâm hồn con. Thế là con đã thiếp ngủ đi trong tình thương cao vời đó. Khi con đầy tuổi, ôi! còn nụ cười nào đẹp hơn nụ cười của Mẹ ở phút giay nhìn con chập chững những bước đầu tiên!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567