Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Phụng dưỡng cha mẹ thoát khỏi nạn chết

09/03/201108:46(Xem: 6902)
2. Phụng dưỡng cha mẹ thoát khỏi nạn chết

TRUYỆN TÍCH VU LAN PHẬT GIÁO
Minh Châu sưu tầm, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Phụng dưỡng cha mẹ thoát khỏi nạn chết

Trong thời quá khứ, Bồ Tát Suvannasàma là tiền thân đức Phật Thích-ca, là vị đạo sĩ phụng dưỡng cha mẹ. Cha mẹ ngài đều là hai vị đạo sĩ mù, trong khu rừng lớn gần bờ sông Migasammatà.

Vào thời kỳ ấy, đức vua Pìliyakkha trị vì kinh thành Bàrànasì. Đức vua có thú săn nai ăn thịt; một mình ngự vào rừng núi Himavanta, nhìn thấy dấu chân nai trên đường đi lấy nước uống, nước dùng của đạo sĩ Suvannasàma. Đức vua liền ẩn mình một nơi, nhìn thấy Bồ Tát cùng với một đàn nai đi chung quanh trên đường lấy nước trở về vào lúc buổi chiều. Vua giương cung bắn mũi tên có tẩm thuốc độc trúng Bồ Tát. Bồ Tát nằm quỵ xuống đau đớn quằn quại, cất tiếng than vãn thống thiết dịu dàng; chỉ nghĩ đến cha mẹ già đui mù không ai hái trái cây chín, đem nước uống, nước dùng về phụng dưỡng.

Lắng nghe lời than vãn, đức vua nghĩ rằng: vị đạo sĩ này, dù bị bắn trúng mũi tên độc đau đớn quằn quại mà không có một lời trách móc ta, chỉ nghe lời than vãn dịu dàng êm ái.

Đức Vua liền ngự đến, nhìn thấy Bồ Tát đang đau khổ, làm cho vua cảm động, ân hận trào nước mắt.

Một thiên nữ tên Bahusundarì thường trú ở núi Gandhamàdana đã từng là thân mẫu của Bồ Tát vào kiếp thứ 7 trong quá khứ, vì tình mẹ thương con nên thường nghĩ đến Bồ Tát. Ngày hôm ấy, vị thiên nữ nhìn thấy Bồ Tát đang trong cơn bất tỉnh, xem xét biết rõ mọi việc xảy ra, nghĩ rằng: “Nếu ta không đến nơi ấy để cứu giúp, thì Bồ Tát sẽ chết, cha mẹ Bồ Tát không có vật thực, nước uống cũng sẽ chết, và đức vua Pìliyakkha sẽ ân hận đến nỗi cũng phải băng hà. Nhưng nếu ta đến cứu giúp, yêu cầu đức vua gặp cha mẹ Bồ Tát, dẫn cha mẹ ngài đến cầu nguyện bằng lời chân thật, và chính ta cũng cầu nguyện bằng lời chân thật. Do những lời chân thật ấy sẽ giúp Bồ Tát thoát khỏi tử thần, đồng thời cha mẹ của Bồ Tát có đôi mắt sáng trở lại. Đức vua nghe Bồ Tát thuyết pháp, khi trở về trị vì đất nước bằng thiện pháp, lúc băng hà, do thiện nghiệp sẽ được tái sanh lên cõi trời Dục giới.

Thiên nữ nghĩ vậy rồi liền hiện đến đứng trên hư không nói rằng:

–– Tâu đại vương, người nên thay Bồ Tát Sàma phụng dưỡng cha mẹ của Bồ Tát. Như vậy, đại vương sau khi chết, nhờ thiện nghiệp ấy sẽ được tái sanh cõi thiên giới.

Nghe lời khuyên của thiên nữ, đức vua liền ngự đến tìm gặp cha mẹ Bồ Tát, kể lại mọi sự việc xảy ra. Cha mẹ Bồ Tát tâu rằng:

– Tâu đại vương, nếu như vậy xin đại vương từ bi dẫn hai chúng tôi đến tận nơi gặp Suvannasàma.

Cha mẹ Bồ Tát đến nơi sờ vào thân mình của Suvannasàma nguyện bằng lời chân thật rằng:

– Sàma thường hành thiện pháp, phụng dưỡng cha mẹ, do lời chân thật này, xin cho chất độc trong thân của Sàma hãy tiêu tan.

Nguyện xong lời chân thật, thân của Bồ Tát có thể bắt đầu cử động. Tiếp theo vị thiên nữ nguyện rằng:

– Tôi trú tại núi Gandhamàdana trải qua thời gian lâu rồi, không thương yêu ai hơn Sàma con tôi. Do lời chân thật này, xin cho chất độc trong thân của Sàma hãy tiêu tan.

Vừa dứt lời nguyện chân thật của vị thiên nữ, những điều phi thường xảy ra cùng một lúc:

 Bồ Tát Suvannasàma bình phục như xưa.

 Cha mẹ của Bồ Tát có đôi mắt sáng trở lại.

 Mặt trời vừa rạng đông.

 Cả 4 người đều có mặt trong am của đạo sĩ, do năng lực của vị thiên nữ.

Khi ấy, Bồ Tát liền thuyết pháp tế độ đức vua rằng:

– Này đại vương, người nào biết lo phụng dưỡng cha mẹ bằng thiện pháp, chư thiên hộ trì người ấy.

Người nào biết lo phụng dưỡng cha mẹ bằng thiện pháp, các bậc thiện trí tán dương ca tụng người ấy trong đời này; người ấy sau khi từ bỏ cuộc đời này, do thiện nghiệp ấy sẽ tái sanh lên cõi thiên giới hưởng mọi sự an lạc.

Này đại vương, nếu muốn kiếp sau tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc, thì nên thực hành 10 Pháp vương (Ràjadhamma) như sau:

1. Này đại vương, xin đại vương phụng dưỡng hoàng thái hậu và thái thượng hoàng bằng thiện pháp trong đời này; do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.

2. Này đại vương, xin đại vương có tâm từ bi tế độ hoàng tử, công chúa và hoàng hậu bằng thiện pháp trong đời này, do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.

3. Này đại vương, xin đại vương đối xử với các quan trong triều bằng thiện pháp trong đời này, do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.

4. Này đại vương, xin đại vương có tâm từ bi tế độ voi, ngựa, và quân lính bằng thiện pháp trong đời này, do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.

5. Này đại vương, xin đại vương đối xử với thần dân trong kinh thành và ngoài kinh thành bằng thiện pháp trong đời này, do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.

6. Này đại vương, xin đại vương đối xử với thần dân các vùng xa và biên giới bằng thiện pháp trong đời này, do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.

7. Này đại vương, xin đại vương hộ độ chư sa-môn, bà-la-môn một cách cung kính trong đời này, do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.

8. Này đại vương, xin đại vương có tâm từ, bi đối với đàn thú như: nai, chim... bằng thiện pháp trong đời này, do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.

9. Này đại vương, xin đại vương thường thực hành thiện pháp trong đời này rồi, chính thiện pháp ấy đem lại sự an lạc trong đời này, nhờ thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.

10. Này đại vương, đức vua trời Inda cùng chư thiên, chư phạm thiên hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời đều nhờ quả thiện pháp. Vậy xin đại vương chớ nên dễ duôi trong mọi thiện pháp.

Sau đó, Bồ Tát giải thích cho đức vua nghe về 10 Pháp vương như sau:

Phụng dưỡng hoàng thái hậu, thái thượng hoàng là đức Vua mỗi ngày đều thức dậy sớm, tự mình đem nước rửa mặt, súc miệng dâng đến hai người, mang vật thực dâng đến hai người.

Tế độ hoàng tử, công chúa là đức vua phải dạy dỗ hoàng tử, công chúa tránh xa mọi việc ác, cố gắng làm mọi việc thiện, cho học hành văn võ song toàn, đến khi trưởng thành, tìm nơi xứng đáng cho kết hôn, ban cho của cải, sự nghiệp.

Tế độ hoàng hậu là phải tấn phong địa vị xứng đáng, không coi thường, giao cho quyền lớn trong nội cung, ban cho những đồ trang sức.

Đối xử với các quan trong triều bằng 4 pháp tế độ:

 Ban thưởng người đáng ban thưởng.

 Nói lời đáng yêu mến.

 Nói điều đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài.

 Sống hoà mình với các quan, vui cùng hưởng, khổ cùng chịu.

Từ, bi tế độ voi, ngựa, quân lính là, đối với ngựa già yếu cho nghỉ ngơi, cho ăn uống đầy đủ, chăm nom săn sóc chúng; và những người lính già cho về hưu trí, hưởng tiền trợ cấp hàng tháng cho đến chết.

Đối với thần dân trong kinh thành và ngoài kinh thành, không nên áp dụng sưu cao thuế nặng, làm cho thần dân cực khổ.

Đối với thần dân các vùng xa và biên giới, khi gặp cảnh hạn hán đói khổ, nên phát chẩn cứu giúp.

Hộ trì chư sa-môn, bà-la-môn là nên cúng dường 4 thứ thiết yếu: vật thực, y phục, chỗ ở, thuốc trị bệnh.

Đối với các đàn thú như đàn nai, đàn chim... các loài thú vật có 4 chân, 2 chân... không nên sát hại, nên tôn trọng sanh mạng của muôn loài.

Hành thiện pháp, đó là 10 thiện nghiệp: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời thô tục, không nói lời vô ích, không tham lam, không thù hận, có chánh kiến; hành 10 phước thiện: bố thí, giữ giới, hành thiền....

Chư thiên, đức vua trời Inda, chư phạm thiên, hưởng mọi sự an lạc cõi trời, đều do nhờ quả thiện pháp.

Dục giới thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời Dục giới.

Sắc giới thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời Sắc giới.

Vô sắc giới thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời Vô sắc giới.

Cuối cùng Bồ Tát khuyên đức vua rằng:

“Này đại vương, vì vậy, xin đại vương chớ nên buông thả trong mọi thiện pháp.”

Lắng nghe Bồ Tát thuyết pháp xong, đức vua vô cùng hoan hỉ, phát sanh đức tin trong sạch nơi Bồ Tát, xin thọ trì ngũ giới, rồi xin phép từ giả về cung. Từ đó về sau, vua giữ gìn ngũ giới, nghiêm chỉnh thực hành 10 pháp vương mà Bồ Tát đã dạy, trị vì đất nước bằng thiện pháp cho đến khi băng hà. Sau khi bằng hà, do thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc.

Bồ Tát và cha mẹ của ngài thực hành thiền định, chứng đắc các bậc thiền. Sau khi chết, do bậc thiền sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi Sắc giới Phạm thiên, hưởng sự an lạc và tuổi thọ lâu dài trên cõi trời Sắc giới Phạm thiên ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4733)
Trong Phật giáo, ngày Vu Lan - Rằm Tháng Bảy là ngày lễ báo hiếu, tưởng nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục của các đấng sinh thành, và cũng đã trở thành ngày truyền thống báo hiếu của dân tộc Việt Nam hiện nay. Đến ngày Vu Lan, ai nấy đều sắm sửa hương hoa tưởng nhớ ông bà cha mẹ. Mặc dù sinh hoạt của ngày này vẫn còn mang hình thức lễ nghi tôn giáo, nhưng đó là ngày gợi nhớ về bổn phận làm con làm cháu đối với ông bà cha mẹ.
10/04/2013(Xem: 4493)
Đức Phật dạy, được sinh làm người là một phước báu lớn. Bởi vì trong muôn loài, con người có nhiều tình thương yêu, hiểu biết hơn các loài khác. Đức Khổng Tử nói: Nhân chi sơ, tính bản thiện - Mỗi em bé sinh ra đều có tính thiện. Em bé lớn lên thành người tốt hay xấu đều tùy thuộc vào môi trường xã hội, sự giáo dục của gia đình và học đường.
10/04/2013(Xem: 4602)
Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất là đôi bạn tâm giao, thời niên thiếu cùng học đạo Bà La Môn, vì không tìm được chân lý ở đạo này nên cả hai ông đồng quy y Phật giáo. Chỉ 7 ngày sau quy y Phật, Mục Kiền Liên đắc quả A La Hán, được Thế Tôn khen là thần thông đệ nhất trong hàng mười đại đệ tử lớn của Phật.
10/04/2013(Xem: 8094)
Trung nguyên ngày hội vọng Vu lan Bến giác chiều thu sóng đạo ngàn Những ai là kẻ mang ơn nặng Đều vận lòng thành đón Vu lan.
10/04/2013(Xem: 4881)
Trên hàng loạt những thềm đá ở ngọn núi Tohamsan rậm rạp cây xanh, ngôi chùa Bulguksa (có nghĩa là Đất Phước) mọc lên an nhiên như mặc thị một niềm tin sấu sắc về miền đất hiếu sinh an lành, như để hiện diện hết sức tinh tế về một nền nghệ thuật Phật giáo của một dân tộc…
10/04/2013(Xem: 4760)
Văn bút "Bông hồng cài áo" của thượng tọa Thích Nhất Hạnh, trở thành một kiệt tác và được truyền thừa rộng rãi ở Việt Nam. Cho tới ngày nay, đã hơn 20 năm, chưa có một bản văn nào nói về mẹ được mọi giới ưa chuộng, hoặc thay thế được. Lời lẽ trong bài "Bông hồng cài áo", không phải súc tích ở lời văn chải chuốt, triết lý cầu kỳ. Sở dĩ, được mến mộ, vì bản văn vừa khế lý lẫn khế cơ. Đạo hiếu là đạo của con người và ai cũng muốn trả ơn cha mẹ.
10/04/2013(Xem: 4595)
Hằng năm cứ đến ngày rằm tháng bảy, khi trời đất chuyển sang thu, thì trong mỗi trái tim của người con Phật xuất gia thường in đậm bằng 2 dấu ấn. Đó là ngày lễ Tự tứ, kết thúc 3 tháng An cư kiết hạ và dịp lễ báo hiếu đối với ân đức sinh thành. Nói đến sự báo hiếu, chúng ta không thể không nhớ đến hình ảnh hiếu thảo chấn động thiên địa của tôn giả Đại hiếu Mục-kiền-liên.
10/04/2013(Xem: 5183)
Rất phổ biến là các huyền thoại khai nguyên tộc người, những sáng thế luận của các tôn giáo đều giống nhau ở chỗ sáng tạo ra một cặp nam nữ đầu tiên ở buổi hồng hoang xa xăm của lịch sử. Một người đàn ông, một người đàn bà và con cái của họ là hình ảnh của tế bào gia đình nguyên sơ mà ngày nay, trong xã hội hiện đại, đang trở thành mô hình thời thượng. Thật ra, trong lịch sử chúng ta đều biết cấu trúc gia đình có những quy mô lớn hơn: bầy đàn, thị tộc, bộ lạc, tông tộc, cộng đồng làng xóm…
10/04/2013(Xem: 4079)
Thầy kính thương của con ! Thấm thoát mà ngày tháng qua mau , con đi xa đã gần ba tháng và một mùa hạ nữa cũng sắp đi qua . Trời vào thu thật buồn , nắng hiu hắt, gió heo may báo hiệu lễ Vu Lan đã về . Tâm trạng của đứa con xa nhà nào có khác gì một kẻ mồ côi, chiều xuống sao nghe lòng buồn chi lạ!
10/04/2013(Xem: 4567)
Boong boong… Hỡi hồn hoang Trong chiều vàng màu lửa Tàn tạ tiêu điều Trong một kiếp cô liêu !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]