TỔNG KẾT TOÀN BỘ......................................................... 757
ĐẠO VÀ ĐỜI........................................................................ 789
---o0o---
Xin đọc tiếp TẬP VIII cuối cùng :
Phần1. “Bát Nhã Ba La Mật” phần, Hội thứ XVI, ĐBN.
HỘI THỨ XVI
(Bố cục)
16. Hội thứ XVI: Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, 8 quyển. Nội dung đức Phật ở trong hội Trúc lâm, thành Vương Xá nói cho Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh nghe về giải thoát Bát Nhã vô sở đắc. Pháp Uyển Châu Lâm và Khai Nguyên Thích Giáo Lục nói, nguyên văn bản tiếng Phạm của hội này gồm 2500 kệ tụng, tương đương tiếng Phạm hiện còn (Suvikràntavikràmiparipfcchà), bản dịch Tây tạng chia làm 7 chương. Trong 16 hội nêu trên đây, đã có một số hội được ấn hành nguyên bản tiếng Phạm và bản dịch Tây tạng, như các hội thứ I, thứ IV, thứ VII, thứ IX v.v... Sau khi Kinh này được truyền dịch, Ngài Huyền Tắc ở chùa Tây Minh có viết lời tựa cho mỗi hội trong 16 hội, Ngài Khuy Cơ ở chùa Đại Từ Ân soạn “Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Lý Thú Phần Thuật Tán” 3 quyển, Ngài Nguyên Hiểu người Tân la (Triều tiên) thì soạn “Đại Tuệ Độ Kinh tông yếu” 1 quyển. Ngoài ra còn có “Đại Bát Nhã Kinh Quan Pháp” 6 quyển của Ngài Đại ẩn đời Tống, “Đại Bát Nhã Kinh Cương Yếu” 10 quyển của Ngài Cát Đỉnh đời Thanh v.v... Rồi đến “Đại Tạng Kinh Cương Mục Chỉ Yếu Lục” quyển 1, quyển 2 thượng, “Đại Tạng Thánh Giáo Pháp Bảo Tiêu Mục” quyển 1, Duyệt Tạng Tri Tân quyển 16 đến quyển 23 v.v... cũng đều có nói về cương yếu của Kinh này. Số hội, số kệ tụng, quyển thứ, số phẩm, cùng bản dịch khác, người dịch của Kinh này được đồ biểu như sau: [X. Đại đường nội điển lục Q.5; Cổ kim dịch Kinh đồ kỷ Q.4; Khai nguyên thích giáo lục Q.8; Đại đường cố tam tạng pháp sư Huyền Trang hành trạng; Chí nguyên pháp bảo khám đồng tổng lục Q.1; Phật giáo Kinh điển khái thuyết; Tân Phật giáo thứ 9 mục 7 (Độ biên Hải húc, Đại Bát Nhã Kinh khái quan); Tông giáo nghiên cứu tân thứ 2 đoạn 4 (Can tả Long trường, Bát Nhã Kinh chi chư vấn đề); Nguyên thủy Bát Nhã Kinh chi nghiên cứu].
---o0o---
Tựa Hội thứ XVI
Đường Sa Môn Huyền Tắc chế tác tại chùa Tây Minh
Vì là lý thù thắng phải nhóm lại để làm chủ phương tiện, phẳng phắn về một hướng mới chuyên được Đạo. Thế sao chẳng tiêu dung tưởng chơn tế, thôi bỏ chấp lấy huyễn trần đi? Mặc dù Thí độ là sùng chuộng, Giới độ là nghiêm cấm, Nhẫn độ là điều phục, Tiến độ là nhanh bén, nhưng cuối cùng ngộ nơi Thật Huệ, nhờ lời chơn thuyên, hầu mong khai mở mê muội kẻ rờ voi, lại còn có dịp gặp gỡ của Cò ao nữa vậy.
Sở dĩ đấy nên:
Hào quang phóng dài năm trượng làm dấu vết, thăng lên thừa thứ nhất; nặn đúc hai bên (tức giáo hóa) để hé mở chỗ nhiệm mầu cho thấu suốt, nghĩ nghị bốn câu. Mong nhờ tiếng tăm Đấng Vắng Lặng mà cắt mầm tà kiến, thời mờ ám của cỏ cây rớt rụng như sao rơi; vin lưới nghi ngờ đã tích tụ từ lâu, thời mây mỏng ngăn che cũng bị vẹt trống. Rõ thấy tánh không mà thường tu, giác ngộ sanh giả mà hằng làm lợi. Bốn loại ma bởi đó mà tung chạy loạn, sáu pháp độ nhờ đấy tiến đi từng phần có thứ lớp.
Thi độ bởi đó, vật chẳng bỏ, khó xả mà năng xả được.
Giới độ bởi đó, chẳng kiểm thúc, khó giữ mà năng giữ được.
Nhẫn độ bởi đó, không chịu được mà năng kham nơi bất kham.
Tiến độ bởi đó, không hành được mà phát nơi bất phát.
Định độ bởi đó, chẳng vắng mà ba tướng bất tướng.
Huệ độ bởi đó, chẳng soi mà ba luân bất luân.
Cho nên:
Thể đạt được thời động mà càng tịch, sai lầm thời tịch mà càng động. Pháp chẳng tức ly nơi phi pháp, hành đâu nhất dị nơi vô hành. Kìa giác chứng được vậy, chơn tâm hỗn hòa mà nhất quán. Kìa xuất sanh được vậy, Pháp bảo biền liên là muôn khu biệt.
Vậy nên mới có:
Nào là hai trí, ba thân; nào là bốn biện, năm nhãn, sáu thông; nào là bảy giác, tám chánh, nào là chín định, mười lực; lại thêm mười tám bất cộng, tám mươi tùy hảo, mười hai duyên trí, hai mươi không tâm. Đều là kéo dài bởi Hy đa, trọn thành nơi La nhã. Tụ lại là tiêu biểu Ngọc hào, mà lưu tản ra là lời dạy dỗ của Kim khẩu.
Kể khắc thành tám quyển, vốn chẳng phải tái dịch, là vì phiên dịch chẳng sáng suốt bị sai lầm, trông mong việc xương thịnh các Hội ngày mai.
Than ôi! Kiếp đã qua mà chẳng phụng trì, nay nhìn lại lời khen thù thắng, chép nêu để lại tiếng tăm. Mong Đức Bổn Từ thổi ra bay bổng lăng xăng; nhờ Đấng Thánh Trí, kính đưa đầu đội lấy. Hầu mong sao viên diệu bảo gia truyền đến tay người nắm lấy hòn linh châu này, để tẩy sạch khách trần dơ bẩn nơi tám phương, và dội trận mưa phải thời cho tươi nhuần muôn lá.
Chốn Thần cung cực hưởng phúc lành, ngôi Đế hậu được diên niên trường thọ. Phúc lành thấu đến dân đen, Pháp giáo thêm phần mở mang sâu rộng. Ngõ hầu những kẻ sĩ hẹp hòi cởi mở ngưng kiết khi kinh sợ; khách tăng thượng mạn dứt hủy báng những lúc thốt lời thất độ.
Trang tôi, nếu tự mình chẳng đã từng trải qua hằng sa kiếp phụng trì, nhiều đời quá khứ lóng nghe, thời ngày nay làm sao được giở quyển mà biết hối hận, vong lời mà vào thưởng thức ấy ư? Thương buồn lắm vậy thay!
LỜI GIỚI THIỆU
“Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” của Ni sư Thích Nữ Giới Hương đã được ra mắt lần đầu vào năm 2008, và sau gần 10 năm đã được tái bản 4 lần và lần thứ 5, năm 2018 được tái bản cùng một lúc ở hai nơi, trong nước do NXB Hồng Đức xuất bản và ở hải ngoại do NXB Ananda Viet Foundation xuất bản phát hành trên mạng Amazon toàn cầu.
Sa Di Oai Nghi Giản Lược (pdf) Thích Phước Thái,
Thành Kính Đảnh Lễ:
*Thập phương chư Phật chứng minh.
* Nhị vị Tổ sư Liên Trì và Hoằng Tán chứng giám.
* Cố Đại lão Hòa thượng Thượng Hành Hạ Trụ.
* Cố Đại lão Hòa thượng Thượng Phước Hạ Huệ.
Ngưỡng bái vọng quý Ngài chứng minh và gia hộ
Thành kính Tri Ân:
* Thâm ân các đấng sanh thành giáo dưỡng.
* Thâm ân chư vị tôn túc Tăng Ni, các bậc Thầy và Thiện hữu tri thức
* Đại Đức Thích Phước Viên và Đại Đức Thích Phước Quảng đã tận tình giúp cho phần kỹ thuật trình bày và in ấn.
* Sư Cô Thích Phước An và phật tử Lệ Phượng đã chỉnh sửa bản in.
* Quý liên hữu trong hai đạo tràng: Phước Huệ và Quang Minh cùng quý ân nhân phật tử xa gần đã phát tâm hỷ cúng tịnh tài ấn tống.
Xin tất cả nhận nơi đây lòng tri ân sâu xa và chân thành của soạn giả.
Nguyện đem công đức n
An Cư Lạc Đạo (tuyển tập sách) “Dường như thế giới càng văn minh tiến bộ bao nhiêu, thì tâm thức của con người càng hoang mang và lạc lõng bấy nhiêu. Sự hoang mang đó có lẽ cũng giống như sự hoang mang của Thần Tú (một con người rất uyên bác) khi Ngũ Tổ bảo phải làm một bài kệ khác để trình cái sở chứng của mình: "Tâm trung hoảng hốt, thần tứ bất an, du như mộng trung, hành tọa bất lạc" (Trong lòng hoảng hốt, thần tứ chẳng an, dường như giấc mộng, đi ngồi chẳng vui).
Nghĩa là bất an và đau khổ vì cái sở học uyên bác của mình.
Có lẽ nhân loại đang đứng trước thế kỷ 21 này, nên khởi sự học lại từ đầu cái mà Lục Tổ Huệ Năng đã bị mắng là "nhĩ giá lạp lão bất tri" (con người man rợ này chẳng biết chi hết), thì mới mong tìm được một nền văn minh đích thực cho chính mình chăng?”
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.