Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

21. Phẩm “Tu Học”

08/01/202107:59(Xem: 8043)
21. Phẩm “Tu Học”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-527

 

 XXI. PHẨM “TU HỌC”

Giữa quyển 564, Hội thứ V, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

Tóm lược: 

 

(Ai là người học Bát Nhã bị trở ngại, ai không bị trở ngại?)

 

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật, ngày đêm siêng năng thường không lìa bỏ thì lúc ấy quyến thuộc của ma như bị tên găm vào tim, run sợ lo buồn, hoảng hốt, ngồi đứng chẳng yên.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật, ngày đêm tinh chuyên sẽ đạt đến Niết bàn, thì lúc ấy quyến thuộc của ma đi đến chỗ của Bồ Tát, biến làm các sự việc đáng sợ, muốn làm cho thân tâm Bồ Tát kinh sợ, khủng khiếp, mà thối thất Bồ đề tâm.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Chẳng phải các Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật đều bị ác ma làm rối loạn hết cả. Nếu các Bồ Tát nào đời trước nghe Bát Nhã sâu xa này không có lòng tin hiểu, hủy báng, chê bai, thì các Bồ Tát ấy khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát nghe Bát Nhã sâu xa, không có lòng tin hiểu, hủy báng, chê bai, thì các Bồ Tát ấy khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn, thì các Bồ Tát này khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát xa lìa bạn lành, bị bạn ác khống chế, chẳng nghe nghĩa thú sâu xa của Bát Nhã. Do chẳng nghe nên chẳng thấy, chẳng biết làm thế nào để tu học Bát nhã Ba la mật, thì các Bồ Tát này khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát bị pháp tà khống chế, khi ấy ác ma liền nghĩ: Bồ Tát này là bạn của ta, làm cho vô lượng chúng sanh xả bỏ chánh pháp, làm cho nguyện của ta được viên mãn, thì các Bồ Tát này tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát khi nghe thuyết Kinh Bát Nhã sâu xa, bảo với các Bồ Tát khác: “Bát nhã Ba la mật này lý thú sâu xa, khó tin khó hiểu, như thế thì biên chép, thọ trì, đọc tụng làm gì? Nguồn gốc này chính ta còn chẳng thể đạt được, huống là những người trí cạn phước mỏng kia”, thì các Bồ Tát này khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát khinh chê Bồ Tát khác, nói thế này: “Ta có thể an trụ hạnh chơn thật viễn ly, còn các ông đều chẳng có”. Bấy giờ ác ma vui mừng hớn hở thì các Bồ Tát này khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát tự ỷ danh học và sở hành công đức Đỗ đa Đầu đà, mà khinh miệt các chúng Bồ Tát tu các pháp thắng thiện khác, thường khen mình và hủy báng chê bai các vị khác. Họ thật không có các hành tướng trạng của Bất thối chuyển mà cho mình có, nên phát sanh phiền não. Khi ấy, ác ma rất vui mừng, nghĩ: Bồ Tát này làm cho cung điện và quốc độ của ta chẳng trống không, mà còn tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Khi ấy ác ma giúp thần lực cho người kia, làm cho càng tăng thêm uy lực biện tài, do đó được nhiều người tin nhận lời của người kia. Nhân đó, khuyên phát đồng ác kiến như người kia. Ác kiến đồng rồi, học theo pháp tà của người kia. Học theo pháp tà rồi, phiền não thêm mạnh, vì tâm điên đảo nên phát sanh ba nghiệp, luôn nhận quả chẳng đáng ưa. Do nhân duyên này thêm nẻo ác, làm cho cung điện của ma càng thêm đông đảo. Cho nên ác ma vui mừng hớn hở, muốn làm điều gì đều tùy ý tự tại, thì các Bồ Tát này tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ Tát cầu Thanh văn, Độc giác thừa, chê bai, gây gỗ, phỉ báng nhau thì bấy giờ ác ma nghĩ: Nay Bồ Tát này tuy xa Bồ đề nhưng chẳng xa lắm, tuy gần nẻo ác nhưng chẳng gần lắm. Nếu khi Bồ Tát cùng với thiện nam thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, chê bai gây gỗ, phỉ báng nhau thì khi ấy ác ma nghĩ: Hai Bồ Tát này rất xa Bồ đề, rất gần nẻo ác. Nghĩ xong, ma rất vui mừng hớn hở và cố làm tăng thêm uy lực của chúng tăng để cho hai bên bạn bè đấu tranh luôn chẳng dứt, khiến vô lượng, vô biên hữu tình khác đều rất nhàm chán Đại thừa. Các Bồ Tát này khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát chưa được thọ ký Bất thối chuyển Bồ đề, đối với các Bồ Tát đã được thọ ký Bất thối chuyển Bồ đề sanh tâm tổn hại, đấu tranh, khinh miệt, chê bai, mắng nhiếc, phỉ báng, tùy theo các Bồ Tát này phát khởi bao nhiêu tâm niệm chẳng lợi ích thì thối lui bấy nhiêu kiếp từng tu thắng hạnh, trải qua bấy nhiêu đời xa lìa bạn lành, lại chịu bấy nhiêu đời sanh tử ràng buộc. Nếu chẳng xả bỏ tâm đại Bồ đề thì phải trãi qua bấy nhiêu số kiếp mặc áo giáp hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, rồi sau mới được bù đắp lại bấy nhiêu công đức.

Bấy giờ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này đã phát khởi tâm ác sanh tử tội khổ, thì cần phải luân hồi trải qua bấy nhiêu đời, hay ở nửa chừng cũng được ra khỏi? Các Bồ Tát này bị thối lui thắng hạnh thì cần phải siêng năng trải bấy nhiêu kiếp không lúc nào gián đoạn, rồi sau đó mới được bù đắp hay là ở nửa chừng có thể phục hồi lại như trước?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Ta vì Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn nói cách xuất tội và phục hồi lại thiện pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ Tát sau khi tạo tội này mà tâm không hổ thẹn, ôm ấp ác tâm không bỏ, chẳng chịu như pháp phát lồ sám hối, thì Ta nói: Hạng người ấy không thể ở nửa chừng được xuất tội khổ và phục hồi thiện pháp. Nếu các Bồ Tát sau khi tạo tội này càng sanh lòng hổ thẹn, chẳng ôm ấp tâm ác, tìm người pháp phát lồ sám hối, nghĩ thế này: Ta nay đã được thân người vốn khó được, sao lại để cho khởi lên tội lỗi như thế, làm cho mất lợi hành lớn! Ta nên làm lợi ích cho tất cả hữu tình, sao lại làm tổn hại chúng! Ta nên cung kính tất cả hữu tình như tôi tớ thờ chủ, sao lại kiêu mạn khinh miệt, hủy nhục chúng! Ta nên nhận chịu tất cả sự đánh đập, trách mắng của tất cả hữu tình, sao lại đem lời nói và hành động tàn bạo đáp lại chúng! Ta nên hòa giải tất cả hữu tình, làm cho kính mến nhau, sao lại đưa ra lời lẽ hung ác để chống chọi chúng! Ta nên chịu đựng tất cả hữu tình dẫm đạp mãi mãi như đường sá hay như chiếc cầu, sao lại trở lại lăn nhục chúng! Ta cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, vì cứu vớt khổ lớn sanh tử cho hữu tình, làm cho đạt được Niết bàn an vui rốt ráo, sao lại muốn đem khổ đến cho chúng? Từ nay cho đến tận đời vị lai, ta nên như si, như câm, như mù, như điếc, đối với các hữu tình không phân biệt. Giả sử có bị chém đứt đầu, chân tay, hoặc móc mắt, cắt tai, xẻo mũi, cắt lưỡi, cưa xẻ tất cả chi thể thân phần, đối với hữu tình kia, ta quyết không khởi ác. Nếu ta khởi ác thì liền thối thất tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chướng ngại cho sự cầu Nhất thiết trí trí, không thể làm lợi ích an vui cho hữu tình. Này Khánh Hỷ nên biết! Ta nói các Bồ Tát này nửa chừng có thể thoát khỏi tội và phục hồi lại thiện pháp, chẳng cần phải trải qua nhiều kiếp số như thế, chẳng bị ác ma làm rối loạn và mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Các chúng Bồ Tát cùng với những vị cầu Thanh văn, Độc giác thừa như thế, chẳng nên giao thiệp. Giả sử cùng giao thiệp thì chẳng nên cùng ở chung. Giả sử cùng ở chung với họ thì chẳng nên cùng họ bàn luận, xác quyết, lựa chọn nghĩa lý, chớ nhân việc này để tâm phát sanh giận dữ, hoặc lại phát sanh lời lẽ thô ác, chướng ngại quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng hư hoại vô biên pháp Bồ Tát hạnh.

 

(Thế nào là đồng học?)

 

Nếu các Bồ Tát cùng thiện nam thiện nữ trụ Bồ Tát thừa cùng ở chung thì nên xem nhau như bậc Đại sư, cung kính, tôn trọng, vâng lời. Lại nghĩ: Chúng Bồ Tát kia là bạn lành chơn tịnh của chúng ta, đồng ngồi một thuyền, đồng đi một đường, đồng đến một chỗ, đồng một sự nghiệp, đồng học một thời, đồng học một chỗ và đồng học một giáo pháp. Nếu học như thế thì không khác nhau.

Lại nghĩ: Nếu Bồ Tát kia trụ ý nghĩ xen tạp thì ta sẽ không học chung với Bồ Tát ấy. Nếu Bồ Tát kia lìa ý nghĩ xen tạp thì ta sẽ thường cùng học tập với họ. Nếu có Bồ Tát khi học như thế thì mau chứng sở cầu Nhất thiết trí trí.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát vì tận nên học, vì bất sanh nên học, vì viễn ly nên học, vì diệt nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát khi học như thế thì chẳng phải học Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do duyên nào, học như thế thì chẳng phải học là Nhất thiết trí trí?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi nghĩ sao? Phật chứng tướng như rất viên mãn nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Như vậy, tướng như có thể gọi là tận cho đến diệt chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Vì như tướng là vô tướng, không thể nói là tận cho đến diệt vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thế nên, Bồ Tát khi học như thế chẳng phải là học Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát chẳng vì tận nên học, cho đến chẳng vì diệt nên học, thì khi học như thế là học Nhất thiết trí trí, cũng là học Bát nhã Ba la mật, cũng học Địa, Lực, Vô sở úy v.v... của Phật và vô biên Phật pháp khác.

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ Tát khi học như thế là đạt đến chỗ rốt ráo của tất cả sự học. Thiên ma, ngoại đạo chẳng thể chinh phục; dứt trừ các điều ác, viên mãn các điều lành. Phần ít hữu tình có thể học như thế. Thế nên Bồ Tát muốn dự vào số hữu tình giác ngộ hiếm hoi ấy thì phải siêng năng tu học phương tiện thiện xảo Bát Nhã Ba la mật thậm thâm.

 

Sơ giải:

 

1. Phần đầu phẩm này hỏi ai là người có thể học Bát nhã Ba la mật không trở ngại và ai là người học Bát nhã Ba la mật có thể gặp nhiều chướng ngại?

Bồ Tát nào liên tục ngày đêm siêng năng tu tập, thọ trì không xa lìa Bát Nhã thì không bị các ác ma làm nhiễu loạn, làm cho kinh sợ có thể thối thất đạo Bồ đề. Ngược lại, Bồ Tát nào không có lòng tin hiểu, hủy báng, chê bai Bát nhã Ba la mật, lại bị bạn ác, bị tà pháp khống chế thường hay khinh chê các Bồ Tát khác thì khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, nếu các Bồ Tát chưa được thọ ký Bất thối chuyển Bồ đề, đối với các Bồ Tát đã được thọ ký Bất thối chuyển sanh tâm tổn hại, đấu tranh, khinh miệt, chê bai, mắng nhiếc, phỉ báng. Tùy theo các Bồ Tát này phát khởi bao nhiêu tâm niệm xấu ác thì thối lui bấy nhiêu kiếp từng tu thắng hạnh, trải qua bấy nhiêu đời xa lìa bạn lành, chịu bấy nhiêu đời sanh tử ràng buộc. Nhưng, nếu chẳng xả bỏ tâm đại Bồ đề thì phải trãi qua bấy nhiêu số kiếp mặc giáp bị đại công đức, siêng tu thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, thì sau này mới được bù đắp lại bấy nhiêu tội lỗi đã tạo.

Nếu các Bồ Tát sau khi tạo tội này mà tâm không hổ thẹn, ôm ấp ác tâm không bỏ, chẳng chịu như pháp phát lồ sám hối, thì hạng người ấy không thể ở nửa chừng được xuất tội khổ và phục hồi thiện pháp. Nếu các Bồ Tát sau khi tạo tội sanh lòng hổ thẹn, chẳng ôm ấp ác tâm, lại tìm người phát lồ sám hối, thì mới có thể phục hồi lại thiện pháp.

 

2. Các Bồ Tát có hạnh nguyện tốt thì không nên giao thiệp với các Bồ Tát xấu ác. Nếu vì một lý do nào đó phải sống chung đụng với hạng xấu ác này thì cũng không nên bàn luận tranh cải với họ vì có thể gây giận dữ rồi phát sanh lời lẽ thô tục xấu ác, chướng ngại quả vị Vô Thượng Bồ đề, cũng như hủy hoại vô biên Bồ Tát hạnh. Nhưng nếu may mắn được ở chung với những vị có đạo hạnh thì nên kính lễ như đạo sư.

Còn đối với những người đồng học, đồng sở nguyện, cùng chí hướng thì phải có thái độ như thế nào? Kinh bảo:

“Nếu các Bồ Tát cùng thiện nam thiện nữ trụ Bồ Tát thừa cùng ở chung thì nên xem nhau như bậc Đại sư, cung kính, tôn trọng, vâng lời. Lại nghĩ: Chúng Bồ Tát kia là bạn lành chơn tịnh của chúng ta, đồng ngồi một thuyền, đồng đi một đường, đồng đến một chỗ, đồng một sự nghiệp, đồng học một thời, đồng học một chỗ và đồng học một giáo pháp. Nếu học như thế thì không khác nhau.

… Nếu Bồ Tát kia trụ ý nghĩ xen tạp thì ta sẽ không học chung với Bồ Tát ấy. Nếu Bồ Tát kia lìa ý nghĩ xen tạp thì ta sẽ thường cùng học tập với họ. Nếu có Bồ Tát khi học như thế thì mau chứng sở cầu Nhất thiết trí trí”.

Phần cuối phẩm này nói về học Nhất thiết trí trí và học “tướng như”. Nhiều pháp hội trước đã thuyết nhiều về các vấn đề này rồi, chúng ta gần như thuộc lòng. Nên không cần lặp lại nữa!

 

Điều cần nhớ trong phẩm này là đừng dùng tâmtận diệt ly biến”mà học Nhất thiết trí trí. Trong phẩm “Tùy Hỉ Hồi Hướng”cũng nói đến cụm từ này. Nếu đem tâm này tùy hỉ thì chẳng mang ích lợi gì./.

 

---o0o---

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/08/2013(Xem: 13664)
Thiền tông truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ VI, do Tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma). Đến thế kỷ thứ VII, Thiền tông truyền sang Việt Nam, do Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci). Thế là, Thiền tông có mặt ở Việt Nam sau Trung Hoa một thế kỷ. Đến thế kỷ thứ XII, Thiền tông mới truyền vào Nhật Bản. So Việt Nam với Nhật Bản, Thiền tông truyền bá ở Việt Nam trước Nhật Bản đến năm thế kỷ. Song ở Trung Hoa, Nhật Bản về sử liệu Thiền tông rất dồi dào, còn ở Việt Nam thật là nghèo nàn đáo để. Sự nghèo nàn ấy, không phải Thiền tông Việt Nam truyền bá kém cỏi hơn các nước Phật giáo bạn. Bởi vì nhìn theo dòng lịch sử, từ thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ thứ XIV, chúng ta thấy Thiền tông đã nắm trọn vẹn tinh thần truyền bá Phật giáo và cả văn hóa dân tộc Việt Nam. Những sách vở của người Việt Nam sáng tác hoặc ghi chép lại, không kém gì các nước Phật giáo bạn. Nào là Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, Liệt Tổ Truyện, Nam Minh Thiền Lục, Thánh Đăng Thực Lục, Liệt Tổ Yếu Ngữ, Kế Đăng Lục, Tam Tổ T
14/08/2013(Xem: 32458)
Muốn ngồi thiền, trước chúng ta phải biết lý thuyết, sau mới thực hành được. Tại sao chúng ta phải ngồi thiền? Phật dạy trong bốn oai nghi chúng ta đều tu được hết. Bốn oai nghi là đi, đứng, nằm và ngồi.
29/07/2013(Xem: 20969)
1:- Quá trình hình thành và phát triển: - Nguồn gốc Tự viện, ngày tháng thành lập PHV, người tiếp quản ban đầu. - Thành phần Ban Giám Viện, Ban Giáo Thọ, Hội Đồng Chứng Minh, số lượng Học Tăng, nhà Trù, cơ sở vật chất v.v… các thời kỳ, trước 1963, sau 1963 đến 1975
17/07/2013(Xem: 15442)
Đọc hết 93 trang của Phúc trình A/5630, lại được xác nhận bởi Kết luận của Biên bản Buổi họp thứ 1280 của Đại Hội đồng LHQ, rồi sau đó được Giáo sư Roger Stenson Clark tham chiếu trong tác phẩm A United Nations High Commissioner For Human Rights của ông, ta có thể khẳng định rằng Phúc trình A/5630 không hề kết luận rằng chính phủ Diệm "không có đàn áp tôn giáo" như cái thế lực đã thù nghịch với Phật giáo từ thời Cố đạo Alexandre de Rhodes gọi Phật Thích Ca bằng “thằng” trong Phép Giảng Tám Ngày, tìm cách xuyên tạc tài liệu để mạo hóa lịch sử từ mấy năm nay.
13/07/2013(Xem: 9834)
Kỷ Yếu Trường Hạ Minh Quang 2013
03/07/2013(Xem: 11761)
Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp. Có thể nói, Giới pháp là kim chỉ nam, là những nguyên tắc sinh động để hướng dẫn đời sống của Tăng sĩ từ tục đến chân, từ phàm đến Thánh, từ cõi mê mờ đến chân trời giác ngộ.
29/06/2013(Xem: 18101)
1963 – 2013! Năm mươi năm đã trôi qua… Một nửa thế kỷ là khoảng thời gian đủ dài để có thể soát xét và suy nghiệm xem từ biến cố đó ta rút ra được những bài học lịch sử gì.
29/06/2013(Xem: 18090)
Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”.
29/06/2013(Xem: 20744)
Đạo Phật chỉ xem hành động là có, còn tất cả đều không. Chống, là chống hành động, không chống con người. Cho nên sự chống đối ấy, từ đầu, mang tính văn hóa, đạo đức, chứ không phải chính trị.
25/05/2013(Xem: 16141)
Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn do HT Thích Nhất Hạnh và Hội Đồng Giáo Thọ Làng Mai biên soạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]