Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Phẩm “Hiện Tướng Lưỡi” (Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã; Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)

29/04/202012:16(Xem: 10255)
06. Phẩm “Hiện Tướng Lưỡi” (Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã; Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

duc the ton 4a

PHẨM “HIỆN TƯỚNG LƯỠI”

Phần sau của quyển 10, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Tướng Lưỡi” quyển thứ 02, Kinh MHBNBLM)

 

Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng






 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên đại thiên thế giới. Lại từ tướng lưỡi phóng ra vô lượng vô số các thứ sắc quang, khắp soi thế giới mười phương chư Phật hằng hà sa thảy. Khi ấy, trong các cõi Phật phương Đông cùng chín phương khác, có vô lượng vô số Bồ Tát xem thấy hào quang ấy rồi, đều đến chỗ Phật của cõi mình hỏi rằng:

- Đây là thần lực của ai và vì duyên cớ gì mà hiện điềm lành này?

Các Đức Phật mười phương đều bảo các Bồ Tát rằng:

- Thiện nam tử! Từ đây qua phương Tây có thế giới Phật tên là Kham Nhẫn, Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nay vì chúng Bồ Tát thuyết Đại Bát nhã Ba la mật, nên hiện tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên đại thiên thế giới. Lại từ tướng lưỡi phóng ra vô lượng vô số các thứ sắc quang, khắp soi thế giới mười phương. Nay thấy quang minh đây tức là do tướng lưỡi Phật kia hiện ra vậy.

Khi nghe việc như vậy, các Bồ Tát mười phương, rất đổi vui mừng đều bạch Phật cõi mình cho phép đến cõi Ta Bà dự lễ hội. Các Bồ Tát mười phương được chư Phật cõi đó chấp thuận, đồng thời bảo các Bồ Tát ấy nhớ mang lễ vật đủ loại đến cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni, nhất nhất… giống như ở phẩm “Duyên Khởi” đã nói trên.

Bấy giờ, các chúng Bồ Tát và bầu đoàn ở mười phương thế giới, nhờ thần lực của chư Phật cõi mình đến thế giới Ta Bà dâng lễ vật cúng dường, đảnh lễ Phật Thích Ca Mâu Ni xong, đứng sang một bên.

Khi ấy, chúng trời trong cõi Tứ đại thiên vương, cho đến trời Tha hóa tự tại; trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu cánh, đều cầm vô lượng các loại hương, tràng hoa, đó là hương xoa, hương bột, hương đốt, hương cây, hương lá, các thứ hương trộn lẫn; vòng hoa duyệt ý, vòng hoa sanh loại, vòng hoa long tuyền và cầm vô lượng các thứ hoa trời như: Hoa Ốt bát la, hoa Bát đặc ma, hoa Câu mỗ đà, hoa Bôn trà lợi, hoa Vi diệu âm, hoa Đại vi diệu âm và vô lượng các thứ hoa trời khác, đến chỗ đức Phật này, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đảnh lễ chân Phật, lui đứng một bên.

Phật dùng thần lực khiến các phẩm vật do các chúng đại Bồ Tát ở trong mười phương và vô lượng các trời khác trong cõi Dục, cõi Sắc cõi sắc, bay vọt lên không trung, kết thành đài, lọng, che khắp cõi Phật ở Tam thiên đại thiên thế giới; bốn góc của đỉnh đài, đều có tràng phan báu; đài, lọng, có ngọc anh lạc rũ xuống; phan đẹp, lụa tốt, ngọc báu, hoa lạ… đủ các loại trang nghiêm, thật dễ ưa thích!

Khi ấy, trong chúng hội của Thích Ca Mâu Ni Phật có mười vạn ức người đều đứng dậy chấp tay thưa:

- Đời vị lai, chúng con thảy nguyện được làm Phật, tướng hảo oai đức như Thế Tôn ngày nay. Cõi nước trang nghiêm, Thanh văn, Bồ Tát, Thiên nhân chúng hội được chuyển pháp luân thảy đều như Phật!

Bấy giờ, Thế Tôn biết đại chúng nầy chí tâm nơi pháp bất sanh, bất diệt, bất xuất, bất tác đã được pháp nhẫn nên đức Phật chúm chím cười, diện môn lại một lần nữa phóng các thứ sắc quang.

Tôn giả A Nan liền từ tòa đứng dậy chắp tay cung kính thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nhân gì duyên gì, mà Thế Tôn mỉm cười?

Phật bảo A Nan:

- Mười vạn ức người nầy đã được vô sanh nhẫn(1), sáu mươi tám trăm ức đại kiếp sau sẽ được thành Phật nơi kiếp Hoa Tích, đồng hiệu là Giác Hoa Như Lai".

 

Thích nghĩa:

(1). Vô sanh nhẫn hay Vô sanh pháp nhẫn: Biết các pháp không sanh vì vậy mà không mong cầu nắm bắt. Theo kinh Nhân vương, có 5 bậc nhẫn: 1- Phục nhẫn (trước thập địa); 2- Tín nhẫn (sơ địa đến tam địa); 3-. Thuận nhẫn (các địa thứ tư, năm, sáu); 4- Vô sanh nhẫn (các địa bảy, tám, chín); 5- Tịch diệt nhẫn (thập địa, Phật địa). Từ điển Phật Quang giải thích Vô sanh pháp nhẫn theo định nghĩa của Thầy tăng Nhật tên Liễu Huệ, dẫn lời giải thích của Ngài Nghĩa Tịch, người nước Tân la về tam pháp nhẫn, mà pháp nhẫn thứ ba là “vô sanh pháp nhẫn” có vẻ thích thú nên chúng tôi ghi thêm: Bồ Tát không thấy có pháp sanh, không thấy có pháp diệt; nếu không sanh thì không diệt, không diệt thì không hết, không hết thì lìa cấu, lìa cấu thì không hoại, không hoại thì chẳng động, chẳng động thì vắng lặng, đó là Vô sanh pháp nhẫn. (Trước đã thích nghĩa rồi, bây giờ lặp lại với ý mới).

 

Lược giải:

 

Phẩm này giống phẩm “Duyên Khởi”, quyển 01, ĐBN. Phẩm “Duyên Khởi”, Phật phát hào quang từ khắp châu thân, soi khắp cõi Tam thiên đại thiên thế giới, đồng thời Phật dùng thần lực làm cho cả Đại Thiên thế giới đều chấn động sáu cách. Đó là dấu hiệu Phật Thích Ca sắp thuyết Đại Bát Nhã mà Kinh cho là “duyên khởi”, mở đầu cho cuộc thuyết pháp trường kỳ 22 năm về Đại Bát Nhã này.

Nhưng phẩm này, Phật hiện tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên đại thiên thế giới. Rồi từ tướng lưỡi phóng ra muôn ngàn vạn ức sắc quang (hào quang) chiếu soi khắp các cõi nước mười phương. Đây cũng nói là duyên khởi, báo cho chúng sanh toàn cõi Tam thiên đại thiên thế giới: Phật Thích Ca Mâu Ni ở cõi Sa Bà sắp thuyết Đại Bát Nhã. Không biết tại sao có sự trùng hợp của hai phẩm này. Vì sau khi khai hội, diễn tả trong phẩm “Duyên Khởi”, Phật đã thuyết pháp về “Học Quán”, về “Tương Ưng”, “Chuyển Sanh” và “Khen Ngợi Thắng Đức”, trước khi nói đến phẩm “Hiện Tướng Lưỡi”.

Phẩm này không có nghĩa là báo cho khắp thế giới 10 phương Phật sắp thuyết giảng Đại Bát Nhã Ba La Mật, mà Phật cốt nói lên lời chân thật đối với những ai có phúc duyên muốn nghe Bát nhã Ba la mật.

Kinh đã diễn nói đầy đủ tướng lưỡi của Phật ở phẩm “Duyên Khởi”, nên ở đây không cần nhắc lại nữa./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/08/2013(Xem: 13664)
Thiền tông truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ VI, do Tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma). Đến thế kỷ thứ VII, Thiền tông truyền sang Việt Nam, do Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci). Thế là, Thiền tông có mặt ở Việt Nam sau Trung Hoa một thế kỷ. Đến thế kỷ thứ XII, Thiền tông mới truyền vào Nhật Bản. So Việt Nam với Nhật Bản, Thiền tông truyền bá ở Việt Nam trước Nhật Bản đến năm thế kỷ. Song ở Trung Hoa, Nhật Bản về sử liệu Thiền tông rất dồi dào, còn ở Việt Nam thật là nghèo nàn đáo để. Sự nghèo nàn ấy, không phải Thiền tông Việt Nam truyền bá kém cỏi hơn các nước Phật giáo bạn. Bởi vì nhìn theo dòng lịch sử, từ thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ thứ XIV, chúng ta thấy Thiền tông đã nắm trọn vẹn tinh thần truyền bá Phật giáo và cả văn hóa dân tộc Việt Nam. Những sách vở của người Việt Nam sáng tác hoặc ghi chép lại, không kém gì các nước Phật giáo bạn. Nào là Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, Liệt Tổ Truyện, Nam Minh Thiền Lục, Thánh Đăng Thực Lục, Liệt Tổ Yếu Ngữ, Kế Đăng Lục, Tam Tổ T
14/08/2013(Xem: 32456)
Muốn ngồi thiền, trước chúng ta phải biết lý thuyết, sau mới thực hành được. Tại sao chúng ta phải ngồi thiền? Phật dạy trong bốn oai nghi chúng ta đều tu được hết. Bốn oai nghi là đi, đứng, nằm và ngồi.
29/07/2013(Xem: 20969)
1:- Quá trình hình thành và phát triển: - Nguồn gốc Tự viện, ngày tháng thành lập PHV, người tiếp quản ban đầu. - Thành phần Ban Giám Viện, Ban Giáo Thọ, Hội Đồng Chứng Minh, số lượng Học Tăng, nhà Trù, cơ sở vật chất v.v… các thời kỳ, trước 1963, sau 1963 đến 1975
17/07/2013(Xem: 15442)
Đọc hết 93 trang của Phúc trình A/5630, lại được xác nhận bởi Kết luận của Biên bản Buổi họp thứ 1280 của Đại Hội đồng LHQ, rồi sau đó được Giáo sư Roger Stenson Clark tham chiếu trong tác phẩm A United Nations High Commissioner For Human Rights của ông, ta có thể khẳng định rằng Phúc trình A/5630 không hề kết luận rằng chính phủ Diệm "không có đàn áp tôn giáo" như cái thế lực đã thù nghịch với Phật giáo từ thời Cố đạo Alexandre de Rhodes gọi Phật Thích Ca bằng “thằng” trong Phép Giảng Tám Ngày, tìm cách xuyên tạc tài liệu để mạo hóa lịch sử từ mấy năm nay.
13/07/2013(Xem: 9834)
Kỷ Yếu Trường Hạ Minh Quang 2013
03/07/2013(Xem: 11761)
Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp. Có thể nói, Giới pháp là kim chỉ nam, là những nguyên tắc sinh động để hướng dẫn đời sống của Tăng sĩ từ tục đến chân, từ phàm đến Thánh, từ cõi mê mờ đến chân trời giác ngộ.
29/06/2013(Xem: 18101)
1963 – 2013! Năm mươi năm đã trôi qua… Một nửa thế kỷ là khoảng thời gian đủ dài để có thể soát xét và suy nghiệm xem từ biến cố đó ta rút ra được những bài học lịch sử gì.
29/06/2013(Xem: 18090)
Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”.
29/06/2013(Xem: 20744)
Đạo Phật chỉ xem hành động là có, còn tất cả đều không. Chống, là chống hành động, không chống con người. Cho nên sự chống đối ấy, từ đầu, mang tính văn hóa, đạo đức, chứ không phải chính trị.
25/05/2013(Xem: 16141)
Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn do HT Thích Nhất Hạnh và Hội Đồng Giáo Thọ Làng Mai biên soạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]