Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Phẩm “Tín Thọ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

15/08/202009:30(Xem: 9398)
26. Phẩm “Tín Thọ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

Phẩm Tín Thọ_photo



PHẨM “TÍN THỌ”

Phần giữa quyển 426, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm "Chư Thiên Tử" cuối Q.81 đến đầu Q.82, Hội thứ I)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước




 


 

Tóm lược:

 

(Thiện Hiện vì hữu tình nào vui thuyết pháp nào?)

 

Khi ấy, các Thiên tử lại khởi nghĩ này: Tôn giả Thiện Hiện nay muốn vì những hữu tình nào vui thuyết pháp nào?

Cụ thọ Thiện Hiện biết ý của các Thiên tử, liền bảo rằng :

- Các Thiên tử! Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng vui thuyết pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Các Thiên tử! Như vậy, kẻ nghe đối với sở thuyết không nghe, không hiểu, không sở chứng vậy.

Khi ấy, các Thiên tử liền hỏi lại rằng:

- Người nói, người nghe và pháp thuyết ra đều như huyễn như hóa như mộng ư ?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Như vậy! Như các ngươi đã nói: Hữu tình như huyễn, vì kẻ như huyễn, nói pháp như huyễn. Hữu tình như hóa, nói pháp như hóa. Hữu tình như mộng, nói pháp như mộng.

Các Thiên tử! Chỗ thấy ngã cho đến kiến giả như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy sắc cho đến thức như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn cho đến ý như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy sắc cho đến pháp như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn thức cho đến ý thức như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn xúc cho đến ý xúc như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nội không cho đến vô tánh tự tánh không như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng như huyễn như hóa như mộng. Như vậy, cho đến chỗ thấy quả Dự lưu cho đến quả A la hán như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy Độc giác Bồ đề và Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như huyễn như hóa như mộng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Nay Tôn giả chỉ nói ngã thảy sắc cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như huyễn như hóa như mộng, hay cũng nói Niết bàn như huyễn như hóa như mộng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Các Thiên tử! Chẳng những chỗ nói ngã, sắc cho đến Vô Thượng Bồ đề như huyễn như hóa như mộng, mà cả đến Niết bàn tôi cũng nói như huyễn, như hóa, như mộng. Các Thiên tử! Nếu còn pháp nào cao hơn Niết bàn, tôi cũng nói là như huyễn như hóa như mộng. Vì sao? Vì huyễn hóa mộng cùng tất cả pháp cho đến Niết bàn thảy đều không hai, không hai phần vậy. (Q.426, ĐBN)

Bấy giờ, Xá Lợi Tử, Đại Mục Liên, Chấp Đại Tạng Mãn Từ Tử, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Ca Diếp Ba thảy các Đại Thanh văn và vô lượng trăm ngàn Bồ Tát hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Đã thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm, khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu như thế, thì ai có thể tín thọ được?

Khi ấy, A Nan Đà nghe lời hỏi kia, liền bạch các Đại Thanh văn và các Bồ Tát rằng: Các Bồ Tát Bất thối chuyển đối với Bát nhã Ba la mật đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đây, có khả năng thâm tín thọ trì được. Lại có vô lượng các A la hán đã thấy Thánh đế, hiểu rõ tận nguồn các pháp sâu xa, sở nguyện đã mãn, đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đã nói đây cũng có khả năng tín thọ.

Lại có vô lượng Bồ Tát quá khứ đã ở trăm ức chỗ Phật gần gũi cúng dường, phát thệ rộng lớn, trồng nhiều cội đức, đối với Bát Nhã thậm thâm đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đây cũng có khả năng tín thọ được.

Lại có vô lượng các thiện nam, thiện nữ quá khứ đã ở vô số chỗ Phật phát thệ rộng lớn, trồng các căn lành, huệ thông, được bạn lành nhiếp thọ, đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu cũng khả năng tín thọ được. Vì sao? Vì những người như thế chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt sắc cho đến thức. Cũng chẳng đem sắc cho đến thức mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa.

Như vậy, chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ, bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật, nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn; quả Dự lưu cho đến quả A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hữu vi giới vô vi giới. Cũng chẳng đem nhãn cho đến vô vi giới mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa.

Bởi nhân duyên này, những người như thế đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đây đều có khả năng tín thọ được.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo các Thiên tử rằng:

- Như vậy! Đã nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu, chẳng phải chỗ suy tầm, vượt cảnh suy tầm, trong ấy thật không có kẻ năng tín thọ. Vì sao? Các Thiên tử! Vì trong đây không có pháp để hiển thị, đã thật không pháp hiển thị, nên kẻ tín thọ thật chẳng đắc được.

Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Trong giáo pháp Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã nói đây, sao không rộng nói pháp tương ưng với Tam thừa, nghĩa là nói pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa? Sao chẳng rộng nói Bồ Tát đạo nhiếp thọ các Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến Thập địa, tức là nói bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật; bốn niệm trụ cho đến 18 pháp Phật bất cộng; tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn? Sao chẳng rộng nói việc thù thắng của thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát, tức là nói Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật này siêng năng tu hành, nên tùy theo chỗ mà hóa sanh, không mất thần thông tự tại du hý, khéo thông đạt được vô lượng pháp môn; từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; tùy theo sở nguyện ưa thích các thứ căn lành, đều có khả năng tu hành chóng được viên mãn; ở chỗ chư Phật, lắng nghe Chánh pháp, thọ trì cho đến khi đắc Vô Thượng Bồ đề, thường chẳng quên mất; hằng ở trong thắng định lìa tâm tán loạn, lấy đây làm duyên nên được biện (tài) vô ngại, biện không dứt hết, biện ứng, biện nhanh, biện không sai lầm, biện các điều diễn thuyết đầy đủ nghĩa vị, biện tất cả thế gian rất thắng diệu?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Như vậy! Thật như đã nói, đối với giáo pháp Bát Nhã thậm thâm đây, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói giáo pháp tương ưng Tam thừa. Cho đến rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát. Cho đến khiến được biện tài tất cả thế gian rất thắng diệu. Lấy vô sở đắc làm phương tiện, lấy vô sở đắc làm phương tiện đối với những pháp nào? Đó là đối với ngã cho đến người thấy, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối sắc cho đến thức lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn cho đến ý lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn thức cho đến ý thức lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn xúc cho đến ý xúc lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng lấy vô sở đắc làm phương tiện. Như vậy cho đến đối Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Vì nhân duyên gì đối với giáo pháp thậm thâm Bát nhã Ba la mật đây lấy vô sở đắc làm phương tiện rộng nói pháp tương ưng Tam thừa? Vì nhân duyên gì đối với giáo pháp thậm thâm Bát nhã Ba la mật đây lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát cho đến khiến được biện tất cả thế gian rất thắng diệu?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Xá Lợi Tử! Bởi vì nội không cho đến vô tánh tự tánh không, nên đối với giáo pháp thậm thâm Bát Nhã đây lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp tương ưng Tam thừa, rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát cho đến khiến được biện tất cả thế gian rất thắng diệu

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Tín Thọ” của Hội thứ II mở đầu với câu nói của Thiện Hiện: “Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng vui thuyết pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Các Thiên tử! Như vậy, kẻ nghe đối với sở thuyết không nghe, không hiểu, không sở chứng vậy”.  

 

1. Như thế nào là: “Hữu tình như huyễn, như hóa như mộng…

nói pháp như huyễn, như hóa, như mộng?

 

Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 28, “Huyễn Nhân Thính Pháp”, tập 3, quyển 54, trả lời rằng:

“Trước đây đã nói rõ rằng hết thảy pháp đều là như huyễn, như hóa, chẳng có người thuyết, chẳng có người nghe, chẳng có người hiểu, chẳng có người biết. Do vậy, chư Thiên khởi tâm nghi, nghĩ rằng nếu như vậy thì hạng người nào mới nghe được pháp mà ngài Tu Bồ Đề đang thuyết?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Người như huyễn, như hóa mới nghe được pháp này. Chư Thiên lại nghĩ rằng: Hạng người nghe pháp mà ngài Tu Bồ Đề đang thuyết phải như thế nào, mới có thể tương ưng, mới có thể tín thọ, dẫn đến mới có thể tu hành được đạo quả?

Ngài Tu Bồ Đề khẳng định: Chỉ có người như huyễn, như hóa mới nghe được pháp tôi đang thuyết, và họ sẽ tương ưng tu tập thành đạo quả.

Hỏi: Người như huyễn, như hóa chẳng có các tâm và tâm sở, họ chẳng có tín thọ được pháp. Như vậy thì nói pháp để làm gì?

Đáp: Đây chẳng phải khiến người huyễn hóa nghe pháp, mà chỉ muốn dạy người tu hành phải dụng tâm “vô sở đắc” để hành các pháp, ví như huyễn hóa chẳng có nghe, chẳng biết, chẳng chứng vậy.

Lại nữa, vì ngã và chúng sanh như huyễn, như mộng, nên người thuyết pháp cũng như huyễn như mộng. Người thuyết pháp đã là như huyễn, như mộng, thì người nghe pháp, người biết pháp, người hiểu pháp cũng như huyễn, như mộng.

Lại nữa, sắc…, dẫn đến Niết Bàn cũng là như huyễn, như mộng.

Sở dĩ, Kinh so sánh người tu hành như huyễn như hóa như mộng vì mục đích của Kinh Bát Nhã muốn dạy người tu hành phải dụng tâm “vô sở đắc” để hành các pháp, ví như huyễn hóa chẳng có nghe, chẳng biết, chẳng chứng vậy”. Vã lại, muốn có chứng có đắc là còn sở đắc, thì không thể tương ưng với Bát Nhã nữa.

Tất cả triết lý của phẩm “Huyễn Nhân Thính Pháp” nằm ở chỗ này.

 

2. Thế nào là: Kẻ nghe đối với sở thuyết không nghe,

không hiểu, không sở chứng vậy?

 

Tại sao “chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt sắc cho đến thức? Cũng chẳng đem sắc cho đến thức mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa”?

Bởi vì, sắc cho đến thức là pháp thế gian, là Tục đế. Đó là pháp vô thường, biến hoại, sanh diệt, chỉ do duyên hòa hợp, giả có v.v… không thể đem pháp ấy mà so với Thánh pháp.

Không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng, xa lìa là pháp xuất thế gian, là Chân đế, là đệ nhất nghĩa.

Kinh cũng bảo rằng: Không có pháp thế gian thì không có pháp xuất thế gian, nghĩa là không có Tục đế thì không có Chân đế. Vậy, Chân đế chẳng khác Tục đế (đối với Bát Nhã Ba La Mật, thì “chân – tục” song dụng chẳng phải hai, chẳng phải khác). Trong Chân đế hay Thắng nghĩa đế không phân biệt, chỉ có ai thông đạt Bát nhã Ba la mật mới hiểu nghĩa này, nên mới có khả năng tín thọ pháp. Kẻ sơ cơ (mới phát tâm) khó thấy khó giác.

Bát Nhã không kêu gọi, không hiển lộ, khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu, chẳng phải chỗ suy tầm, vượt cảnh suy tầm. Hành giả Bát Nhã phải tự mình lặn sâu vào chỗ thâm cùng của trí năng, đào xới bới vỡ những giáo nghĩa hay những pháp nghĩa hiển hiện của nó, kẻ hời hợt chẳng thể tín thọ được.

 

Vì vậy, khi nói không những người thuyết pháp, người nghe pháp như huyễn như mộng mà cả pháp được thuyết cũng như huyễn như mộng… Nhưng đó không có nghĩa là “không ngơ”, chẳng có gì hết, nên không cần tín thọ. Khi người thuyết người nghe vô sở đắc, pháp được thuyết được nghe cũng vô sở đắc, không chấp không đắm, lấy vô sở đắc làm phương tiện cùng hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí “rộng nói pháp tương ưng Tam thừa, rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát cho đến khiến chư vị được biện tất cả thế gian rất thắng diệu”.

Đó là lý do khi nói pháp, khi nghe pháp, và chính pháp được nghe phải xem như huyễn hóa dù là pháp đem lại nhiều công đức thắng diệu nhất như Niết bàn. Lìa chấp, lìa đắm, không năng sở, không buông bắt nắm giữ, tung hứng nữa thì mới có tự do trong tư duy và hành động, mới có thể tín thọ phụng hành, bằng ngược lại thì tất cả đều như huyễn như mộng cả!

 

---o0o---

 


 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/08/2013(Xem: 13664)
Thiền tông truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ VI, do Tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma). Đến thế kỷ thứ VII, Thiền tông truyền sang Việt Nam, do Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci). Thế là, Thiền tông có mặt ở Việt Nam sau Trung Hoa một thế kỷ. Đến thế kỷ thứ XII, Thiền tông mới truyền vào Nhật Bản. So Việt Nam với Nhật Bản, Thiền tông truyền bá ở Việt Nam trước Nhật Bản đến năm thế kỷ. Song ở Trung Hoa, Nhật Bản về sử liệu Thiền tông rất dồi dào, còn ở Việt Nam thật là nghèo nàn đáo để. Sự nghèo nàn ấy, không phải Thiền tông Việt Nam truyền bá kém cỏi hơn các nước Phật giáo bạn. Bởi vì nhìn theo dòng lịch sử, từ thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ thứ XIV, chúng ta thấy Thiền tông đã nắm trọn vẹn tinh thần truyền bá Phật giáo và cả văn hóa dân tộc Việt Nam. Những sách vở của người Việt Nam sáng tác hoặc ghi chép lại, không kém gì các nước Phật giáo bạn. Nào là Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, Liệt Tổ Truyện, Nam Minh Thiền Lục, Thánh Đăng Thực Lục, Liệt Tổ Yếu Ngữ, Kế Đăng Lục, Tam Tổ T
14/08/2013(Xem: 32450)
Muốn ngồi thiền, trước chúng ta phải biết lý thuyết, sau mới thực hành được. Tại sao chúng ta phải ngồi thiền? Phật dạy trong bốn oai nghi chúng ta đều tu được hết. Bốn oai nghi là đi, đứng, nằm và ngồi.
29/07/2013(Xem: 20969)
1:- Quá trình hình thành và phát triển: - Nguồn gốc Tự viện, ngày tháng thành lập PHV, người tiếp quản ban đầu. - Thành phần Ban Giám Viện, Ban Giáo Thọ, Hội Đồng Chứng Minh, số lượng Học Tăng, nhà Trù, cơ sở vật chất v.v… các thời kỳ, trước 1963, sau 1963 đến 1975
17/07/2013(Xem: 15441)
Đọc hết 93 trang của Phúc trình A/5630, lại được xác nhận bởi Kết luận của Biên bản Buổi họp thứ 1280 của Đại Hội đồng LHQ, rồi sau đó được Giáo sư Roger Stenson Clark tham chiếu trong tác phẩm A United Nations High Commissioner For Human Rights của ông, ta có thể khẳng định rằng Phúc trình A/5630 không hề kết luận rằng chính phủ Diệm "không có đàn áp tôn giáo" như cái thế lực đã thù nghịch với Phật giáo từ thời Cố đạo Alexandre de Rhodes gọi Phật Thích Ca bằng “thằng” trong Phép Giảng Tám Ngày, tìm cách xuyên tạc tài liệu để mạo hóa lịch sử từ mấy năm nay.
13/07/2013(Xem: 9834)
Kỷ Yếu Trường Hạ Minh Quang 2013
03/07/2013(Xem: 11761)
Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp. Có thể nói, Giới pháp là kim chỉ nam, là những nguyên tắc sinh động để hướng dẫn đời sống của Tăng sĩ từ tục đến chân, từ phàm đến Thánh, từ cõi mê mờ đến chân trời giác ngộ.
29/06/2013(Xem: 18101)
1963 – 2013! Năm mươi năm đã trôi qua… Một nửa thế kỷ là khoảng thời gian đủ dài để có thể soát xét và suy nghiệm xem từ biến cố đó ta rút ra được những bài học lịch sử gì.
29/06/2013(Xem: 18090)
Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”.
29/06/2013(Xem: 20744)
Đạo Phật chỉ xem hành động là có, còn tất cả đều không. Chống, là chống hành động, không chống con người. Cho nên sự chống đối ấy, từ đầu, mang tính văn hóa, đạo đức, chứ không phải chính trị.
25/05/2013(Xem: 16140)
Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn do HT Thích Nhất Hạnh và Hội Đồng Giáo Thọ Làng Mai biên soạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]