Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Phẩm “Thuyền Đẳng Dụ”

03/01/202118:33(Xem: 8769)
14. Phẩm “Thuyền Đẳng Dụ”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-519

 

 

XIV. PHẨM “THUYỀN ĐẲNG DỤ”
Phần giữa quyển 561, Hội thứ V, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược: 

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như khách buôn đi trên biển lớn, thuyền bè của họ bỗng bị hư, những người trong thuyền nếu vớ được gỗ, đồ vật, phao nổi, tấm ván hay tử thi làm chỗ để bám vào, thì nên biết những người này hoàn toàn không bị chết chìm, được đến bờ bên kia của biển lớn an ổn, không tổn, không hại, nhận được các sự vui thú. Các chúng Bồ Tát cũng như thế, nếu đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, có ưa, có thích, có tinh tấn, có hiểu rõ, không buông lung, ưa thích tốt đẹp, lại có xả, có kính, có tâm thanh tịnh, có sự hộ trì tốt đẹp, không rời bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lại thường giữ gìn Bát nhã Ba la mật làm nơi nương tựa, thì nên biết hạng người này nhất định chẳng thối lui giữa đường, sa vào địa vị Thanh văn, Độc giác, nhất định chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.561, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có nam tử hoặc các nữ nhơn đem bình đất nung chín đến sông, hoặc ao, hoặc giếng, suối, kênh, ngòi v.v... lấy nước, nên biết, bình này chắc chắn chẳng hư rã. Vì sao? Vì bình này được nung kỹ, bền chắc có thể chứa đựng đầy nước.

Các chúng Bồ Tát cũng như thế, nếu đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, có ưa, có thích, có tinh tấn, có thắng giải, không buông lung, ưa thích tốt đẹp, lại có xả, có kính, có tâm thanh tịnh, có sự hộ trì tốt đẹp, chẳng rời bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lại có thể giữ gìn phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật sâu xa, thì nên biết hạng này nhất định chẳng thối lui giữa đường, sa vào địa vị Thanh văn, hoặc Độc giác, nhất định chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có lái buôn có đủ trí khôn khéo, trước tiên tại bờ biển sửa chữa ghe thuyền cho bền chắc, xong rồi mới hạ thủy, biết không có lỗ thủng, sau đó mới đem hàng hoá, đồ dùng chất lên mà đi. Nên biết, ghe thuyền kia chắc chắn chẳng bị hư chìm, người và vật đi đến nơi đến chốn được an ổn.

Các chúng Bồ Tát cũng như thế, nếu đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, có ưa thích, có tinh tấn, có thắng giải, không buông lung v.v… chẳng rời bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lại có thể giữ gìn phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật sâu xa, thì nên biết hạng này nhất định chẳng thối lui giữa đường, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, nhất định chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như có người một trăm hai mươi tuổi, già nua, suy yếu, lại thêm có các thứ bệnh, đó là: bệnh phong, nhiệt, đàm, hoặc cả ba thứ bệnh. Người già yếu bệnh tật này muốn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến nơi khác, nhưng tự mình chẳng thể đi được. Nếu có hai người khỏe mạnh, xốc nách, từ từ đỡ lên và nói: “Chẳng có gì khó khăn, muốn đi lại tùy ý. Nay hai người chúng tôi luôn luôn ở bên cạnh, muốn đi đến đâu chắc chắn đều có thể đến an ổn, không tổn hại”.

Các chúng Bồ Tát cũng như thế, nếu đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, có ưa, có thích, có tinh tấn, có thắng giải, không buông lung, không tán loạn  v.v… chẳng rời bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lại có thể hộ trì phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật sâu xa, thì nên biết hạng này nhất định chẳng thối lui giữa đường, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, nhất định chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu trái với những điều trên đây thì gọi là hắc ám, đen tối.

 

Sơ giải:

 

Tu phải biết chuẩn bị từ vật chất cũng như tinh thần, mới không bị suy bại lui sụt vào hàng Thanh văn, Duyên giác mới có hy vọng chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Mặc dù, hữu tin, hữu nhẫn, hữu ái, hữu dục, hữu giải, hữu hành, hữu hỉ, hữu lạc, hữu xả, hữu tinh tiến, hữu tôn trọng, hữu tịnh tâm, ly phóng dật, bất tán loạn mà không nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật và tất cả pháp Phật làm phương tiện, cũng như lữ hành trèo non lặn suối để đến thành lớn lợi vui mà không chuẩn bị lương thực, thuốt men, khí cụ phòng thân sẽ tan thân mất mạng, không bao giờ hoàn thành mộng ước? Cũng giống như người vượt biển, thuyền bị đắm mà không dùng phao nổi hay tắm dán để bám vào làm sao thoát hiểm? Cũng như người đi lấy nước lại dùng bình bằng đất chưa nun chín, bình chẳng bao lâu rã mục làm sao lấy được nước? Giống như lái buôn chưa sửa chữa thuyền trước khi ra khơi, giục tốc chất hàng hóa lên thuyền rồi khởi hành, nếu gặp mưa to sóng lớn làm sao thoát khỏi hiểm? Cũng như người già nhiều tật bệnh không thể lê chân, nếu không có hai người lực lưỡng xốc nách giúp đở, không thể đi vài bước nói chi đến việc đi vài dậm để thưởng ngoạn?

Tu hành không có nghĩa là nương vịn, tuy nhiên phải dùng các phương tiện vật chất hay tinh thần để tự trang bị mới có hy vọng đạt được hạnh nguyện. Bát nhã Ba la mật và các pháp mầu Phật đạo là tư lương Bồ đề Bồ Tát. Ý chí và nghị lực là sức mạnh để vượt mọi trở ngại. Trí và Bi là hai người khỏe mạnh nâng đở, bảo hộ thân tâm.

Nếu không có phương tiện, không lập nguyện, không có ý chí và nghị lực thì sẽ bị rơi rụng vào hàng Thanh văn hay Duyên giác thì làm sao thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, quay xe diệu pháp cứu độ hữu tình. Kinh nói:

 Các chúng Bồ Tát cũng như thế, nếu đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, có ưa, có thích, có tinh tấn, có thắng giải, không buông lung v.v… chẳng rời bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lại có thể hộ trì phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa, thì nên biết hạng này nhất định chẳng thối lui giữa đường, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, nhất định chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu trái với những điều trên đây thì gọi là hắc ám, đen tối”.

Tất cả các phương tiện thiện xảo và hạnh nguyên đó là lương thực, thuốc men, khí giới, là chiết phao nổi, là bình bằng đất nung chín, cũng giống như hai người lực lưỡng… như Trí và Bi giúp hành giả đạt được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là ý nghĩa của phẩm “Thí Dụ” thuộc Hội thứ V. Phẩm này đã thuyết tất cả là 5 lần về các giáo pháp này trong 5 pháp hội khác nhau, rất dễ hiểu, như vậy là quá đủ, nên không cần thuyết giảng thêm nữa./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 6272)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian,Ngôn ngữ, Giáo nghĩa,và Giải hành liên qua đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung Luận, bản tiếng Phạn.Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải,Hành,Chứng trong Hoa nghiêm.
08/04/2013(Xem: 13488)
Tập sách này in lại những bài viết về Trung Quán Luận, đã đăng trong Nguyệt San Phật Học. Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai. Trong những tác phẩm của người, Trung Quán Luận trình bày tánh Không, phần tinh túy của giáo lý đạo Phật.
08/04/2013(Xem: 22308)
Con người là sinh vật quan trọng nhất – Đức Phật từ con người mà thành Phật – vì nó có những đặt tính ưu việt hơn tất cả những loài vật khác; nhưng Phật Giáo lại không cho con người là độc tôn, vì còn có những chúng sanh hữu tình và vô tình khác. Hai loại này ở trong một thể thống nhất giữa thế giới và nhân sinh. Vì thế, không có con người là kẻ thù của con người, cho đến loài vật, cây cỏ cũng vậy.
08/04/2013(Xem: 5618)
Giải thích tổng quát về Kinh Hoa Nghiêm theo hệ Kinh tạng Đại Thừa: Đức Phật ra đời vì “hạnh phúc an lạc của chư Thiên và loài người” như lời Ngài đã từng tuyên bố. Thế nên sự sống mà Đức Phật ra đời thật vô cùng quan trọng, đó là chân lý, là Pháp âm được vang lên khắp vũ trụ sơn hà. “Pháp âm bất tuyệt” tất cả tiếng chim hót, dế ngân, sóng vỗ, thảo mộc, khai hoa, thông reo suối chảy, đến tiếng đá rơi ... đều là pháp, không nơi đâu không phải là pháp.
08/04/2013(Xem: 17400)
Ðể có thể nhận diện được tổng thể hệ thống loại hình sám văn, đó là cách phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa. Tuy nhiên, vì sám văn có quá nhiều chủ đề, tùy theo lĩnh vực mà sử dụng riêng khác, nên rất phong phú đa dạng. Ðể nắm được tổng thể bố cục của cách phân loại nầy, chúng tôi xin khái lược về các cách phân loại có liên hệ trực tiếp. Qua đó, chúng ta có cơ sở để nhận diện được toàn hệ thống phân loại.
08/04/2013(Xem: 13146)
Xin quí vị bấm vào xem PDF
08/04/2013(Xem: 25024)
Phật Pháp hằng còn mãi ở thế gian là nhờ sự hoằng truyền sâu rộng trong quần chúng. Thiếu sự hoằng truyền, Phật pháp phải bị mờ và có thể đi lần đến chỗ tiêu diệt. Trong công đức hoằng truyền ấy, phiên dịch là một phần rất quan trọng.
08/04/2013(Xem: 6245)
SỰ THẬT VỀ CON ĐƯỜNG (Marga-satya): Sự thật thứ tư là con đường trực tiếp đưa đến sự giải thoát chấm dứt khổ đau. Sự thật này là tác nhân giải thoát hiện tại đưa đến chấm dứt quả khổ gần hay xa trong . . .
05/04/2013(Xem: 28870)
Nhân dịp dạy Nghi-lễ nơi Trường-hạ chùa Phật-Tâm năm 1973 nầy, các khóa-sinh đã ngỏ ý nhờ tôi biên soạn thành tập cho dễ học và tránh được những lỗi vì học tập nhiều môn e bận rộn mà biên sót ghi lộn. Nghi lễ là gì? Nghi là Nghi-thức, khuôn-mẫu bề ngoài, thuộc phần hình thức; Lễ là cách bày tỏ ý cung kính của mình, lấy hình thức lễ cúng mà nói lên niềm tôn kính bên trong. Học Nghi-lễ là học những cách thức làm lễ, học những bài tụng niệm để ứng dụng trong khi nguyện cầu, cúng hiến. Nhưng, quyển Nghi-lễ nầy không trình bày hết các Đại-nghi-lễ, chỉ biên soạn đơn-giản những nghi thức gợi ý để cho các khóa-sinh tiện dụng, cho nên khi thật hành có thể tùy ý uyển-chuyển, linh động thêm bớt cho thích hợp với hoàn-cảnh của sự việc. Vì tuổi già thường bịnh, nên thân thể lười, tôi cố gắng biên soạn được chừng nào hay chừng ấy, vị nào muốn đầy đủ hơn xin tham khảo nơi các bực cao-minh.
02/04/2013(Xem: 13118)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội. 4
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]