Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

43. Phẩm "Biện Sự" (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Lê)

06/07/202009:02(Xem: 9133)
43. Phẩm "Biện Sự" (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Lê)


47. Pham Bien Su 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

 

PHẨM "BIỆN SỰ"

Phần sau quyển 310 đến phần đầu quyển 311, Hội thứ I, ĐBN.

(Phần nầy cũng tương đương với quyển thứ 17, phẩm “Thành Biện”, MHBNBLM)


Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Lê







 

Gợi ý:

Kinh MHBNBLMĐ nhập hai phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn” và “Biện Sự” của Kinh ĐBN lại thành một phẩm có tên là “Thành Biện”. Phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn”chúng ta đã tụng rồi ở trên, bây giờ chúng ta tụng tiếp phẩm“Biện Sự”.

 

Tóm lược:

 

Bát Nhã thậm thâm vì nhân duyên đại sự mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng xưng lường mà xuất hiện ở đời; vì việc không có hạn lượng mà xuất hiện ở đời; vì việc không gì sánh bằng mà xuất hiện ở đời. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm có khả năng thành tựu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Vì Bát Nhã thậm thâm có khả năng thành tựu 18 pháp không; thành tựu chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v…, thành tựu 8 giải thoát, 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ; có khả năng thành tựu 37 pháp trợ đạo; có khả năng thành tựu Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; có khả năng thành tựu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí... cho đến có khả năng thành tựu quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật.

Như vua Quán đảnh đại vương dòng Sát đế lợi oai đức tự tại hàng phục tất cả, đem các việc nước giao phó cho đại thần, khoanh tay vô sự an hưởng vui thú. Như Lai cũng vậy, là Đại pháp vương đem pháp Thanh văn, pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc các Phật pháp khác thảy đều phó chúc cho Bát nhã Ba la mật. Bởi Bát Nhã đây đều năng thành xong tất cả sự nghiệp. Vậy nên, Bát Nhã vì đại sự nhân duyên xuất hiện thế gian, vì việc chẳng thể nghĩ bàn, vì việc chẳng thể xưng lường, vì việc không hạn lượng, vì việc không gì sánh bằng nên xuất hiện thế gian. Vì sao? Vì Bát Nhã chẳng chấp trước sắc mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu nghiệp sự; vì Bát Nhã chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu nghiệp sự; chẳng chấp trước 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến chẳng chấp trước quả vị Giác ngộ tối cao mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu nghiệp sự.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Tại sao Bát nhã Ba la mật thậm thâm xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức? Tại sao Bát Nhã thậm thâm xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước mười hai xứ, mười tám giới... cho đến tất cả pháp Phật?

Phật hỏi lại Thiện Hiện: Này Thiện Hiện! Theo ý ông, ông thấy sắc có thể chấp, có thể trước chăng? Ông thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể chấp, có thể trước chăng? Ông thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông, ông thấy 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Hay thay! Đúng như ý ông đáp! Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy sắc có thể chấp, có thể trước; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể chấp, có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Ta cũng chẳng thấy Chánh đẳng giác tánh, Như Lai tánh, tự nhiên giác tánh, Nhất thiết trí trí tánh khiến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước. Cho nên, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát cũng chẳng nên chấp trước sắc, chẳng nên chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Đại Bồ Tát cũng chẳng nên chấp trước mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật. (Q.311, ĐBN)

Lúc bấy giờ, các Thiên tử ở cõi Dục, cõi Sắc bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu xa, khó thấy khó biết, chẳng thể suy tầm, vượt cảnh suy tầm, vắng lặng mầu nhiệm, chắc thật kín đáo, chỉ người trí tuệ mới có thể biết rõ được. Nếu các hữu tình có khả năng tin hiểu sâu sắc Bát nhã Ba la mật như thế thì nên biết họ đã từng cúng dường vô lượng chư Phật trong quá khứ; ở chỗ chư Phật phát nguyện rộng lớn, trồng nhiều căn lành, đã được vô lượng các thiện tri thức nhiếp thọ mới có khả năng tin hiểu được.

Giả sử các loại hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành tựu bậc tùy tín hành(1), tùy pháp hành(2), bậc bát nhơn(3), bậc Thanh văn, bậc Bích Chi Phật cũng chẳng bằng người chỉ một ngày ưa thích, tư duy, xưng lường, quán sát Bát nhã Ba la mật. Vị này chắc chắn hơn các bậc trí đoạn(4) kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì trí đoạn của các bậc trên chỉ được một phần nhỏ nhẫn so với vô sanh pháp nhẫn của bậc đã từng chứng đắc Bát nhã Ba la mật”.

Phật bảo các Thiên tử: “Đúng vậy! Đúng như các ông đã nói! Trí đoạn của chư tùy tín hành, tùy pháp hành, đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác đều chỉ là một phần nhỏ nhẫn so với vô sanh pháp nhẫn của bậc đã chứng đắc Bát nhã Ba la mật.

Thiên tử nên biết! Nếu thiện nam thiện nữ nào vừa nghe Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, nghe rồi sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập thì những người ấy thoát khỏi sanh tử, chứng đắc Niết bàn, nhanh hơn những người thích cầu Thanh văn, Độc giác, xa lìa Bát nhã Ba la mật mà học Kinh điển khác, một kiếp hoặc hơn một kiếp. Vì sao? Nầy các Thiên tử! Trong Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, rộng nói các pháp thắng diệu. Các bậc tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, đệ bát v.v…đều nên đối với pháp này mà tinh cần tu học. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương pháp này mà học, đã chứng, sẽ chứng và hiện chứng quả vị Giác ngộ tối cao”.

Khi ấy, các Thiên tử đều cùng bạch: “Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là Ba la mật lớn, Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế là Ba la mật chẳng thể nghĩ bàn, Bát nhã Ba la mật như thế là Ba la mật chẳng thể xưng lường, Bát nhã Ba la mật như thế là Ba la mật không có hạn lượng, Bát nhã Ba la mật như thế là Ba la mật không gì sánh bằng.

Bạch Thế Tôn! Bậc tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, đệ bát v.v… đều đối với Bát nhã Ba la mật như thế mà tinh cần tu học, chóng thoát sanh tử, chứng đắc Niết bàn. Tất cả đại Bồ Tát đều đối với Bát Nhã như thế mà tinh cần tu học, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao”.

 

Thích nghĩa:

(1). Tùy tín hành (S: śraddhānusārin; P: saddhānu-sārin) và (2). Tùy pháp hành: (S: dharmānussarin; p: dhammānussarin) là hai hạng người tu hành đang chuẩn bị đắc quả Dự lưu. Tùy tín hành là người chỉ dựa vào lòng tin (Tín; s: śraddhā; p: saddhā), lấy lòng tin làm căn bản để tu tập Phật pháp. Trong khi Tùy pháp hành: (S: dharmānussarin; p: dhammānussarin), là người lấy lý trí phân tích lời thuyết pháp của Phật mà đạt quả Dự lưu. - Phỏng theo Từ điển Đạo uyển.

(3). Bát nhân: Còn gọi là Bát nhẫn: Giai vị tu 8 pháp nhẫn để đoạn Kiến hoặc. Cũng gọi Đệ bát địa, Bát nhân địa. Nhân nghĩa là nhẫn. Tương đương với 15 tâm kiến đạo của Thanh văn và vô sinh pháp nhẫn của Bồ Tát. Đây là địa vị thứ ba trong mười địa vị thuộc Tam thừa cộng thập địa.

Mục (1), (2) và (3) là ba địa vị trong Thập Địa cộng thông cả ba thừa (còn gọi Tam thừa cộng thập địa, hoặc Cộng thập địa, Cộng địa. Tông Thiên thai gọi là Thông giáo thập địa) với tên gọi khác là Càn Huệ Địa hay Tánh quán địa (Phạm: Zukla-vidar= zanà-bhùmi); Tánh Địa hay Tánh địa nhơn (Phạm: Gotra-bhùmi); Bát Nhân Địa (Phạm: Awỉamakabhùmi); Cụ Kiến Địa hay Tu Đà Hoàn (phạm: Durzana-bhùmi); Bạc Địa hay Tư Đà Hàm (Phạm: Tanù-bhùmi); Ly Dục Địa hay A Na Hàm (Phạm: Vìta-ràga-bhùmi); Dĩ Biện Địa hay A La Hán (Phạm: Kftàvì-bhùmi); Bích Chi Phật Địa hay Độc giác Bồ đề; Bồ Tát Địa và Phật Địa. Tam thừa cộng thập địa liệt kê là ghi theo sự giới thiệu của Kinh ĐBN. Đã thích nghĩa chi tiết trong phẩm “Học Quán”.

(4). Trí đoạn: Trí huệ đoạn tuyệt, người học đạo nhờ trí huệ này mà đoạn tuyệt các phiền não, ấy là trí đoạn. Lại nữa, trí và đoạn là hai đức của người học đạo: Trí là chiếu liễu chân lý, hiểu rõ sự và lý; đoạn là diệt trừ các phiền não tham luyến, sân hận, si mê. Trí tức Bồ đề, đoạn tức là Niết bàn, hai thể ấy liên quan với nhau vậy. (Đoàn Trung Còn).

 

Lược giải:

 

Dẫn nhập:

Phẩm này và phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn” (của ĐBN) do Ngài Huyền trang dịch chỉ là một, tương đương với phẩm “Thành Biện” của Kinh MHBNBLMĐ do Ngài La Thập dịch như đã gợi ý ở trên. Phẩm thứ 50, Đại Trí Độ Luận cũng có cùng tên là “Thành Biện”, tập 4, quyển 71, nội dung cũng giống như Kinh ĐBN. Đọc một phẩm thì biết cả hai.

 

--o0o--

 

Mở đầu phẩm này Hội thứ I, ĐBN Kinh nói: “Bát Nhã thậm thâm vì nhân duyên đại sự mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng xưng lường mà xuất hiện ở đời; vì việc không có hạn lượng mà xuất hiện ở đời; vì việc không gì sánh bằng mà xuất hiện ở đời. Vì sao? Vì không có bất cứ pháp nào trong thế gian hay xuất thế gian thoát khỏi sự nhiếp hộ của Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật rộng lớn không có ngằn mé, không có hạn lượng, không có gì sánh bằng, nên nói là không thể nghĩ bàn, bất khả tư nghị như hư không.

 

--o0o--

 

Kế đến Kinh nói đến chấp trước. Tại sao có chấp trước? Do lục căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) khởi phân biệt mà sanh ra lục thức (thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Tất cả lập cước của đạo Phật đều nằm trên căn bản này. Vì do thấy sắc nên phân biệt, do phân biệt nên sanh chấp. Rồi từ chấp mới có tạo tác thi vi, muốn thủ giữ cất dấu hay buông bỏ mà sanh vui buồn, đau khổ hay phiền muộn. Đầu mối là ở phân biệt chấp trước mà ra.

Bản thể của tất cả pháp là vô tri trì độn, là như huyễn như mộng… duyên hợp thì có, duyên tan thì rã rời biến hoại, không có tự tánh nên bảo là không. Nếu nhập được pháp không rồi, thì không còn chấp ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới… cho đến Nhất thiết chủng trí nữa. Vậy cái đáng qui trách gây ra động niệm là ở phân biệt chấp trước.

Thấy thì ai có nhãn căn đều thấy cả. Phân biệt thì ai cũng phân biệt cả. Phật là người phân biệt giỏi nhất thế gian này, nhưng Phật không bị sắc trần níu kéo, vì Phật không vướng mắc. Không vướng mắc, nên Phật không chấp, do công năng vô chấp mới được như như bất động. Do như như bất động này nên Phật được gọi là Như Lai. Còn chúng sanh thấy sắc mà tâm ôm cứng lấy, không rời một bước không nổi dù phải đổi lấy thân mạng. Tất cả đều do thủ tâm chấp tướng mà ra.

Ngài Hoàng Bá lại nói: “Tất cả thanh (nghe) sắc (thấy) là mắt tuệ của Phật”. Cũng cùng cái nghe thấy đó mà biết quay lại thấy tâm thì thấy nghe ấy chính là mắt tuệ. Vì thấy nghe như vậy là “kiến chiếu vào tự tánh”. Đó là một cái thấy đặc biệt, nên bảo là mắt tuệ Phật.

Kinh Lăng nghiêm Phật bảo ông A nan: “Căn trần đồng một thể (tâm), triền phược và giải thoát không hai (mê thì triền phược, ngộ thì giải thoát). Các thứ hư vọng như hoa đốm giữa hư không. Vì có trần cảnh, nên ở nơi căn khởi ra phân biệt. Vì có năng phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra cái tướng bị phân biệt là cảnh. Căn (kiến) và cảnh (sắc tướng) đối đãi vọng hiện, chớ không có thật (vô tâm)(1). Cũng như hình cây lau gác nhau. Thế nên, khi thấy, nghe, hay, biết mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh triền phược. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn. Ở trong chơn tâm thanh tịnh, không dung chứa vật nào khác!”

Đó là cái thấy của chơn tâm theo kinh Lăng Nghiêm. Tu Bát nhã Ba la mật, khi thâm nhập được “nhân không pháp không” rồi thì dù cho thấy nghe hay biết cũng đều là không cả. Do đó Phật bảo “Ta chẳng thấy sắc có thể chấp, có thể trước; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể chấp, có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước”.

Ở đây vì thấy tất cả pháp là không, là như, là bình đẳng nên Phật chẳng chấp trước, chẳng thủ giữ bất cứ pháp nào dù là Vô thượng Bồ đề.

Do đó, Kinh MHBNBLMĐ, Phật dạy:

“Này Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Nhất thiết chủng trí, Vô Thượng Bồ Đề có thể thủ, có thể chấp chăng?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bach Thế Tôn! Chẳng thể được vậy.

Phật dạy: Lành thay, lành thay! Này Tu Bồ Đề! Ta cũng chẳng thấy sắc… dẫn đến thức có thể thủ, có thể chấp, cũng chẳng thấy Nhất thiết chủng trí, Vô Thượng Bồ Đề có thể thủ, có thể chấp. Vì chẳng thấy như vậy nên chẳng thủ, chẳng chấp.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Ta cũng chẳng thấy Phật pháp, Như Lai pháp, tự nhiên trí pháp, Nhất thiết trí pháp có thể thủ, có thể chấp. Vì chẳng thấy như vậy nên chẳng thủ, chẳng chấp.

Lúc bấy giờ hàng chư Thiên cõi Dục và cõi Sắc đồng bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật rất thậm thâm, khó thấy, khó giải, chẳng thể suy lường mà biết được. Chỉ có bậc thiện xảo vi diệu, trí huệ tịch diệt, mới có thể tín giải được.

Nếu người nào thâm tín Bát nhã Ba la mật này, thì phải biết đó là bậc đại Bồ Tát. Người đó trong vô lượng kiếp đã cúng dường chư Phật, đã gieo trồng thiện căn, đã thân cận chư thiện tri thức, mới có thể tín giải thâm Bát nhã Ba la mật này vậy”.

 

---o0o---

 

 

***
Tu Viện Quảng Đức Youtube Channel

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 6070)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian,Ngôn ngữ, Giáo nghĩa,và Giải hành liên qua đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung Luận, bản tiếng Phạn.Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải,Hành,Chứng trong Hoa nghiêm.
08/04/2013(Xem: 13159)
Tập sách này in lại những bài viết về Trung Quán Luận, đã đăng trong Nguyệt San Phật Học. Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai. Trong những tác phẩm của người, Trung Quán Luận trình bày tánh Không, phần tinh túy của giáo lý đạo Phật.
08/04/2013(Xem: 22148)
Con người là sinh vật quan trọng nhất – Đức Phật từ con người mà thành Phật – vì nó có những đặt tính ưu việt hơn tất cả những loài vật khác; nhưng Phật Giáo lại không cho con người là độc tôn, vì còn có những chúng sanh hữu tình và vô tình khác. Hai loại này ở trong một thể thống nhất giữa thế giới và nhân sinh. Vì thế, không có con người là kẻ thù của con người, cho đến loài vật, cây cỏ cũng vậy.
08/04/2013(Xem: 5452)
Giải thích tổng quát về Kinh Hoa Nghiêm theo hệ Kinh tạng Đại Thừa: Đức Phật ra đời vì “hạnh phúc an lạc của chư Thiên và loài người” như lời Ngài đã từng tuyên bố. Thế nên sự sống mà Đức Phật ra đời thật vô cùng quan trọng, đó là chân lý, là Pháp âm được vang lên khắp vũ trụ sơn hà. “Pháp âm bất tuyệt” tất cả tiếng chim hót, dế ngân, sóng vỗ, thảo mộc, khai hoa, thông reo suối chảy, đến tiếng đá rơi ... đều là pháp, không nơi đâu không phải là pháp.
08/04/2013(Xem: 16954)
Ðể có thể nhận diện được tổng thể hệ thống loại hình sám văn, đó là cách phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa. Tuy nhiên, vì sám văn có quá nhiều chủ đề, tùy theo lĩnh vực mà sử dụng riêng khác, nên rất phong phú đa dạng. Ðể nắm được tổng thể bố cục của cách phân loại nầy, chúng tôi xin khái lược về các cách phân loại có liên hệ trực tiếp. Qua đó, chúng ta có cơ sở để nhận diện được toàn hệ thống phân loại.
08/04/2013(Xem: 12999)
Xin quí vị bấm vào xem PDF
08/04/2013(Xem: 24783)
Phật Pháp hằng còn mãi ở thế gian là nhờ sự hoằng truyền sâu rộng trong quần chúng. Thiếu sự hoằng truyền, Phật pháp phải bị mờ và có thể đi lần đến chỗ tiêu diệt. Trong công đức hoằng truyền ấy, phiên dịch là một phần rất quan trọng.
08/04/2013(Xem: 6127)
SỰ THẬT VỀ CON ĐƯỜNG (Marga-satya): Sự thật thứ tư là con đường trực tiếp đưa đến sự giải thoát chấm dứt khổ đau. Sự thật này là tác nhân giải thoát hiện tại đưa đến chấm dứt quả khổ gần hay xa trong . . .
05/04/2013(Xem: 28629)
Nhân dịp dạy Nghi-lễ nơi Trường-hạ chùa Phật-Tâm năm 1973 nầy, các khóa-sinh đã ngỏ ý nhờ tôi biên soạn thành tập cho dễ học và tránh được những lỗi vì học tập nhiều môn e bận rộn mà biên sót ghi lộn. Nghi lễ là gì? Nghi là Nghi-thức, khuôn-mẫu bề ngoài, thuộc phần hình thức; Lễ là cách bày tỏ ý cung kính của mình, lấy hình thức lễ cúng mà nói lên niềm tôn kính bên trong. Học Nghi-lễ là học những cách thức làm lễ, học những bài tụng niệm để ứng dụng trong khi nguyện cầu, cúng hiến. Nhưng, quyển Nghi-lễ nầy không trình bày hết các Đại-nghi-lễ, chỉ biên soạn đơn-giản những nghi thức gợi ý để cho các khóa-sinh tiện dụng, cho nên khi thật hành có thể tùy ý uyển-chuyển, linh động thêm bớt cho thích hợp với hoàn-cảnh của sự việc. Vì tuổi già thường bịnh, nên thân thể lười, tôi cố gắng biên soạn được chừng nào hay chừng ấy, vị nào muốn đầy đủ hơn xin tham khảo nơi các bực cao-minh.
02/04/2013(Xem: 13064)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội. 4
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]