Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

58. Phẩm "Chúc Lụy" (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

17/07/202011:59(Xem: 9498)
58. Phẩm "Chúc Lụy" (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

58. Phẩm Chúc luỵ
PHẨM CHÚC LỤY
(1)

 

Phần sau quyển 346 đến phần đầu quyển 347, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Chúc Lụy" quyển thứ 22, MHBNBLM)

Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu

Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh

Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước

 




 

 

Gợi ý:

Xin nhắc lại khi chúng tôi đề cập đến phẩm tựa của Kinh MHBNBLMĐ là chúng tôi muốn nói đến Đại Trí Độ Luận. Vì chánh văn của Kinh MHBNBLMĐ là chánh văn của Luận Đại Trí Độ, Bồ Tát Long Thọ dùng chánh văn của Kinh MHBNBLMĐ (tức Hội thứ II Đại Bát Nhã) để biên soạn Đại Trí Độ Luận. Phẩm “Chúc Lụy” của Hội thứ II, ĐBN tương đương với phẩm “Chúc Lụy”, quyển thứ 22, Kinh MHBNBLMĐ, cũng tương đương với phẩm thứ 66, “Chúc Lụy”(Phó Chúc), tập 4, quyển 79, Đại Trí Độ Luận.

Việc làm của chúng tôi có vẻ nhiêu khê cũng vì lợi ích cho việc thọ dụng thiên Tổng luận này. Biết mà biết không rõ ràng thì chẳng thà không biết còn hơn. Chúng tôi ghi chú các Kinh Luận liên hệ đến đề tài chiết giải để Quý vị tham khảo hiểu biết thêm mà khỏi mất thời giờ tra cứu.

 

Tóm lược:

 

Muốn chứng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa cần phải khéo hiểu, khéo thông suốt lục Ba la mật; an trụ pháp không nội, an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không cho đến pháp không không tánh tự tánh(an trụ tất cả 18 pháp không); an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…(an trụ thập nhị chân như); an trụ Thánh đế khổ, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo(an trụ Tứ đế); tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo; tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tu hành tam giải thoát môn; tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả; tu hành tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí khiến được viên mãn mà đại Bồ Tát ấy chẳng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, mà lại trụ ở bậc Thanh văn, Độc giác, thì không có việc đó. Đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, thì đối với Bát nhã Ba la mật như thế, khéo hiểu, thông suốt, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí khiến được viên mãn.

Nếu đối với kinh điển Bát Nhã có thể thọ trì dù chỉ một câu chẳng để quên mất, thì được vô lượng phước; còn nếu có người đối với kinh nầy chẳng khéo thọ trì, cho đến một câu cũng quên, thì bị trọng tội, ngang đồng với lượng phước đức nói trên. Vì vậy, nên Phật bảo Khánh Hỷ:

“Này Khánh Hỷ! Ta nay đem kinh điển Bát nhã Ba la mật sâu xa nầy, ở trước vô lượng đại chúng trời, người, A tu la v.v... phó chúc cho ông. Này Khánh Hỷ! Nay ta nhắc nhở ông: Có các tịnh tín muốn chẳng bỏ Phật, muốn chẳng bỏ Pháp, bỏ Tăng, cũng muốn chẳng bỏ sở chứng quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, thì nhất định chẳng nên bỏ kinh điển Bát Nhã thậm thâm.

Này Khánh Hỷ! Đây là pháp dạy bảo trao truyền cho các đệ tử của chư Phật. Nếu thiện nam thiện nữ nào, đối với Kinh điển Bát Nhã thậm thâm này, ưa thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, dùng vô lượng cách, vì người rộng nói, phân biệt khai thị, trình bày an lập, khiến họ dễ hiểu thì thiện nam thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao, sắp viên mãn Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ tối cao, sở đắc của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát Nhã thậm thâm như thế mà được phát sanh”.

Nếu thiện nam thiện nữ nào cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật tức là cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Phật, cũng là cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại ở mười phương thế giới. Nếu thiện nam thiện nữ nào nghe nói Kinh điển Bát nhã Ba la mật, thâm tâm tín thọ cung kính ưa thích, tức là tín thọ cung kính ưa thích chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu kính Phật, chẳng bỏ Như Lai, thì cũng nên kính mến, chẳng nên bỏ Kinh điển Bát nhã Ba la mật cho đến một câu chớ để quên mất.

Nên biết, Nhất thiết trí trí, quả vị Giác ngộ tối cao, sở đắc của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát nhã Ba la mật mà xuất sanh. Bát nhã Ba la mật như thế là mẹ của các đại Bồ Tát, sanh ra các đại Bồ Tát. Bát nhã Ba la mật như thế là Kinh điển sáu phép Ba la mật sâu xa, là tạng pháp(2) vô tận của chư Như Lai.

Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ cũng nương vào tạng pháp vô tận sáu phép Ba la mật nầy tinh cần tu học, đã chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vị lai cũng nương vào tạng pháp vô tận sáu phép Ba la mật nầy tinh cần tu học, sẽ chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại hiện đang thuyết pháp ở trong các thế giới khắp Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, cũng nương vào tạng pháp vô tận sáu phép Ba la mật nầy tinh cần tu học, hiện chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

Đệ tử của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ đều nương vào pháp tạng vô tận sáu phép Ba la mật này, tinh cần tu học, đối với cảnh giới Niết bàn tuyệt đối mầu nhiệm đã nhập Niết bàn. Đệ tử của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vị lai, đều nương vào tạng pháp vô tận sáu phép này tinh cần tu học, đối với cảnh giới Niết bàn tuyệt đối mầu nhiệm sẽ nhập Niết bàn. Đệ tử của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại, ở trong các thế giới khắp Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, đều nương vào tạng pháp vô tận sáu phép này, tinh cần tu học, đối với cảnh giới Niết bàn tuyệt đối mầu nhiệm đang nhập Niết bàn.

Các đại Bồ Tát tự tu bố thí Ba la mật, cũng dạy người tu bố thí; tự tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, cũng dạy người tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị Giác ngộ tối cao mà có sự thối chuyển, thì không có việc đó. Các Bồ Tát ấy, tự an trụ pháp không nội, an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không v.v… cũng dạy người an trụ mười tám pháp không đó. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị Giác ngộ tối cao mà có sự thối chuyển, thì không có việc đó.

Đại Bồ Tát ấy, tự an trụ chơn như, cũng dạy người an trụ chơn như; tự an trụ pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v… cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng dạy người an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị Giác ngộ tối cao mà có sự thối chuyển, thì không có việc đó. Nói tóm lại, các đại Bồ Tát ấy tự an trụ tất cả pháp Phật, cũng dạy người an trụ tất cả pháp Phật. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị Giác ngộ tối cao mà có sự thối chuyển, thì không có việc đó.

Đại Bồ Tát ấy, tự tu Vô sanh pháp nhẫn, cũng dạy người tu Vô sanh pháp nhẫn. Đại Bồ Tát ấy, tự nghiêm tịnh cõi Phật, cũng dạy người nghiêm tịnh cõi Phật; tự thành thục hữu tình, cũng dạy người thành thục hữu tình. Đại Bồ Tát ấy, tự học chuyển pháp luân Vô thượng, cũng dạy người học chuyển pháp luân Vô thượng. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị Giác ngộ tối cao mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không thể xảy ra.

Đại Bồ Tát ấy, tự dùng vô lượng tướng tốt vi diệu để trang nghiêm thân, cũng dạy người dùng vô lượng tướng tốt vi diệu để trang nghiêm thân. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị Giác ngộ tối cao mà có sự thối chuyển, thì không có lẽ đó.

Đại Bồ Tát ấy, tự quán tất cả pháp không có ngã, không có hữu tình, không có dòng sanh mạng, không có khả năng sanh khởi, không có sự dưỡng dục, không có sự trưởng thành, không có chủ thể luân hồi, không có ý sanh, không có nho đồng, không có khả năng làm việc, không có khả năng thọ quả báo, không có cái biết, cái thấy, cũng dạy người quán tất cả pháp không có ngã cho đến không có cái biết, cái thấy. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị Giác ngộ mà có sự thối chuyển, thì không có lẽ đó.

Đại Bồ Tát ấy, tự quán tất cả pháp như huyễn hóa, như chiêm bao, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò ảo thuật, như ảo thành, tuy giống như có nhưng không có thật tánh; cũng dạy người quán tất cả pháp như huyễn hóa cho đến như ảo thành, tuy giống như có nhưng không có thật tánh; cũng dạy người quán tất cả pháp như huyễn hóa cho đến như ảo thành, tuy giống như có nhưng không có thật tướng. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị Giác ngộ mà có sự thối chuyển, thì không có lẽ đó.

Lúc nói Bát nhã Ba la mật như vậy, đức Phật ở giữa tứ chúng Trời, Người, Quỷ thần, Bát bộ… hóa hiện thần thông biến hóa làm cho tất cả đại chúng dự pháp hội đều thấy đức Phật A Súc (3) đương thuyết pháp cho chư Tỳ Kheo Tăng. Chư Tăng của đức Phật A Súc đều là bậc A La Hán đã sạch hết phiền não, đều được tự tại giải thoát: Tâm giải thoát và huệ giải thoát, tâm điều hòa nhu thuận như đại tượng, chỗ làm đã xong, đã được tự lợi, hết các kiết sử, được chánh trí giải thoát, tâm và tâm sở đều được tự tại. Cũng thấy chư đại Bồ Tát thành tựu vô lượng công đức.

Bỗng đức Phật thâu nhiếp thần lực, đại chúng không còn thấy đức Phật A Súc và đại hội Thanh Văn Bồ Tát nước Diệu Hỷ nữa.

Phật mới hỏi Khánh Hỷ:

- Ông còn thấy Bất Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cùng cõi nước, chúng hội đó chăng?

Khánh Hỷ bạch:

- Con không còn thấy, vì những cảnh ấy chẳng phải là đối tượng nhận thức của nhãn căn này.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Như các cảnh cõi Phật, chúng hội v.v... ấy chẳng phải là cảnh giới đối tượng nhận thức của nhãn căn ở cõi này, tất cả pháp cũng như thế, chẳng phải là cảnh đối tượng nhận thức của nhãn căn, pháp chẳng nhận thức pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp.

Khánh Hỷ phải biết, tất cả pháp không kẻ hành, không kẻ thấy, không kẻ biết, không động, không tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô tác dụng, tánh năng thủ sở thủ xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, tánh năng sở nghĩ bàn xa lìa vậy. Vì tất cả pháp như việc huyễn, nhiều duyên hòa hợp tương tợ có. Vì tất cả pháp không có kẻ tác thọ, vọng hiện như có, không bền chắc vậy. Khánh Hỷ phải biết, Nếu đại Bồ Tát biết như thế, thấy như thế, hành như thế, ấy là hành Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng chấp trước các Pháp Tướng này.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ Tát muốn tất cả Ba la mật mau được viên mãn, thì nên học Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì người học như thế, đối với các sự học là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, lợi ích an lạc tất cả thế gian, đối với kẻ không chỗ nương nhờ, làm chỗ nương nhờ, chư Phật Thế Tôn đẹp lòng khen ngợi.

Bát Nhã thẳm sâu tánh vô tận nên nói là vô lượng. Bát Nhã thẳm sâu tánh xa lìa nên nói là vô lượng. Bát Nhã thẳm sâu tánh vắng lặng nên nói là vô lượng. Bát Nhã thẳm sâu như thật tế nên nói là vô lượng. Bát Nhã thẳm sâu như hư không nên nói là vô lượng.

Quá khứ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều học Bát nhã Ba la mật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ, mà Bát nhã Ba la mật đây cũng không bao giờ cạn, nên nói là không tận. Vị lai Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều học Bát Nhã, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ, mà Bát Nhã đây cũng không dứt, nên nói không tận. Hiện tại thế giới mười phương vô lượng vô số vô biên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều học Bát Nhã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ, mà Bát Nhã đây cũng không hết, nên nói không tận. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu ví như hư không, chẳng thể dứt tận vậy. Có kẻ muốn Bát Nhã thẳm sâu dứt tận, thời là muốn ngằn mé hư không dứt tận.

Phải biết Bát nhã Ba la mật chẳng thể cạn tận, nên đã chẳng tận, hiện chẳng tận, sẽ chẳng tận. Tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí cũng chẳng thể cạn tận, nên đã chẳng tận, hiện chẳng tận, sẽ chẳng tận. Tất cả pháp Phật cũng chẳng bao giờ cạn tận.

Trong Kinh Bát Nhã thẳm sâu như thế, rộng nói tất cả Bồ đề phần pháp và các pháp tướng. Vì vậy, tất cả hữu tình cầu Thanh văn thừa, hữu tình cầu Độc giác thừa, hữu tình cầu Vô thượng thừa đều nên đối với pháp môn đã nói của Bát Nhã thẳm sâu này, thường siêng tu học, chớ nên chán bỏ. Nếu được như thế thì mau tự an trụ bậc sở cầu.

Bát nhã Ba la mật có khả năng ngộ nhập tất cả tướng, tất cả tự môn(4), tất cả pháp môn Đà la ni. Các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp môn Đà la ni này đều nên tu học. Nếu đại Bồ Tát thọ trì pháp môn này thì mau chứng đắc tất cả biện tài thông suốt. Vì vậy, nên nói Bát nhã Ba la mật chính là tạng pháp vô tận của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại.

Do đó, Phật bảo Khánh Hỷ:

“Này Khánh Hỷ! Ta nay nói rõ với ngươi: Nếu có người đối với Bát nhã Ba la mật này thọ trì, đọc tụng, rốt ráo thông đạt, như lý tư duy, tức là thọ trì quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Này Khánh Hỷ! Ta nói Bát nhã Ba la mật thẳm sâu là đôi chân kiên cố có khả năng đi đến đạo Bồ đề, cũng là đại Đà la ni của tất cả Phật pháp vô thượng. Nếu các ông có khả năng thọ trì các Đà la ni Bát Nhã thẳm sâu như thế, tức là nắm giữ được tất cả Phật pháp”.

 

Thích nghĩa:

(1). Chúc lụy hay phó chúc: Chúc, nghĩa là dặn dò, phó thác - Lụy, nghĩa là gánh vác sự vất vả phiền lụy, có nghĩa là đem công việc giao phó và dặn dò người khác khiến họ gánh vác. Trong tông môn, mỗi khi đem đại pháp của Phật Tổ trao truyền khiến người sau gìn giữ và phát huy, thì gọi là chúc lụy. [X. Duy ma Kinh sớ lược Q.10 phẩm Thích chúc lụy (Trí khải)]. - Từ điển Phật Quang.

(2). Tạng pháp hay Pháp tạng, hoặc kinh tạng là kho tàng kinh điển Phật, phân biệt với luật tạng hay luận tạng.

(3). Phật A Súc hay còn gọi là Như lai Bất Động, Vô động Phật, Vô nộ Phật, Vô sân Phật, A Súc Bất động Như lai, Diệu Sắc Thân Như lai... Cứ theo Kinh A Súc Phật Quốc quyển thượng, phẩm Phát ý thụ tuệ và phẩm Thiện khoái chép, thì ở quá khứ, cách đây một nghìn cõi Phật về phương Đông, có thế giới A tì la đề (Phạm: Abhirati), trong đó, có đức Đại mục Như lai xuất hiện, Ngài vì các Bồ Tát mà nói pháp tu hành sáu độ cao tột. Lúc bấy giờ, có một vị Bồ Tát, sau khi nghe pháp, phát tâm đạo vô thượng chính chân, nguyện dứt sân hận, đoạn dâm dục, cho đến thành đại chính giác, Đại mục Như lai vui mừng và ban hiệu là A súc. Bồ Tát A súc liền thành Phật trong thế giới A tì la đề ở phương Đông, và hiện nay vẫn đang thuyết pháp ở cõi đó. Lại cứ theo Kinh Pháp Hoa quyển 3, phẩm Hóa thành dụ chép, thì đức Phật Đại thông trí thắng, khi chưa xuất gia, có mười sáu vương tử, sau đều xuất gia làm Sa di, người con thứ nhất tên là Trí Tích, tức là A súc, thành Phật tại nước Hoan hỉ ở phương Đông. Kinh Bi hoa quyển 4 chép, Phật A di đà ở đời quá khứ là vua Vô tránh niệm, có một nghìn người con, người con thứ chín là Mật tô, tức A súc, thành Phật tại phương Đông, tên nước là Diệu lạc. Mật giáo lấy đức Phật này làm một trong năm vị Phật ở Kim cương giới, tượng trưng cho Đại viên kính trí. Ngài được tôn trí ở giữa nguyệt luân chính đông, trong năm luân giải thoát, phía trước là Kim cương tát đỏa, phía phải là Kim cương vương Bồ Tát, phía trái là Kim cương ái Bồ Tát, phía sau là Kim cương hỉ Bồ Tát. Hình tượng màu vàng ròng, tay trái nắm lại đặt ở trước rốn, tay phải thõng xuống chạm đất, tức là A súc xúc địa ấn (Ấn A súc chạm đất). Mật hiệu là Bất động kim cương. Chủng tử là (Hùô). Hình tam muội da là chày năm chẽ. Chân ngôn là Án á khất sô tì dã hồng. [X. Kinh Đại bảo tích hội bất động Như lai; Kinh Đạo hành Bát Nhã Q.6, Q.9; Kinh Thủ lăng nghiêm tam muội Q.thượng; Kinh Duy ma Q.hạ; Tịnh độ dữ Thiền (Ấn thuận, Diệu vân tập hạ biên 4)]- Phật Quang Tự điển.

(4). Tự môn: Là những chữ cái gồm nguyên âm và phụ âm chính, cần phải học để dễ nhớ những chữ đồng âm khác.

 

Lược giải:

 

Ta có thể lấy lời của Thế Tôn nói trong phẩm “Thật Ngữ” của quyển 458, Hội thứ II, ĐBN để giải thích lý do tại sao Thế Tôn phó chúc Bát Nhã cho Ngài A Nan:

(…) “Thiện nam, thiện nữ nào cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi Bát Nhã thẳm sâu thì chính là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi Ta, cũng là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp ở mười phương thế giới và cũng là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi chư Phật ở quá khứ, vị lai.

Thiện nam, thiện nữ nào nghe nói Bát Nhã thẳm sâu như vậy, phát sanh lòng tin trong sạch, cung kính tôn trọng thì chính là đem lòng tin trong sạch, cung kính tôn trọng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc.

Nếu ngươi cung kính, tôn trọng và tin tưởng ở Ta thì phải chí thành tha thiết cung kính, tôn trọng, tin tưởng Bát nhã Ba la mật cho đến một câu cũng đừng quên mất.

Việc giao phó Bát Nhã thẳm sâu này cho ngươi, tuy có vô lượng lý do nhưng Ta chỉ nói tóm gọn. Như Ta đã là đại sư của các ngươi thì phải biết Bát Nhã thẳm sâu cũng là đại sư của các ngươi. Nếu các ngươi cùng trời, người cung kính, tôn trọng Ta thì cũng phải cung kính, tôn trọng Bát Nhã thẳm sâu.

Vì vậy, Ta dùng vô số phương tiện thiện xảo giao phó Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu cho ngươi, ngươi phải thọ trì đừng để quên mất. Nay ở trước trời, người, A tu la và vô số đại chúng, Ta đem Bát Nhã thẳm sâu này giao phó cho ngươi.

Nay Ta nói thật với ngươi: Các hữu tình có lòng tin trong sạch muốn không xả bỏ Phật, không xả bỏ Pháp, không xả bỏ Tăng lại muốn không xả bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc thì không nên xả bỏ Bát Nhã thẳm sâu. Đó chính là pháp mà chư Phật dạy dỗ truyền trao cho các đệ tử.

Thiện nam thiện nữ nào ưa thích lắng nghe Bát Nhã thẳm sâu, thọ trì, đọc tụng hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, đem vô lượng pháp môn giảng rộng cho người khác, phân biệt, khai thị, chỉ bày, an lập giúp họ hiểu rõ và siêng năng tu học thì thiện nam thiện nữ này mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và gần được viên mãn Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng đắc đều dựa vào Bát Nhã thẳm sâu này mà được thành tựu.

Chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều dựa vào Bát nhã Ba la mật thẳm sâu này để thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì thế, này Khánh Hỷ! Đại Bồ Tát nào muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì cần phải siêng năng tu học Bát Nhã thẳm sâu này. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu là mẹ của các đại Bồ Tát, đã sanh ra các vị đại Bồ Tát.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát nào siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì thế, này Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba la mật giao phó cho ngươi, ngươi phải thọ trì cho đúng đừng để quên mất. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật này là kho pháp vô tận của các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả Phật pháp đều được sanh ra từ nơi đó.

Khánh Hỷ nên biết! Pháp yếu mà chư Phật hiện tại, quá khứ, vị lai đã nói đều lưu xuất từ kho pháp vô tận là sáu pháp Ba la mật này”.

Không có lời nhắn nhủ nào tha thiết bằng lời phó chúc này, nên phần sau quyển 457 đến phần đầu quyển 458, Hội thứ II, ĐBN, có một phẩm nội dung tương đương với phẩm “Phó Chúc”, nhưng phẩm tựa lại khác, tên là “Thật Ngữ”. Những ai tin tưởng vào thật ngữ mà Như Lai giao phó cho A Nan mà theo đó thọ trì, đọc tụng, giảng nói, quảng bá sâu rộng… thì sẽ chứng Vô thượng Bồ đề, đạt Nhất thiết trí trí và được sang bờ kia. Kinh nói: “Nên biết, Nhất thiết trí trí, quả vị Giác ngộ tối cao, sở đắc của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát nhã Ba la mật mà xuất sanh. Bát nhã Ba la mật như thế là mẹ của các đại Bồ Tát, sanh ra các đại Bồ Tát. Bát nhã Ba la mật như thế là kinh điển sáu phép Ba la mật sâu xa, là tạng pháp vô tận của chư Như Lai”.

Hãy giữ lòng tin thanh tịnh phụng trì sáu pháp Ba la mật này rồi sẽ có cơ hội thoát khỏi những phiền não lậu tận, các ngục tù đen tối của thế gian mà sang được bờ kia. Phật đã dùng thật ngữ hay tâm huyết khuyến bảo thọ trì, đồng thời quảng bá kinh này. Chúng ta may mắn được làm người, có đầy thiên căng công đức mới có phúc duyên đọc tụng thọ trì kinh nầy. Nên đây là dịp may hiếm có trong kiếp này. Theo lời Phật dạy thọ trì đọc tụng, rộng vì người thư giải khiến lưu bố, phước đức không gì bằng. Pháp thí là pháp cúng dường cao cả nhất trong tất cả pháp bố thí, cúng dường. Xin đừng lãng quên./.

 

---o0o---

 

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 6070)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian,Ngôn ngữ, Giáo nghĩa,và Giải hành liên qua đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung Luận, bản tiếng Phạn.Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải,Hành,Chứng trong Hoa nghiêm.
08/04/2013(Xem: 13159)
Tập sách này in lại những bài viết về Trung Quán Luận, đã đăng trong Nguyệt San Phật Học. Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai. Trong những tác phẩm của người, Trung Quán Luận trình bày tánh Không, phần tinh túy của giáo lý đạo Phật.
08/04/2013(Xem: 22148)
Con người là sinh vật quan trọng nhất – Đức Phật từ con người mà thành Phật – vì nó có những đặt tính ưu việt hơn tất cả những loài vật khác; nhưng Phật Giáo lại không cho con người là độc tôn, vì còn có những chúng sanh hữu tình và vô tình khác. Hai loại này ở trong một thể thống nhất giữa thế giới và nhân sinh. Vì thế, không có con người là kẻ thù của con người, cho đến loài vật, cây cỏ cũng vậy.
08/04/2013(Xem: 5452)
Giải thích tổng quát về Kinh Hoa Nghiêm theo hệ Kinh tạng Đại Thừa: Đức Phật ra đời vì “hạnh phúc an lạc của chư Thiên và loài người” như lời Ngài đã từng tuyên bố. Thế nên sự sống mà Đức Phật ra đời thật vô cùng quan trọng, đó là chân lý, là Pháp âm được vang lên khắp vũ trụ sơn hà. “Pháp âm bất tuyệt” tất cả tiếng chim hót, dế ngân, sóng vỗ, thảo mộc, khai hoa, thông reo suối chảy, đến tiếng đá rơi ... đều là pháp, không nơi đâu không phải là pháp.
08/04/2013(Xem: 16954)
Ðể có thể nhận diện được tổng thể hệ thống loại hình sám văn, đó là cách phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa. Tuy nhiên, vì sám văn có quá nhiều chủ đề, tùy theo lĩnh vực mà sử dụng riêng khác, nên rất phong phú đa dạng. Ðể nắm được tổng thể bố cục của cách phân loại nầy, chúng tôi xin khái lược về các cách phân loại có liên hệ trực tiếp. Qua đó, chúng ta có cơ sở để nhận diện được toàn hệ thống phân loại.
08/04/2013(Xem: 12999)
Xin quí vị bấm vào xem PDF
08/04/2013(Xem: 24784)
Phật Pháp hằng còn mãi ở thế gian là nhờ sự hoằng truyền sâu rộng trong quần chúng. Thiếu sự hoằng truyền, Phật pháp phải bị mờ và có thể đi lần đến chỗ tiêu diệt. Trong công đức hoằng truyền ấy, phiên dịch là một phần rất quan trọng.
08/04/2013(Xem: 6127)
SỰ THẬT VỀ CON ĐƯỜNG (Marga-satya): Sự thật thứ tư là con đường trực tiếp đưa đến sự giải thoát chấm dứt khổ đau. Sự thật này là tác nhân giải thoát hiện tại đưa đến chấm dứt quả khổ gần hay xa trong . . .
05/04/2013(Xem: 28629)
Nhân dịp dạy Nghi-lễ nơi Trường-hạ chùa Phật-Tâm năm 1973 nầy, các khóa-sinh đã ngỏ ý nhờ tôi biên soạn thành tập cho dễ học và tránh được những lỗi vì học tập nhiều môn e bận rộn mà biên sót ghi lộn. Nghi lễ là gì? Nghi là Nghi-thức, khuôn-mẫu bề ngoài, thuộc phần hình thức; Lễ là cách bày tỏ ý cung kính của mình, lấy hình thức lễ cúng mà nói lên niềm tôn kính bên trong. Học Nghi-lễ là học những cách thức làm lễ, học những bài tụng niệm để ứng dụng trong khi nguyện cầu, cúng hiến. Nhưng, quyển Nghi-lễ nầy không trình bày hết các Đại-nghi-lễ, chỉ biên soạn đơn-giản những nghi thức gợi ý để cho các khóa-sinh tiện dụng, cho nên khi thật hành có thể tùy ý uyển-chuyển, linh động thêm bớt cho thích hợp với hoàn-cảnh của sự việc. Vì tuổi già thường bịnh, nên thân thể lười, tôi cố gắng biên soạn được chừng nào hay chừng ấy, vị nào muốn đầy đủ hơn xin tham khảo nơi các bực cao-minh.
02/04/2013(Xem: 13064)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội. 4
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]