Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới Đàn Tăng (sách)

29/03/201317:55(Xem: 10477)
Giới Đàn Tăng (sách)

Gioi Dan Tang
GIỚI ĐÀN TĂNG
 

Soạn dịch: H.T THÍCH THIỆN HÒA

(Nguyên bản chữ Hán)

 

MỤC LỤC

Phần 1

1. Nghi thức thọ Quy giới

2. Nghi thức thọ Ngũ giới

3. Phép thọ giới Bát quan trai

4. Nghi lễ xả giới Bát quan trai

5. Phép truyền thọ giới Sa Di

6. Nghi thức thọ giới Tỳ kheo

7. Khoa tiết truyền giới Bố Tát

8. Nghi thức của Giới sư ni đem Giới tử Ni đến chùa Tăng thọ giới

9. Vài điều cần yếu trong khi truyền giới Tỳ Kheo Ni

10.  Phép lễ cầu thầy truyền giới

 

Phần 2

 

11.  Phép bạch lễ tạ

12.  Văn phục nguyện (sau khi truyền giới xong)

13.  Phép kiết giới tràng và đại giới

14.  Phép kiết giới không mất y

15.  Phép giải đại giới

16.  Phép kiết tiểu giới để thọ giới

17.  Phép giải tiểu giới để thọ giới

18.  Phép kiết giới tịnh trù

19.  Phép giải giới tịnh trù

20.  Phép kiết giới tịnh khổ

 

Phần 3

 

21.  Vài điều cần khi kiết và giải các giới

22.  Kiết hạ an cư

23.  Sắp đến ngày an cư

24.  Phép Thượng tọa đối thú an cư

25.  Phép đại chúng an cư

26.  Phép hậu an cư

27.  Phép tâm niệm an cư

28.  Phép thụ nhựt ra ngoài giới

29.  Phép thụ bảy ngày ra ngoài giới

30.  Phép thọ ngày còn dư ra ngoài giới

 

Phần 4

 

31.  Phép thọ ra ngoài giới nửa tháng hoặc một tháng

32.  Phép tự tứ

33.  Phép sám hối

34.  Phép chính tự tứ

35.  Phép bốn người trở xuống lần lượt tự tứ

36.  Phép một người tâm niệm tự tứ

37.  Phép tu tiến hành đạo và thêm ngày tự tứ

38.  Phép cho cạo tóc thọ giới

39.  Phép cho cạo tóc

40.  Phép cho xuất gia trao giới Sa Di

 

Phần 5

 

41.  Phép cho ngoại đạo cùng ở

42.  Phép cầu xin y chỉ

43.  Nghi thức thế phát (cạo tóc)

44.  Phép Tỳ Kheo Ni nuôi chúng

45.  Phép Ni chúng trao giới cho Thức Xoa Ma Na Ni

46.  Phép tự tứ của Ni chúng

47.  Phép Ni sai người tự tứ đến trong Đại Tăng

48.  Ngày rằm tự tứ

49.  Phép gởi dục

50.  Thọ dục rồi chuyển trao gởi dục cho vị khác

51.  Phép thuyết dục

52.  Đi bái tuế

53.  Ni chúng sắp đến ngày an cư

54.  Thỉnh Tam Sư Thất chứng

55.  Có các nạn sự duyên không cho thọ giới

56.  Nghi thức truyền thọ Thập thiện

 




LỜI TỰA

            Nguyên bộ Giới Đàn này đã ra đời không biết từ thời nào. Đến đời Tự Đức (1847 – 1881) năm thứ 34, có Ngài Tỳ kheo Phổ Tấn học thông kinh luật, thấy bộ Giới Đàn này còn thiếu văn Yết ma, nên Ngài bạch lên Tổ Vĩnh Nghiêm xin nghiên cứu bộ Huyền Ty và bộ Yết Ma Chỉ Nam thêm vào cho đủ để người sau dễ thực hành. Bộ sách này bằng chữ Hán, từ trước đến nay chưa ai phiên dịch ra Việt văn.

Đến nay Hán học làn kém, nếu không phải là người tham học kinh luật uyên thâm, thì không làm sao mà đường được.

Muốn bớt chỗ khó cho đời sau, chúng tôi chẳng thẹn tài hèn, nguyện dịch bộ Giới Đàn ra chữ Việt, để cho sự truyền thọ giới pháp khỏi phải mất nhiều công nghiên tìm tham khảo. Tuy thế, nhưng cần phải thấy làm qua, hay có giải thích mới hiểu biết tường tận.

Trong bản chữ Hán, Ngài Phổ tấn đã sắp xếp lại rất công phu và đối với thời trước cũng rất thích hợp; nhưng đến đời nay xét kỹ lại thấy còn nhiều chỗ thừa, cần phải bớt ra, những chỗ thiếu cần thêm vào. Để cho việc Yết ma truyền thọ được dễ làm dễ hiểu.

Trong bản dịch này, còn nhiều chỗ cần phải để nguyên văn chữ Hán, để khi xướng lễ kêu gọi mới linh động.

Chương sau có đặt để câu văn tác bạch, vấn đáp sẵn sàng, giới tử sẽ tùy phương tiện mà châm chước và lời huấn thị của Giới Sư cũng sẽ tùy thời cơ mà khyến tấn.

Bộ Giới Đàn này có đủ nghi thức trao Tam quy, Ngũ giới, Bát Quan Trai giới, Sa Di giới, Tỳ Kheo giới, Bồ Tát giới và Tỳ Kheo Ni giới.

Việc dịch và sắp đặt lại bộ Giới Đàn này là cả một vấn đề khó khăn, vì phải so trước xét sau và phải trải qua nhiều năm kinh nghiệm mới dám hoán cải.

Tuy vậy chúng tôi còn mong các bậc cao minh, thấy chỗ nào còn thiếu sót chỉ bảo thêm cho, để bộ Giới Đàn này càng được hoàn bị hơn.

 

CẨN CHÍ

THÍCH THIỆN HÒA









Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2016(Xem: 16805)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 51 , tháng 2 năm 2016, • THƯ TÒA SOẠN, trang 2 • NGÀY XUÂN - LỄ PHẬT ĐẦU NĂM (Nguyên Siêu), trang 3 • HUYỀN NGHI, ÂM HƯỞNG, HOÀI CẢM (thơ Phù Du), trang 4 • Ý NIỆM VỀ MÙA XUÂN DI LẶC (Tuệ Như), trang 5 • TRÀ KHUYA & TRĂNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 6 • ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN HÁI LỘC (Pháp Hỷ), trang 7 • ĐẦU XUÂN KÍNH NGUYỆN (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 • MÙA XUÂN HOA NGHIÊM (Nguyễn Thế Đăng), trang 9 • BẢN HOÀI CỦA TU SĨ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 11 • BIỂN VÀ THƠ (thơ Minh Lương), trang 12 • SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (Thích Thái Hòa), trang 13
06/01/2016(Xem: 16872)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
23/07/2015(Xem: 14132)
Kinh Pháp Hoa. Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập. Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
23/07/2015(Xem: 27600)
Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng (trọn bộ 8 quyển)
06/07/2015(Xem: 18794)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
12/04/2015(Xem: 14695)
Những ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một cơn bão lửa như thế. Bão lửa, từ bắc vào nam, từ cao nguyên xuống đồng bằng, từ rừng sâu ra hải đảo, từ thôn quê vào thị thành… thiêu rụi bao cội rễ của rừng già nghìn năm, đốt cháy bao cành nhánh của cây xanh vườn tược. Tất cả mầm non đều héo úa, quắt queo, không còn sức sống, không thể đâm chồi, nẩy lộc. Tất cả những gì xinh đẹp nhất, thơ mộng nhất, đều tan thành tro bụi, hoặc hòa trong sông lệ để rồi bốc hơi, tan loãng vào hư không. Màu xanh của lá cây, của biển, của trời, đều phải nhạt nhòa, biến sắc, nhường chỗ cho màu đỏ, màu máu, màu đen, màu tuyệt vọng.
04/02/2015(Xem: 22477)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
07/01/2015(Xem: 15460)
Để trả lời nghi vấn của một số độc gỉa TVHS về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm , GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự.
02/12/2014(Xem: 24346)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam, và được nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành lần đầu tiên vào năm 1991 tại California, Hoa kỳ đã được nhiều độc giả tiếng Việt hâm mộ. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí độc giả và hành giả tu tập thiền nhiệt tình, và nhà xuất bản Thanh Văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567