Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm (PDF)

24/10/201108:28(Xem: 8432)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm (PDF)
Bo_Tat_Quan_The_Am_2
KINH NGŨ BÁCH DANH QUÁN THẾ ÂM
Quảng Minh dịch

Kính dâng lên giác linh Hòa thượng bổn sư Thượng Minh hạ Hạnh nhân húy nhật lần thứ 16.
Kính dâng lên Song thân.
Nguyện cầu những ai lễ lạy 500 danh hiệu bồ tát Quan Thế Âm
sẽ được đại sĩ nắm giữ bằng ngàn tay, soi thấy bằng ngàn mắt,
làm cho phát khởi và thực hành hạnh từ bi.
Con về nương tựa Phật, con về nương tựa Pháp, con về nương tựa Tăng,
con về nương tựa bồ tát Quán Thế Âm,
cầu nguyện cho Má con bịnh chướng tiêu trừ, ta bà ha.


LỜI PHI LỘ

Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.) Theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của G.S Nguyễn Lang, Thủy Lục Chư Khoa, “một nghi thức cúng cô hồn dưới nước và trên cạn”, được thiền sư Chuyết Chuyết (1590 – 1644) đem theo lần đầu khi vào Việt Nam hoằng hóa. Xem toàn văn Thủy Lục Chư Khoa thì thấy đó là khoa nghi của truyền thống Phật giáo Việt Nam khởi đi từ thời Trần rồi tiếp tục được trùng san bởi thiền sư Chân Nguyên (1646 – 1726), cụ thể là Nghênh Sư Duyệt Định Khoa của ngài được thêm vào phần mở đầu của Thủy Lục Chư Khoa. Như vậy, kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm hẳn phải xuất hiện trước thời của thiền sư Chuyết Chuyết, tức trước thế kỷ thứ 16, lùi xa hơn nữa tới thế kỷ thứ 12 của Phật giáo đời Trần, đặc biệt có thể xuất hiện vào thế kỷ thứ 13, khi mà tín ngưỡng bồ tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt được truyền tụng rộng rãi.

Người dịch có bản phóng ảnh kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm của Viện Thông Tin Khoa Học Xã Hội. Đó là bản kinh xưa mà các chùa cổ ở miền Bắc thường tàng bản, bìa khổ 16.5 x 29 cm màu nâu, dày 100 trang giấy dó, rìa kinh bôi mực đỏ. Trang đầu tiên là tựa kinh cùng hai hàng chữ ghi: “Hà Nội tỉnh An Trạch thôn Xiển Pháp tự tàng bản” và “Thành Thái Mậu Tuất trọng hạ cát nhật trùng tuyên” (“Chùa Xiển Pháp, thôn An Trạch, tỉnh Hà Nội tàng bản” và “Thành Thái Mậu Tuất (1898), mùa Hạ, ngày lành trùng khắc”). Trang 3 là hình tượng đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni và trang 4 là hình tượng bồ tát Quán Thế Âm hai mươi bốn tay. Nghề in của nước ta có ra là từ việc in ấn kinh sách nhà Phật, và chùa Xiển Pháp (nằm bên phải Văn Miếu) là một trong những cơ sở in khắc nổi tiếng ở tỉnh Hà Nội, với 17 bản kinh như: An tượng tam muội kinh, Lục Tổ đàn kinh, Kim Cương Bát Nhã Kinh, Kim Cương Kinh luận, Dược Sư, Mục Lục kinh, Hộ Đồng Tử kinh, Đại Bi xuất tướng, Ngũ bách danh kinh, Tam quy Ngũ giới kinh, Phổ Môn phẩm kinh, Nhân quả hồi dương, Di Đà nhân quả kinh diễn âm, Mục Liên kinh diễn âm, Ngũ Vương xuất gia kinh diễn âm, Bố thí công đức kinh diễn âm, Thập lục quán kinh diễn âm.

Chùa Quán Sứ có ấn bản Ngũ Bách Danh Kinh Đối Chiếu, có lẽ in sau năm 1934, năm mà Tổng Hội Phật Giáo Bắc Kỳ thành lập. Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm hiện nay lưu hành là trích trong Chư Kinh Nhựt Tụng, Thích Chân Lý, chùa Đức Hòa xuất bản, Sài Gòn 1967. Đó là bản dịch âm có biên soạn của Hòa thượng Thích Tâm Châu. Nay người dịch chỉ dịch âm toàn bộ bản gốc cùng dịch nghĩa, với tâm niệm mong sao, qua phần chuyển ngữ có thêm thắt cho rõ nghĩa nhưng có căn cứ vào các kinh điển liên quan đến bồ tát Quán Thế Âm, những người con Phật lễ lạy 500 danh hiệu của đại sĩ sẽ được “cảm ứng”. Sau khi đối chiếu với các kinh như: kinh Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát Quảng đại viên mãn đại bi tâm đà la ni, kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Như Ý Luân Đà La Ni Thần Chú, kinh Bất Không Quyến Sách Chú, phẩm Phổ Môn của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì thấy rằng kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không chỉ ca ngợi danh hiệu, bản nguyện, công đức của đại sĩ Quán Âm, mà còn đề cao tha lực của ngài và của các thần chú như: chú Đại bi, chú Như ý ma ni luân, chú Thiên chuyển. Phần cuối của lễ sám là tụng kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ. Kinh này là một trong những kinh quan trọng của đạo Cao Đài, nhưng xét trong tạng chữ Vạn thì đây là kinh số 34, một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ. Điều đặc biệt là, thay vì tụng Tâm kinh để kết lại việc lễ sám, người xưa đã sử dụng kinh Cứu Khổ. Thâm ý có lẽ bản thân kinh này cũng là một thần chú với lời nguyện cầu thiết tha, và trên hết, tụng niệm kinh này thì có cảm ứng. Phật giáo hiện tại có rất nhiều kinh điển để tụng niệm của hai truyền thống Nam truyền và Bắc truyền, vì vậy kinh Cứu Khổ bị đưa vào quên lãng, chỉ còn lưu truyền trong đạo Cao Đài và đăng trên các trang báo với lời ghi “đọc những lời nguyện này 9 ngày (9 lần) thì cầu gì được nấy – được việc nhờ in những lời nguyện này” hay trên vài trang nhà Phật giáo. Kinh này đi cùng với kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm, được san bổ lại phần chú ngữ, vốn được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian, hẳn là đề tài thú vị để nghiên cứu.

Trong khi chuyển dịch chắc không sao tránh những lỗi lầm, người dịch ngưỡng mong chư vị thiện tri thức từ bi chỉ giáo.

Vía Quán Thế Âm bồ tát
19.09. Kỷ Sửu (05.11.2009
Quảng Minh
Cẩn chí

Xem tiếp: KINH NGŨ BÁCH DANH QUÁN THẾ ÂM (PDF)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 7945)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
21/02/2013(Xem: 11860)
Hòa thượng húy là Trần Hữu Phước, pháp danh Thích Thanh Từ, sau đổi lại húy là Trần Thanh Từ. Sinh ngày 24 tháng 07 năm Giáp Tý (1924), tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long). Thân phụ của Hòa thượng húy Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo đạo Cao Đài, lập gia đình hơi muộn. Thân mẫu của Hòa thượng húy Nguyễn Thị Đủ quê làng Thiện Mỹ, dòng thanh bạch, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tụy hi sinh vì chồng vì con.
20/02/2013(Xem: 8840)
Đạo Phật có mặt trên đất nước Việt-nam đã 20 thế kỉ. Quốc văn của Việt-nam với Hán văn của Trung-quốc lúc bấy giờ, có thể nói là cùng đúc chung một lò. Từ xưa đến nay, tất cả các sách giáo khoa Phật học tại Việt-nam đều dùng Hán hệ làm chủ yếu. Trước đây khoảng 5 năm, Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh ở Đài-loan có tặng cho tôi một bộ sách giáo khoa Phật học bằng Hán văn, mang tên là “Phật Học Giáo Bản”, gồm 3 quyển, dành cho 3 trình độ: sơ cấp, trung cấp và cao cấp. Bộ sách do cư sĩ Phương Luân (người Đài-loan) soạn.
31/01/2013(Xem: 7145)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
19/01/2013(Xem: 21279)
Bộ sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh gồm 80 đầu sách dạng ebook (sách điện tử) với 3 định dạng PDF, EPUB và MOBI.
30/11/2012(Xem: 13528)
Mùa hạ năm 1970 tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, chúng tôi được Thầy Đức Chơn và Thầy Phước Châu giao việc dán lại trang Bát-Kính-Pháp bị nhầm trong sách "Phật và Thánh Chúng" của Thầy Cao Hữu-Đính do Phật Học Viện Trung Phần ấn hành và in tại Nhà in Hoa Sen, NhaTrang. Sau khi công việc hoàn tất, chúng tôi được Quý Thầy cho mỗi người một quyển sách này, tuy rằng lúc ấy chưa phát hành. Lần đầu tiên trong đời, tôi bị tác động rất lớn, qua hình ảnh các Phật-tích ở Ấn Độ và những câu chuyện về Đức Phật và các đệ tử trong quyển sách.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567