Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần A: Dẫn Nhập

23/11/201017:56(Xem: 2676)
Phần A: Dẫn Nhập


Phần A : DẪN NHẬP

I. NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT

Pháp Quán Thế Âm là đệ nhứt tâm pháp vì nó là một sản phẩm cao quý của lý tưởng Đại Thừa, được đức Phật đề cập trong ba bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Kinh Bát Nhã, và Diệu Pháp Liên Hoa.

Pháp Quán Thế Âm có tính cách phổ môn vì nó được phổ biến khắp cửa nhà, khắp nơi chốn nhằm biến tối thành sáng, biến sầu hận thành an vui, biến đau thương thành hạnh phúc.

Bồ Tát QuánThế Âm rất gần gũi với chúng ta. Tiêu biểu cho đức tánh Đại Từ Bi, Ngài luôn cứu giúp chúng sanh đau khổ và lâm nạn, không phân biệt nam nữ, tín ngưỡng, quốc gia, dân tộc, dưới dạng một nữ Bồ Tát mà người đời thưòng tôn xưng là Phật Bà Quán Âm Nam Hãi.

Tình thương mà Ngài ban rãi cho muôn loài là một thứ tình thương bất vụ lợi, vô tư giống như ngàn hoa cùng đua nở để tô điểm cho cuộc đời được thêm tươi.

Trong thế giới cuồng loạn ngày nay, mọi người đang tranh giành quyền lợi, cấu xé lẫn nhau vì miếng cơm manh áo, vì bả vinh hoa, phú quí nên đau khổ và phiền não là những hậu quả đương nhiên, khó bề tránh khỏi.

Để có thể giúp mọi người vượt qua khổ ách, chúng ta phải phát huy tình thương bằng cách hành các pháp mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã thành tựu trong vô lượng kiếp về trước. Những cảnh khổ đau càng diễn tả ra trên đời nhiều chừng nào thì chúng ta càng phải ra sức công phu hành trì các pháp ấy càng nhiều chừng nấy. Đời càng khổ, pháp Quán Thế Âm mới càng có gía trị thiết thực. Đó là lý mâu thuẫn, đối kháng luôn diễn bày trong cảnh giới nhị nguyên, giữa hai thế lực, một của đau khổ phá hoại và một của tình thương xây dựng. Đó cũng là nguyên nhân chánh yếu chứng minh sự cần thiết của pháp Quán Thế Âm trong thời kỳ mạt pháp, xa Phật thiếu pháp, nặng vật chất, nhẹ tinh thần như thời kỳ mà chúng ta đang sống vào cuối thế kỷ 20, sắp bước sang thế kỷ 21. Có thể nói mà không sợ sai lầm, pháp Quán Thế Âm là pháp tu tập của thời đại.

Vì thế trước khi hành chúng ta phải tìm hiểu cho tường tận pháp này, đúng theo một quy trình quen thuộc trong Phật pháp, đó là quy trình TÍN, GIẢI, HẠNH, QUẢ.

Chúng ta tin vào khả năng gia hộ của Bồ Tát, tin vào giá trị của các pháp mà Ngài đã từng hành trì. Từ đó chúng ta mới tìm hiểu sâu rộng, tìm biết cho đúng chánh pháp của Ngài.

Thông thường, hể nói đến pháp Quán Thế Âm thì người ta liền liên tưởng đến pháp Phổ Môn, cứu khổ cứu nạn của Ngài trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Pháp Phổ Môn nằm trong Phần 25, kinh Pháp Hoa, là pháp xiển dương công đức cứu độ của Bồ Tát, bởi lẽ Quán Thế Âm là << ánh sáng thanh tịnh, là mặt trời huệ soi sáng các chỗ tối tăm, hàng phục nạn tai khói lửa, là tâm Đại Bi rưới mưa pháp cam lồ dứt trừ phiền não xua đuổi hận thù nơi pháp đình cũng như nơi trận địa >>. (Phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa).

Nhưng thật ra, pháp Quán Thế Âm không phải đơn thuần chỉ có pháp Phổ Môn, nó còn gồm có pháp tu Nhĩ căn viên thông trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, và pháp chiếu soi hay chiếu kiến ngủ uẩn giai không trong Tâm kinh Bát Nhã.

Hai pháp này rất quan trọng đối với những ai đang và sẽ tu Phật vì chúng có khả năng giúp chúng ta bước vào cửa động Thiếu Thất của Thiền Đông Độ để hòa nhập với bản thể Chơn như thanh tịnh.

Không hành hai pháp này, làm sao chúng ta có thể tỏ thấu được pháp tánh vô sanh ? Tuy việc thể nhập Chơn Như chỉ là cái bước đầu làm căn bản cho quá trình tu tập của chúng ta để đi đến chứng đắc tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, nhưng xét cho chùng bất cứ ai tu Phật mà không thể nhập được Chơn Như, dù thể nhập từng phần, từng phần cũng vậy, thì cũng như người đó không tu, không sửa, không làm được điều gì có lợi cho người và cho mình.

II. SỰ TÍCH CỦA BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM :

Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhản Quán Thế Âm Bồ Tát, quảng đại, viên mãn, vô ngại đại bi tâm Đà la ni, được Samôn Bạc Già Đạt ma (Bhagavaddharma) người Ấn dịch từ Phạn sang Hoa ngữ, vào đầu thế kỷ thứ 7, sau Tây lịch, đời nhà Đường, thì đức Phật Thích Ca khi ngự tại Đạo Tràng Bảo Trang Nghiêm của Bồ Tát Quán Thế Âm, đã giới thiệu cho tự chúng biết về sự tích và công hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm qua việc hành trì thần chú Đại Bi mà Bồ Tát đã thọ nhận trong vô lượng ức kiếp về trước nơi đức Phật Thiên quang Vương Tịnh Trụ.

Lúc được Phật Tịnh Trụ trao cho thần chú Đại Bi, Bồ Tát vẫn còn ở đảng vị Sơ Địa. Vừa nghe xong thần chú, Ngài liền chứng được đệ bát Địa. Vô cùng cảm kích, Ngài vội vàng phát ra lời đại nguyện sau đây :

“Nếu trong đời vị lai, con có thể đem lợi ích và an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này thì xin khiến cho con được 1000 tay, 1000 mắt”. Phát nguyện xong, 1000 tay và 1000 mắt đều hiện ra đủ nơi thân Ngài. Theo lời giải thích của Phật thì mỗi tay tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Mà chúng sanh luôn mong cầu và mong cầu rất nhiều việc, do đó Bồ Tát mới nguyện cho có đủ 1000 tay để giúp đở chúng sanh.

Theo kinh Bi Hoa, tiền thân của Bồ Tát là Thái tử BẤT HUYỀN, có em ruột là Vương tử Ni Ma mà kinh Phật thường gọi là Bồ Tát Đại Thế Chí, cả hai đều là con của vua Vô Tranh Niệm. Về sau, Vua thị hiện làm 1 trong 16 Vương tử, còn của một vị vua bỏ ngôi đi tu thành Phật, hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai (Kinh Pháp Hoa, Phẩm 7 : Thí dụ về Hóa Thành). Tất cả 16 vương tử đều thành Phật, vị thứ 9 là Phật A Di Đà, phạn ngữ là Amitabha, dịch nghĩa là Vô Lương Thọ, Vô Lượng Quang ở phương Tây, còn vị thứ 16 là Phật Thích Ca Mâu Ni ở cõi Ta Bà.

Đức Phật A Di Đà chính là vua Vô Tranh Niệm thường được tượng thờ chung với hai vị nữ Bồ Tát, bên trái là Bồ Tát Quán Thế Âm đứng trên lưng rồng, tay câm hồ lô và cành dương liễu, bên phải là Bồ Tát Đại Thế Chí, một vị tiêu biểu cho tâm Bi, một vị cho Đại Trí.

Dưới con mắt của người đời, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là Phật Bà Quan Âm Nam Hải luôn thị hiện cứu giúp chúng sanh lâm nạn và hóa độ để tiếp dẫn họ về cõi Cực lạc của Phật A Di Đà lúc lâm chung. Ngài là vị cổ Phật được biết dưới danh hiệu là CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI.

Do đâu mà ngày nay các chùa chiền lấy ngày 19 tháng 2 Âm lịch làm ngày vía đản sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm? Đây là một sự tích bên Trung Hoa ở đời nhà Tùy (581-618) của một vị Hòa Thượng, sanh nhằm ngày 19-2 ÂL. Sau khi tịch diệt, nhục thân của vị Hòa thượng được hỏa táng. Ngay lúc đó, tự nhiên hiện ra giữa hư không một thân người vô cùng tốt đẹp khiến cho mọi người cho đó là hóa thân cùa Bồ Tát Quán Thế Âm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2022(Xem: 2172)
Thế Chí Đại sĩ, bình báu lung linh Thâu nhiếp niệm Phật thệ nguyện rộng thênh Biển cả bao la, hầu cận Di Đà Trừ mê cứu khổ thoát khỏi Ta Bà Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần).
15/07/2022(Xem: 3411)
Gần đây nhờ theo dõi thường xuyên các khoá An Cư Kiết Đông của Phật Giáo Đại thừa thường kiết giới bắt đầu từ rằm tháng tư và giải chế tự tứ vào rằm tháng 7 và một trong các thời khoá có nghi thức lạy Ngũ bách Danh Quan Thế Âm hoặc lạy mỗi chữ một lạy trong kinh Pháp Hoa mà cuối câu đều là Quán thế Âm thí dụ :
13/06/2022(Xem: 4731)
Lễ An Vị Bồ Tát Quan Âm Tam Diện Lộ Thiên tại A Di Đà Land, Taralga, NSW, Úc Châu (11/6/2022) MC: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên -Phật tử tề tựu -Cung thỉnh Chư Tôn Đức quang lâm -Giới thiệu chương trình, chư tôn đức và quý quan khách tham dự -Lời chào mừng của Đạo hữu Tony Thạch Quân Thật, pd: An Hậu -Lời đạo từ của Thượng Tọa chứng minh -Lễ tụng kinh sái tịnh an vị (TT Nguyên Tạng & NS Như Như) -Tặng quà và phát bằng tán dương công đức đến quý Phật tử đóng góp công quả cho A Di Đà land trong thời gian qua -Chụp hình lưu niệm -Thọ trai và hoàn mãn
16/04/2022(Xem: 3401)
Phật Mẫu Chuẩn Đề ngự trên đài sen Vầng hào quang ánh tỏa ra rực rỡ Phật, Pháp,Tuệ nhãn chiếu soi cứu độ Chúng sanh khỏi kiếp khổ nạn đau thương
23/03/2022(Xem: 3024)
Kính lạy Đức Bồ Tát biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn Hình thành nội hàm tín ngưỡng tinh thần BI, TRÍ, NGUYỆN, HẠNH của Phật giáo Bắc Tông (1) Điểm đặc sắc ...Đại thừa tâm lượng rộng lớn !
20/03/2022(Xem: 2702)
Tâm Đại từ bi. Từ là năng lực đem lại an vui cho chúng sanh; Bi là năng lực dứt trừ khổ đau cho mọi loài. Từ bi có sức mạnh thể chất và tâm linh để dõng mãnh làm lợi lạc cho đời, như vậy trong từ bi đã bao hàm Trí tuệ và Hùng lực mới đủ uy đức nhiếp chúng độ sanh. Tâm Đại từ bi là tâm của bậc đã thành tựu đạo nghiệp. Nay phàm phu chúng con nghiệp dày phước mỏng nhưng cũng nguyện thực tập theo hạnh Từ bi của Bồ Tát. Nguyện cho tâm chúng con mỗi ngày một bớt giận ghét người, không sân si với hoàn cảnh mình đang sống và biết ơn với những gì mình đang có. Nguyện đem tất cả khả năng của mình để cống hiến niềm vui cho đời, giúp người bớt khổ. Nhờ vậy mà tâm chúng con ngày càng tỏa sáng tình thương yêu, hiểu biết để thể nhập vào nguồn sống dạt dào Từ Bi Hỷ Xả của chư Phật, chư Bồ Tát.
19/03/2022(Xem: 2552)
Bồ Tát có gốc là Bodhisattva. Từ Bodhi có nghĩa là " giác ngộ.", sattva có nghĩa là "chúng sanh". Bodhisattva được dịch là chúng sanh giác ngộ hoặc người giác ngộ. Sau khi đạt được giác ngộ, bằng từ bi và trí tuệ, vị Bồ Tát giúp mình và người khác vượt qua biển khổ đến bờ an lạc. An lạc chính là Niết Bàn. Trong cuộc sống hàng ngày, các vị Bồ Tát luôn có mặt quanh ta, gồm Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia. Đó là những người bằng trí tuệ, công sức giúp mọi người bớt khổ đau trong thân và tâm. Bồ Tát làm được điều đó bởi trong tâm của Bồ Tát tồn tại một năng lượng gọi là Tâm Bồ Đề. Khi quy y Tam Bảo, ai cũng muốn có Tâm Bồ Đề. Để đạt được Tâm Bồ Đề của một vị Bồ Tát, người tu phải tự hỏi: Mình an lạc không? Mình sống chan hòa với những người xung quanh không? Người tu phải hiểu rõ cái tính Không trong cuộc sống. Hoa cũng là đất và đất cũng là hoa. Bởi khi ngộ được “Ngũ uẩn giai không” thì mới “ độ nhất thiết khổ ách” tức là vượt qua mọi khổ đau đến được bờ Niết Bàn.
01/11/2021(Xem: 5480)
Kính mừng Lễ Vía Đức Phật Dược Sư Đản Sinh 30/9 Nhân ngày lễ Đức Đông Phương Giáo Chủ cùng tìm hiểu niềm tin đối với Ngài và sự mầu nhiệm linh ứng đến với mỗi Phật Tử .... Cách đây 25 năm, lần đầu tiên sự linh ứng của Phật Dược Sư đã đến với tôi một cách bất ngờ mà sau này khi học Phật tôi mới hiểu là mình có được túc duyên mới có được một phương thuốc nhiệm mầu về tâm linh do Ngài ban tặng qua câu thần chú linh ứng như sau mà lúc ấy chưa có YouTube để nghe như bây giờ .... Thần chú Dược Sư là một trong những câu thần chú được trì tụng nhiều nhất bởi công năng bất khả tư nghì mà nó đem lại cho hành giả khi trì tụng. Không chỉ có năng lực chữa lành bệnh tự thân hành giả mà còn có công năng chữa bệnh cho người khác. Quan trọng hơn là khả năng tịnh hoá những nghiệp bất thiện trong
22/10/2021(Xem: 2813)
Kính mừng Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 Kính dâng Thầy bài thơ nhân ngày Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 âm lịch ( 24/10/2021) .Kính chúc sức khỏe Thầy Kính ngưỡng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ... Một lần nữa, sự nhiệm mầu đã đến ! Melbourne vừa gỡ bỏ lockdown hai ngày Lễ vía Bồ Tát 19/9 sẽ cử hành ... hoan hỷ thay ! Mừng Ngài đã lắng nghe, giải cứu giúp thoát Khổ ! Sự là lòng từ bi nhân ái vị tha ...Bồ Tát Độ Lý thì chúng con tự cứu độ bản thân Bao dung, không tham đắm ái nhiễm bụi trần Bố thí, yêu thương người .. luôn giữ tâm ý sạch ! Kính nguyện : ... học ý nghĩa tên Ngài để làm tròn trọng trách, Người Phật Tử phải thể hiện được Từ Bi Nhẫn nhịn trước mọi nghịch duyên chớ khóc than chi Hiểu rõ hơn, lắng nghe hơn ... giải tỏa uẩn khúc ! Ngày Lễ Vía Quan Âm Xuất Gia 19/9 .. nguyện hứa biết tri túc ! Huệ Hương Melbourne 24/10/2021
06/09/2021(Xem: 3755)
Địa ngục là một khái niệm thuộc thế giới quan, nhằm mục đích trừng ác, răn dè hành vi của con người trong thế giới thực tại. Quan niệm về địa ngục được hình thành trên cơ sở thuyết luân hồi, luật nhân quả, thuyết báo ứng. Từ tư tưởng triết học, địa ngục được chuyển hóa thành nhiều loại hình nghệ thuật tôn giáo khác nhau, từ các dịch phẩm, khoa nghi, thơ phú, cho đến nghệ thuật tôn giáo, hội họa, bích họa, điêu khắc, phù điêu, đồ họa. Sự ảnh hưởng của kinh tạng Bắc truyền và nền nghệ thuật Phật giáo Đông Á là điều ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Từ triều đại Lê Thánh Tông (1442-1496) có bài “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”, trong có đề cập đến thiên đường, địa ngục, Phong Đô, cảnh đói khát dưới chốn âm ty. Bài này dùng để răn dè 10 loại người gồm: thiền tăng, đạo sĩ, quan lại, Nho sĩ, thầy địa lý, thầy thuốc, tướng quân, hoa nương, thương nhân, đãng tử. Như vậy có thể hiểu được rằng dẫn có những tham khảo nhất định về địa ngục của Phật giáo. Bài này là để cúng xá tội vong li
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567