Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

150. Kinh Nói Cho Dân Nagaravinda

19/05/202011:39(Xem: 11193)
150. Kinh Nói Cho Dân Nagaravinda

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


150. Kinh NÓI CHO DÂN NAGARAVINDA

( Nagaravindeyya sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả             

          Du hành Kô-Sa-Lá, tức là

              Vương quốc tên Kiều-Tất-La  (1)

       Vua Ba-Tư-Nặc (1) trải qua trị vì.

          Đấng Toàn Tri cùng chư Phích-Khú

          Đến trú ngụ làng Bàn-môn là

              Làng Na-Ga-Rá-Vinh-Đa.

 

       Các vị Gia Chủ cùng là Bàn-môn

          Được nghe qua : “Sa-Môn Thích-tử

          Gô-Ta-Ma, danh tự Sắc-Da  (2)

             (Tức là dòng họ Thích Ca )

       Xuất thân vương-tộc thật là hùng anh

          Từ bỏ cả gia đình, vương vị,

          Lìa hoàng cung, quyết chí xuất gia…

              Đang đến tại Kô-Sa-La

       Cùng với Đại-chúng tịnh hòa Sa-môn

          Trú tại làng Bàn-môn thôn dả

          Na-Ga-Ra-Vinh-Đá đầu thôn.

              Đã được lan đi tiếng đồn :

      ‘Đó là một vị Sa-môn hiệu là

          Gô-Ta-Ma Thích Ca Tôn-giả                            

    ___________________________

 

(1) : Vương-quốc Kosala ( Kiều-Tất-La ) dưới sự trị vì của vua

      Ba-Tư-Nặc ( Pasenadi ).        (2) : Sakya ( Thích Ca ).


 

          Đang ở đây với cả Tăng Đoàn                 

             Khoảng năm trăm vị nghiêm trang

       Trú tại làng Na-Ga-Ra-Vinh-Đà

          Những tiếng đồn lan xa từ đó :

          Sát-Đế-Lỵ  giòng họ Thích Ca

             Xuất thân vương tộc, xuất gia

       Thành đạt đạo quả cao xa nhiệm mầu.

 

          Mười tôn hiệu cao sâu diệu ngữ

          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,

             Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,

       Chánh Đẳng Chánh Giác  đại từ uy linh

          Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc,

          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai.

 

             Do sự chứng ngộ tự Ngài

       So với Thiên giới, Ma loài, Phạm Thiên,

          Với các chúng chư Thiên, Nhân loại,

          Bà-la-môn với lại Sa-môn,

             Hiển thị mọi loài, tuyên ngôn

       Rồi lại tuyên thuyết Pháp môn nhiệm mầu

          Thuyết Sơ Thiện, rồi sau Trung Thiện

          Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy

             Trình bày Phạm hạnh từ đây

       Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên

          Thật đáng quý nếu tìm yết kiến

          Đại La-Hán thị hiện cõi đời.     

             Rồi thì Gia-chủ các nơi

       Bàn-môn (1) các vị đồng thời hợp nhau

          Họ lũ lượt đi mau đến cả 

    _______________________________

 

(1) :  Bàn-môn hay Phạm Chí  tức là Bà-la-môn. 

 

          Na-Ga-Ra-Vinh-Đá làng này

             Mong được yết kiến tại đây

       Thích Ca Tôn Giả trí tài tuyệt luân.

 

          Khi tất cả đã cùng đi đến,

          Nói những lời thân mến xã giao    

             Thân thiện chúc tụng, đón chào

       Rồi các vị ấy ngồi vào một bên

          Bà-la-môn, tuổi tên Gia chủ

          Có người thì khể thủ Sa-Môn

             Có người chúc tụng nói dồn

       Có người chỉ vái Sa-Môn rồi ngồi

          Cũng có kẻ nói trôi tên họ

          Cũng có kẻ chỉ ngó, lặng yên. 

 

              Phật nói với các vị trên :

 – “ Các Gia Chủ ! Ta nói lên điều là

          Nếu các nhà Du sĩ ngoại đạo

          Đến các ông và bảo như sau :

 

             ‘Gia Chủ ! Hạng Sa-môn nào

       Hay Phạm-chí (Bàn-môn) nào tỏ ra

          Không xứng đáng để ta cung kính,

          Tôn trọng, đính lễ hoặc cúng dàng ?’.

 

              Được hỏi vậy, hãy đàng hoàng

       Trả lời : ‘Đối với các hàng Sa-môn,

          Bà-la-môn nào đối với sắc

          Do từ mắt nhận thức, nhưng phần

             Không ly tham, không ly sân,

       Si không từ bỏ, nội tâm hoành hành

          Không tịch tịnh, sở hành thân nghiệp,

          Ngữ nghiệp và ý nghiệp lông bông

              Khi thăng bằng, khi thì không

       Những người như vậy thì không đáng gần

          Không đáng phần tôn trọng, cung kính,

          Không đáng đính lễ hoặc cúng dường.

 

              Sao vậy ? Chúng tôi vẫn thường

       Đối với các sắc, mắt thường nhận chân

          Không ly tham, ly sân, mắc dính

          Nội tâm không tịch tịnh, sở hành

              Thân, khẩu, ý-nghiệp thì hằng

       Khi thăng bằng, khi chẳng thăng bằng gì.

          Các vị chẳng hơn gì so với

          Khi nói tới thăng bằng chúng tôi’.

              Nên các Sa-môn, đồng thời

       Các vị Phạm-chí này thời đáng chê,

          Không đáng được mọi bề cung kính,

          Tôn trọng, đính lễ hoặc cúng dường.

 

              Những vị sa-môn tầm thường

       Hay các Phạm-chí tầm thường ở đây

          Với các tiếng do tai nhận thức,  

          Hương do mũi nhận thức, cùng là

              Vị do lưỡi nhận thức ra,

       Xúc do thân nhận thức và tiếp ngay

          Các pháp này do ý nhận thức.    

          Không tích cực ly tham, sân, si

              Nội tâm không tịch tịnh gì

       Sở hành thân & khẩu-nghiệp thì chông chênh

          Ý-nghiệp cũng bồng bềnh như vậy.

          Do đó các vị ấy : Sa-môn

              Hay là các Bà-la-môn

       Không đáng cung kính và tôn trọng gì

          Không nể vì, cúng dường, đảnh lễ

          Vì sao thế ? Vì các vị này

              So với chúng tôi ở đây

       Chẳng hơn gì chúng tôi đây tác thành

          Với sở hành thăng bằng tôi có

          Do vậy, các vị đó tầm thường

              Không đáng dảnh lễ, cúng dường

       Không đáng cung kính, tán dương tôn sùng.

          Các Gia Chủ ! Nói chung sự thể

          Khi được hỏi như thế điều này

              Các ông cần trả lời ngay

       Các Du sĩ ngoại đạo đây như vầy.

 

          Nhưng các Gia Chủ này ! Nếu có

          Du sĩ ngoại đạo nọ hỏi là :

 

             ‘Này các Gia Chủ ! Sao là

       Sa-môn, Phạm-chí nào mà tỏ ra

          Đáng tôn trọng, đáng mà cung kính

          Đáng cúng dường và đính lễ đây ?’.

 

              Khi các ông được hỏi vầy

       Cần trả lời họ đủ đầy như sau :

 

         ‘Sa-môn, Phạm-chí nào hiểu thật

          Sắc do mắt nhận thức, ly tham,

              Ly sân, ly si, hiền lành

       Nội tâm tịch tịnh, sở hành cả ba

          Thân & khẩu & ý-nghiệp mà giữ vững 

          Luôn thăng bằng. Với những vị này

              Đáng được tôn trọng, tỏ bày

       Cung kính, đảnh lễ, thường hay cúng dường.

          Sao vậy ? Chúng tôi thường hiểu thật

          Sắc do mắt nhận thức, nhưng vì

              Không ly được tham, sân, si                

       Nội tâm không tịch tịnh chi. Sở hành

          Thân & khẩu & ý-nghiệp lành thiếu vắng

          Khi thăng bằng, khi chẳng thăng bằng.

              Chúng tôi suy nghĩ thấy rằng :

       Các vị ấy đã thăng bằng hơn ta

          Về sở hành. Chính là như vậy.

 

          Do đó các vị ấy : Sa-môn

              Hay Bà-là-môn đáng tôn

       Đáng được dảnh lễ, kính tôn, cúng dường’.

 

          Sa-môn, Phạm-chí thường đối với

          Các tiếng nhận thức bởi do tai,

              Các hương do mũi nhận ngay,

       Các vị do lưỡi. Xúc này do thân,

          Các pháp hằng do ý nhận thức…

          Thì lập tức ly tham, sân, si

              Nội tâm tịch tịnh mọi thì

       Sở hành thân, khẩu, ý gì nghiệp nhân

          Được thăng bằng. Đó là các vị

          Sa-môn hay Phạm-chí thanh lương

              Đáng được tôn trọng, cúng dường

       Cung kính, lễ bái, tán dương mọi thời.

 

          Vì sao vậy ? Chúng tôi đối với 

          Lục trần bởi lục căn nhận ra

              Không ly tham, sân, si – và

       Nội tâm không tịch tịnh, mà phan duyên

          Sở hành riêng thân & khẩu & ý-nghiệp

          Khi thăng bằng rồi tiếp bập bềnh.

              Nhận thấy các vị nêu trên

       Hơn chúng tôi hẳn dựa trên sở hành.

          Do vậy, những tịnh thanh Phạm-chí

          Hay Sa-môn là vị an tường

              Đáng được tôn trọng, cúng dường

       Cung kính, lễ bái, tán dương mọi thời’.

 

          Hãy trả lời như vậy nếu họ

          Du sĩ ngoại đạo đó hỏi ra.

 

              Này các Gia Chủ ! Nếu mà

       Du sĩ ngoại đạo hỏi qua vấn đề :

        “ Do căn cứ gì về các vị

          Sa-môn hay Phạm-chí kể qua

              Do truyền thống gì, nói ra :

      ‘Chắc chắn các Tôn-giả là ly tham,

          Trên đường điều phục tham, hoặc giả

          Ly sân, si – đang, đã trên đường

              Điều phục sân, si kiên cường ? ”.

 

       Khi được hỏi vậy, tận tường đáp ra : 

        “ Các vị sống nơi xa vắng lặng

          Các khu rừng im ắng, tịnh nhàn

              Tại những chỗ ấy trú an

       Không sắc do mắt sẵn sàng nhận ra

          Để có thể thấy qua sắc ấy

          Sau khi thấy, thích thú trong lòng.

              Không có các tiếng, cũng không

       Có hương, vị, xúc do trong lục trần

          Nhận thức phần thấy, nghe, ngửi, nếm,

          Xúc do thân… nhận thức trải qua

              Sau khi đã nhận thức ra

       Có lòng thích thú, nhưng mà nguyên nhân

          Chỗ ấy thì lục trần không có

          Để cho lục căn đó duyên ngay.

 

              Chư Hiền ! Do căn cứ này,          

       Do những truyền thống như vầy, chúng tôi

          Đã có lời nói về các vị

          Sa-môn hay Phạm-chí tịnh hiền :

            ‘Thật vậy, chư Tôn-giả trên

       Ly tham hay đã đi trên con đàng

          Nhiếp phục tham, hay ly sân bực,

          Đang trên đường nhiếp phục sân ni.

              Ly si hay là đang đi

       Trên con đường nhiếp phục si đêm ngày’.

          Khi được hỏi điều này, Gia Chủ !

          Hãy trả lời đầy đủ như vầy ”.

 

              Khi nghe Thế Tôn trình bày

       Các vị Gia Chủ nơi đây, cùng là

          Bàn-môn Na-Ga-Ra-Vinh-Đá

          Thưa với đấng Giác Giả Phật Đà :

 

        – “ Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma !

       Thật là hy hữu ! Thật là diệu vi !

          Nghe Ngài giảng, cực kỳ hoan hỷ

          Cả Đại Chúng tâm trí hân hoan

              Vi diệu thay những lời vàng !

       Như người dựng đứng vật đang ngã nằm

          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối

          Đem đèn sáng vào tối như bưng

              Để ai có mắt mở bừng

       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu

          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp

          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày

              Chúng con quy ngưỡng từ nay

       Quy y Đại Giác, nương ngay Pháp mầu,

          Quy y Tăng thanh cao đức cả

          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn

              Mong Thế Tôn nhận chúng con

       Được làm đệ tử, vun trồng thiện duyên

          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục

          Kể từ nay đến lúc mạng chung

              Tín thành nương đấng Đại Hùng

       Thực hành Giáo Pháp muôn trùng cao thâm ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 150 :  NÓI CHO DÂN NAGARAVINDA    –  NAGARAVINDEYYA  Sutta  )  

 

   ___________________________________

 

           “ Ye dhammà hetuppabhavà

             Tesam hetum Tathàgato

             Àha tesan ca yo nirodho

             Evam vàdì Mahà Samano ”.

 

          “ Vạn pháp tùng duyên sinh

             Diệc tùng nhân duyên diệt

             Ngã Phật Đại Sa Môn  

             Thường tác như thị thuyết ”.

 

   ‘Vạn pháp theo nhân duyên sinh’,

  ‘Theo nhân duyên diệt’ – đinh ninh điều này.    

   Bậc Đại Sa Môn Như Lai

  Thường dạy như vậy ; chính Thầy của tôi. 

 

   *  Chú thích xuất xứ về bài kệ này :

 

       Bài kệ do Tôn-giả Thánh Tăng A-La-Hán ASAJI  (A-Xà-

    Chí ), vị trẻ tuổi nhất trong năm vị nhóm Kiều-Trần-Như ,

    bạn đồng tu và cũng là năm Đệ tử đầu tiên của Đức Phật

    đọc lên cho Ngài Xá-Lợi-Phất khi được hỏi trong lúc Tôn-

    giả đang thường lệ khất thực tại Thành Vương Xá . 

 

           Nguyên thời bấy giờ , Ngài Xá-Lợi-Phất ( Sariputta )

    cùng với người bạn thân Mục-Kiền-Liên ( Moggalanna )

    là hai  thanh niên Bà-La-Môn rất nổi tiếng đương thời vì

    sức học uyên thâm, tinh thông Tam Vệ-Đà .Nhưng cả hai

    vẫn chưa thỏa mãn với những gì Tam Vệ-Đà  chuyển  tải ,

    nên ước hẹn với nhau: Ai tìm được vị Đạo Sư khả kính có

    thể giải hết những nghi ngờ trong các học thuyết cổ kim ,

    thì phải báo với người kia để cùng qui ngưỡng tu tập .

 

         Khi lần đầu tiên thấy vị Sa-Môn nghiêm tịnh, thần thái

    an nhiên tự tại đang thứ đệ khất thực tại Thành Vương-Xá

    Ngài Xá-Lợi-Phất bỗng sinh lòng kính mộ, muốn thưa hỏi

    về đường lối tu hành của Tôn-giả, nhưng tôn trọng vì Tôn

    giả đang khất thực , nên Ngài cung kính đi theo sau . Khi

    thấy vật thực đã đủ , Tôn-giả Asaji tìm một gốc cây, ngồi

    xuống thọ thực. Sau khi dùng xong, Ngài Xá-Lợi-Phất đã

    thi lễ và đặt câu hỏi với Tôn-giả : Ai là Thầy của Ngài,và

    vị ấy đã dạy như thế nào ?

 

         Tôn-giả  Asaji  đã đọc lên bài kệ  cô đọng và hàm súc

    ấy . Vừa nghe xong, Ngài Xá-Lợi-Phất  vô cùng  hoan hỷ

    hoát nhiên đại ngộ . Ngài cáo từ  sau khi  hỏi nơi  trụ xứ

    của Đức Phật , rồi vội vàng đi tìm Ngài Mục Kiền Liên ,

    đọc lại nguyên văn bài kệ ấy . Ngài  Mục-Kiền-Liên  khi

    nghe xong, lập tức đắc Tu-đà-hoàn quả . Cả hai cùng đi

    đến Trúc Lâm Tinh-Xá ( Veluvanavihàra ) đảnh lễ  Phật

    và cầu xin xuất gia trong Giáo Pháp của Đấng Thế Tôn.

    Sau khi cả hai lần lượt đắc Thánh quả  A-La-Hán , Đức

    Phật tuyên bố hai Ngài là Hai Đại Đệ Tử của Phật :

    Ngài Xá-Lợi-Phất là Đệ nhất Trí Tuệ và Ngài Mục-Kiền-

    Liên là Đệ nhất Thần Thông .

151. Kinh KHẤT THỰC THANH TỊNH

( Pindapàtapàrisuddhi sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Trú Vương-Xá – Ra-Chá-Ga-Ha  (1)

              Tinh Xá Vê-Lu-Vá-Na  (1)

      (Trúc Lâm Tinh Xá cũng là nơi đây)

          Gần nơi này, nuôi nhiều sóc lạ

         (Ka-Lanh-Đá-Ka-Ní-Vá-Pa).  (2)

 

              Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Ta   (3)

      (Hay Xá-Lợi-Phất cũng là ngài đây)

          Buổi chiều, ngài sau khi Thiền định

          Đứng dậy tính đi đến Thế Tôn,

              Khi đến, đảnh lễ Thế Tôn

       Một bên ngồi xuống. Thế Tôn hỏi là :

 

    – “ Này Sa-Ri-Pút-Ta ! Ta thấy

          Các căn ông hết thảy đều là

              Rất sáng suốt, còn sắc da

       Của ông thanh tịnh, thật là sáng trong.

          Xá-Lợi-Phất ! Nay ông an trú

    __________________________

 

(1) : Thành Vương-Xá  – Rajagaha. Vị Vua trị vì Bimbisara (Tần-

     Bà-Sa-La hay Bình Sa Vương) đã dâng cúng Đức Phật khu

    vườn trúc ngự uyển để kiến tạo thành Veluvanavihàra  – Trúc

    Lâm Tinh Xá.            (2) : Nơi nuôi sóc Kalandakanivapa.

(3) : Tôn-giả Sariputta  – Xá-Lợi-Phất hay Xá-Lợi-Tử, vị Đại-đệ-

    tử của Phật, thường được tôn xưng là vị “Tướng quân Chánh

 

 

(1) : Khái niệm Không – Suññatà bắt nguồn do từ Không – Suñña

      (Pali).    Còn Tánh Không – Sùnyatà (Sanskrit) được sử dụng

      rộng rãi trong kinh điển Đại thừa Phật-giáo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2021(Xem: 9796)
Thiền sư, thi sỹ, nhạc sỹ, họa sỹ, cuồng sỹ, du sỹ, lang thang sỹ, văn nghệ sỹ tự thuở nào đi về thấp thoáng, nhấp nhô trong sương mờ vạn cổ. Từ buổi mới khai thiên lập địa lúc ban sơ, nguyên thủy đến bây giờ, họ đã ra đi và đi mãi trên con đường mây trắng, con đường sáng tạo vừa lao đao, khổ lụy vừa hùng tráng, thênh thang, vượt qua mộng thực đôi bờ sinh tử, bằng một bước nhảy trọng đại, xuất thần nhập thánh đáo thiên tiên. Huyền cảm tự do, họ thuận nhiên về trên cuộc lữ phong trần giữa một chiều diệu hóa hay một đêm trăng sao ảo huyền cùng tao ngộ bên “thềm cô phong tuyệt đỉnh hội mây ngàn” và hòa âm cung bậc với toàn thể cuộc đời. Đó là thể điệu chịu chơi Cưỡi Sóng Phiêu Bồng mà nhà thơ Thái Huyền đã hý lộng hát ca Khúc Lý Lả:
21/12/2020(Xem: 3531)
Ai cũng tin rằng tương lai sẽ như vầy, như vầy, đúng như hôm qua và hôm nay đã trù liệu, hoạch định và tiến hành; bởi vì cái nhân gieo xuống với sự trợ duyên của các yếu tố phụ thuộc chung quanh, một cách khoa học và kinh nghiệm, cùng với thời gian vừa đủ để một tiến trình được khai mở, phát triển, chắc hẳn có nhiều phần mang lại kết quả tương xứng, hoặc bội phần, hoặc bội bội phần. Tuy vậy, kinh nghiệm, với những kết quả thực tế của một số sự việc, công trình, cũng cho thấy rằng, không phải lúc nào quả phải theo nhân. Bài học vỡ lòng của nhân-quả dạy chúng ta rằng các yếu tố ngoại tại có khi cũng rất quan trọng để dẫn đến kết quả như ý hay bất xứng ý. Tất nhiên khi nông gia cấy lúa xuống ruộng, đã theo kinh nghiệm lâu năm của cha-ông và nghề nghiệp: biết chọn giống tốt, biết lúc nào gieo mạ, cấy mạ, đưa nước vào ruộng, xả nước khỏi ruộng, xịt thuốc trừ sâu, v.v… Nhưng cũng nông vụ nầy, năm ngoái trúng mùa, năm nay bão giông lũ lụt lại thêm các đập thủy điện xả nước, lúa sẽ bị
10/12/2020(Xem: 5980)
Dạo này đang mùa bầu cử Tổng Thống tại xứ Cờ Hoa, có nhiều tuồng diễn rất ư là ngoạn mục, lấy mất của tôi rất nhiều thời gian. Tôi không còn thì giờ để à ơi mưa nắng với một số các bạn xưa. Muốn nói chuyện cũng phải cân nhắc, lựa lời dò la xem đối phương thuộc về bên nào, có cùng chung một chiến tuyến với mình không? Nhỡ cùng một lũ cuồng hết có mà vỡ nợ! Chẳng những thế tôi còn phải xem sắc mặt của từng ông Chủ Bút của từng tờ báo, giấy cũng như điện tử mà lựa bài để gửi. Gửi sai, chẳng những bài bị vất vào sọt rác mà tình văn nghệ cũng sứt mẻ dài lâu. Tại sao lại ra cớ sự như vậy? Trong lịch sử bầu bán chưa bao giờ có hiện tượng kỳ lạ đến như thế. Đây không phải là trận chiến giữa hai đối thủ, giữa hai đảng phái cùng yêu nước, mà là hai phe từ lúc con người mới khai thiên lập địa đến nay, đã có sẵn trong bầu máu nóng những hạt giống của tham lam, sân hận, si tình đủ kiểu. Đã ẩn hiện trong từng một con người với hai mặt tốt và xấu, chánh và tà, như ngày với đêm, như thiên thần
04/12/2020(Xem: 13140)
Lớn lao thay Bài Ca Chứng Đạo! Ngài Huyền Giác đã nói lên được những gì ngài thật tu thật chứng trong bài ca này. Nói là bài ca là vì mỗi lời mỗi chữ đều là Trí Tuệ Bát Nhã xuất phát từ Chân Tâm của ngài, nên thông suốt vô ngại và an vui tự tại. Vui trong cảnh giải thoát, vui trong cảnh Niết Bàn, hân hoan mà thốt lên những lời này, không biết gọi nó là gì, nên tạm gọi nó là Bài Ca Chứng Đạo vậy! Ngài Huyền Giác đã bài trừ tất cả sự chấp có, không, cũng có cũng không, không có không không (tứ cú), để nêu ra cái Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Người giác ngộ được Bản Thể Chân Tâm này là người “tuyệt học, vô vi, an nhàn vô sự”. Xưa nay nó vốn không một vật mà lại thường đầy đủ muôn pháp không thiếu sót. Khi chưa giác ngộ thì thấy biết bằng vọng thức nên mới có muôn ngàn sai biệt. Khi giác ngộ được Bản Tâm thì thấy biết bằng trí tuệ Bát Nhã nên tất cả là Bất Nhị, Như Thị, và Không.
02/12/2020(Xem: 10138)
Làm thinh không phải mình sai Làm thinh là để tương lai cuộc đời Làm thinh không phải dại khờ Làm thinh là để lu mờ thị phi Làm thinh không phải khinh khi Làm thinh là để biết đi biết về Làm thinh không phải u mê Làm thinh là để nghĩ về đường tu Làm thinh không phải gật gù Làm thinh là để Văn Thù hiện ra Làm thinh không phải thứ tha Làm thinh là để biết ta làm gì Làm thinh không phải nhu mì Làm thinh là để mỗi khi thực hành Làm thinh không phải tranh giành Làm thinh là để trung thành hạnh tu
02/12/2020(Xem: 11444)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ QUÊ HƯƠNG MÙA BÃO LŨ (thơ Mặc Phương Tử), trang 11 ¨ QUẢ BÁO VỀ VIỆC GÂY TẠO CHIẾN TRANH (Quảng Tánh), trang 12 ¨ CÁI THIỆN VÀ HẠNH PHÚC (Quảng Tánh), trang 13 ¨ CHỈ LÀ LỜI HỎI THĂM (thơ Thy An), trang 15 ¨ KHỔ THÁNH ĐẾ (Chân Hiền Tâm), trang 16 ¨ SAU LỤT LÀM BÀI THƠ VỀ CỎ (thơ Lê Vĩnh Tài), trang 20 ¨ ĐẠO ĐỨC VƯỢT KHỎI TÔN GIÁO (Tuệ Uyển dịch), trang 21 ¨ MÙA LŨ (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 25 ¨ LÀM THẾ NÀO ĐOẠN TRỪ CÁC LẬU HOẶC? (TN Hằng Như), trang 27 ¨ AI ƠI, MAU DỪNG LẠI (thơ Huệ Trân), trang 32 ¨ CHÙA LINH QUANG VÀ CHÙA TỪ ĐÀM Ở TRUNG VIỆT, VNPG Sử Luận, Chương 33 (Nguyễn Lang), trang 33 ¨ LOAY HOAY GIỮA CON ĐƯỜNG (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 36 ¨ CHẤP THỦ LÀ ĐÁNG SỢ (Lâm Thanh Huyền), trang 37 ¨ TRUYỀN THỐNG GĐPT
01/12/2020(Xem: 9993)
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, lục bát Việt Nam đã tạo nên một bước đi tân kỳ, một bước nhảy ngoạn mục, rung lên những tiếng thơ tự tình giữa trường mộng nhân sinh, nỗi ngậm ngùi nhân thế với niềm xao xuyến, bồi hồi. Rồi tiếp nối trên những bước đi song hành cùng lục bát, rạt rào bao sóng vỗ ngân nga, hòa âm thâm thiết với những tâm hồn quá đỗi tiêu sái như Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Dzếnh, Phạm Thiên Thư, Huy Cận, Trần Xuân Kiêm, Huy Tưởng, Vũ Hoàng Chương… Đặc biệt Huy Tưởng, riêng một cõi trời thơ Mười Phương Tố Vọng phiêu diêu giữa Phương Chiều: Trũng hai mắt vọng bia đời Cổng tồn sinh mở mù khơi nắng tà Lòng tay nát mộng châu sa Phương chiều bãi quạnh mưa qua bến mình Nghiêng tầm con mắt soi kinh Vẳng nghe tâm lặng hồn chênh chếch về Phôi thu rụng lá mây đè Phiền ban sơ dậy đất se sắt lòng Im nghe thác máu loạn dòng Trôi phiêu lạc giữa vô cùng mộ Không
23/11/2020(Xem: 6905)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
11/11/2020(Xem: 6733)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
11/11/2020(Xem: 9901)
Trong quyển Yếu giải kinh A Di Đà lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam cũng như trên thế giới được in cả nguyên tác bằng chử Hán của Đại sư Linh Phong Ngẩu Ích cùng bản dịch Anh ngữ của Tiến sỉ J.C. Cleary và phần dịch sang Việt ngữ có chú giải của chính mình, học giả Lý Việt Dũng đã… “tự bạch” về “tiểu sử dài lòng thòng đáng chán của Song Hào Lý Việt Dũng”. Trong đó ông thẳng thắng nhận rằng: “Về quan điểm cuộc sống, tôi là người lạc quan tếu… Tôi cũng chay mặn tùy duyên, không bó thân trong những giới luật xa rời cuộc sống, chẳng có bổn sư vì chẳng quy y ai, chẳng có giới xơ cứng để giữ, sống đa cảm tự tại, có hơi “quậy” một chút!”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]