Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

127. Kinh A-Na-Luật

19/05/202011:32(Xem: 8983)
127. Kinh A-Na-Luật

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]

127. Kinh  A-NA-LUẬT

( Anuruddha sutta )

     

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          An trú tại Xá-Vệ thành này

              Sa-Vát-Thí  cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá  hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná   (1)

          Cấp-Cô-Độc Trưởng giả tín gia

             (A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka)   (1)

       Tín thành dâng đến Phật Đà trước đây.

 

          Một buổi mai, Panh-Cha-Kan-Gá  (2)

          Một thợ mộc, bảo gã người nhà :

 

        – “ Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha 

       Đang ở Tinh Xá Chê-Ta-Va-Nà

          Hãy đến, nhân danh ta cung kính

          Cúi đầu đính lễ dưới chân ngài,

              Thưa rằng : ‘Thỉnh ngài ngày mai

       Cùng ba vị nữa thân lai đến nhà

          Của thợ mộc Panh-Cha-Kan-Gá

          Để thọ thực. Tôn-giả vui lòng

              Đến sớm vào lúc hừng đông

       Bởi vì Gia-chủ chính trong lúc này

          Nhiều việc phải làm ngay chẳng đợi,

          Nhiều bổn phận đối với Quốc-vương ”.

   ____________________________

 

(1) : Kỳ Viên Tinh Xá – Jetavana-vihàra  do Trưởng-giả Cấp Cô

     Độc – Anathapindika  dâng cúng đến Đức Phật.

(2) : Thợ mộc tên Pañcakanga.    

 

 

              Người nhà nghe nói tinh tường

       Vâng lời, đi đến Tăng đường Kỳ Viên

          Rồi đến liền tịnh thất an trú 

          Của Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha   (1)

             (Tức là A-Nậu-Lâu-Đà

       Hay A-Na-Luật cũng là ngài đây).

          Đảnh lễ ngài rồi thưa tất cả

          Lời của chủ – Panh-Chá-Kan-Ga.

 

              Tôn-giả A-Nậu-Lâu-Đà

       Im lặng, là cách tỏ ra nhận lời.

 

          Đến hôm sau, lúc trời hừng sáng,

          Đêm đã mãn, Tôn-giả đắp y 

              Mang bát, cùng với ba vì

       Tỷ Kheo, rảo bước uy nghi đến nhà

          Của thợ mộc Panh-Cha-Kan-Gá

          Sau khi đến, an tọa nghiêm trang

              Chỗ đã được soạn sẵn sàng.

       Rồi vị thợ mộc cúng dàng thức ăn,

          Món quý trân loại mềm và cứng,

          Gia chủ đứng phục vụ hết lòng.

              Sau khi các vị ăn xong,

       Tay rời bình bát, rồi đồng đọc kinh

          Phúc chúc cho gia đình tín chủ.

    ____________________________

 

( ) :  Anuruddha  (còn có tên A-Nậu-Lâu-Đà, A-Nậu-Đà-La  hay

       A-Na-Luật ), một trong 7 vị vương-tử giòng Thích Ca xuất gia

       theo Phật khi Ngài đã thành đạo và trở về Kapilavatthu .

      Tôn-giả có tật hay ngủ gật khi nghe Phật thuyết pháp, bị Phật 

     quở trách, nên ngài phát nguyện không ngủ cho tới khi nào đắc

     quả.  Do sự cố gắng quá sức, nên hai  mắt ngài bị mù .  Sau đó

     ngài đắc quả A-La-Hán và được liệt vào Thập Đại Đệ Tử của

     Phật, bậc Thiên Nhãn Đệ Nhất.  

 

          Rồi Gia chủ thợ mộc nói trên

              Lấy ghế thấp ngồi một bên

       Hướng về Tôn-giả, thưa lên như vầy :

 

    – “ Bạch Tôn-giả ! Ở đây một dạo

          Các Tỷ Kheo Trưởng Lão nói rằng :   

             ‘Này Gia chủ ! Hãy tinh cần

       Vô-lượng-tâm giải-thoát năng tu trì’.

          Cũng có một số vì Trưởng Lão

          Thì lại bảo : ‘Hãy tu hằng ngày

              Đại-hành-tâm giải-thoát này’.

       Kính bạch Tôn-giả ! Như vầy phải chăng

          Hai pháp vừa khác văn, khác nghĩa

          Hay đồng nghĩa, khác biệt về văn ? ”. 

 

        – “ Này Gia chủ ! Chính từ tự thân

       Thế nào ông nghĩ về căn bản này ?

          Hãy nói ngay điều ông nghĩ ấy,

          Vấn đề đấy xác thật cho ông ”.

 

       – “ Thưa Tôn-giả ! Tự trong lòng

       Con nghĩ : ‘Hai pháp này đồng nghĩa nhau

          Nhưng khác văn. Thế nào tôn ý ? ”.

 

    – “ Này Gia chủ ! Phải nghĩ như vầy :

             ‘Vô-lượng-tâm giải-thoát đây

       Và đại-hành-tâm giải-thoát này, cả hai

          Những pháp này chúng vừa khác nghĩa

          Vừa khác văn, chặt chịa điều này’.

              Gia chủ cần hiểu như vầy,

       Hiểu đúng với pháp môn đây trình bày.

          Cư Sĩ này ! Thế nào hiểu đạt

          Vô-lượng-tâm giải-thoát thanh cao ?

              Tự thân vị Tỷ Kheo nào

       An trú biến mãn nhằm vào một phương,

          Tâm an tường với Từ câu hữu.

          Cũng như vậy, câu hữu phương hai

              Phương thứ ba, thứ tư này

       Cùng khắp thế giới, trong, ngoài, dưới, trên,

          Cả bề ngang, mọi bên phương xứ

          Khắp vô biên… an trú với Từ

              Quảng đại, vô biên, an như,

       Không sân, không hận, quảng từ, vô biên.

          Này Cư Sĩ ! Gọi liền chẳng khác

          Vô-lượng-tâm giải-thoát là đây.

 

              Còn thế nào để hiểu ngay

       Đại-hành-tâm giải-thoát này hành theo ?

          Ở đây, vị Tỷ Kheo cho tới

          Một gốc cây trú với lạc yên

              Biến mãn, thấm nhuần vô biên

       Cho đến vậy, khi tu Thiền trải qua

          Được gọi là đại-hành-tâm ấy

          Giải thoát vậy. Lại nữa xảy ra

              Tỷ Kheo cho đến hai, ba

       Gốc cây – trú, biến mãn qua, thấm nhuần

          Cho đến luôn khi Thiền định vậy.

 

          Hoặc vị ấy cho đến một làng,  

              Cho đến hai, ba ruộng, làng,

       Một đại vương-quốc – trú an, biến đầy,

          Thấm nhuần lớn, đến ngay như vậy

          Khi vị ấy tu Thiền trải qua,

              Tỷ Kheo cho đến hai, ba

       Đại vương-quốc như vậy mà trú an,

          Biến mãn toàn, thấm nhuần lớn đại, 

          Cho đến vậy, trong khi tu Thiền,

              Vì thế, nó được gọi liền :

      ‘Đại-hành-tâm giải-thoát’ riêng như vầy.

 

          Gia chủ này ! Phải nên hiểu rõ

          Hai pháp đó – khác nghĩa, khác văn.

              Gia chủ ! Có bốn hữu-sanh

      (Bốn sự sanh khởi) là danh mọi thời

          Cho một đời sống mới – nghĩa đó.

 

          Sao mà có bốn hữu-sanh vầy ? 

              Này Cư Sĩ ! Như ở sđây

       Một người với hào quang nay có chừng

         (Có hạn lượng) và từng an trú

          Biến mãn đủ, thấm nhuận muôn trùng,

              Sau khi thân hoại mạng chung 

       Được sanh và cộng trú cùng Chư Thiên

          Thiểu Quang Thiên. Rồi có vị khác

          Hào quang đạt vô lượng, trú an 

              Biến mãn, thấm nhuần vô vàn

       Sau khi thân hoại mạng chung, sinh liền

          Cõi Vô Lượng Quang Thiên, cộng trú.

 

          Này Gia chủ ! Lại nữa, có người 

              Hào quang tạp nhiễm chẳng rời

       An trú, biến mãn mọi nơi, thấm nhuần,

          Sau thân hoại mạng chung, sinh tới

          Cộng trú với Tạp Nhiễm Quang Thiên.

 

              Rồi lại có người thiện hiền

       Hào quang thanh tịnh và liền trú an

          Biến mãn toàn, thấm nhuần như vậy,

          Khi vị ấy thân hoại mạng chung

              Được sinh cộng trú ung dung

       Chư Thiên Biến Tịnh Quang, cùng nơi đây.

          Bốn loại hữu-sanh này là vậy.

 

          Một thời ấy, Chư Thiên các vì

              Tập họp tại một chỗ, thì 

       Thấy sự sai khác nhiều khi sắc màu,

          Không sai khác thuộc vào ánh sáng

          Của hào quang. Như dạng có người

              Cần nhiều đèn dầu đồng thời   

       Ung dung đi thẳng vào nơi một nhà

          Khi vào nhà, các cây đèn ấy

          Ngọn lừa cháy được thấy khác nhau

              Nhưng không có sai khác nào

       Về ánh sang các đèn dầu nói trên.

 

          Cũng vậy, nên hỡi này Cư Sĩ !    

          Có một thời các vị Chư Thiên

              Tập họp tại một chỗ, liền

       Thấy sự sai khác về duyên sắc màu

          Cũng thấy mau có sự sai khác

          Về hào quang của các vị Thiên.

              Các vị ấy không phan duyên

       Không nghĩ điều đó thường xuyên, thường còn,

          Thường hằng và sắt son thường trú,

          Nhưng Chư Thiên an trú chỗ nào

              Thời tại chỗ ấy trước sau

       Chư Thiên cùng sống với nhau thuận hòa,

          Sống thoải mái, như là ví dụ

          Các con ruồi trú ngụ la đà

              Trên đòn gánh, trong giỏ hoa

       Chúng không có nghĩ như là chính đây

          Thường còn hay thường hằng, thường trú              

          Cho chúng tôi cư ngụ lâu nào !

              Nhưng ruồi an trú nơi đâu

       Chỗ ấy chúng thoải mái vào sống an ”.

 

          Nghe nói vậy thì hàng Tôn-giả

          A-Phi-Dá Kách-Chá-Na (1) đây  

              Cùng đi thọ trai với ngài

       A-Nú-Rút-Thá. Vị này thưa ngay :

 

     – “ Tốt lành thay ! Thật là xác thực

          A-Na-Luật Tôn-giả trình bày 

              Ở đây, tôi có câu này

       Cần phải hỏi rõ, xin ngài giảng thêm.

          Thưa Tôn-giả ! Chư Thiên đây đó

          Các vị có phát ra hào quang,

              Đều có hạn lượng hào quang

       Hay một số có hào quang vô lường ? ”.

 

    – “ Này Hiền-giả ! Tùy trường hợp cả !  

          Ở đây đã có nhiều Chư Thiên

              Hào quang vô lượng vô biên,

       Nhưng một số vị do duyên không toàn

          Có hào quang hạn lượng được tả ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả A-Nậu-Lâu-Đà ! 

              Do nhân & duyên gì xảy ra   

       Nên dù các vị sinh qua cõi Trời

          Một số thời hào quang hạn lượng,

          Một số có vô lượng hào quang ? ”.

 

        – “ Này Hiền-giả ! Hãy sẵn sàng !

       Tôi hỏi Hiền-giả – nếu kham nhẫn, thời 

          Hiền-giả sẽ trả lời theo ý,

    ______________________

 

 ( ) : Vị Tôn-giả Abhiya Kaccana.

 

          Hiền-giả nghĩ thế nào điều này ?

              Tỷ Kheo cho đến một cây

       Thấm nhuần, biến mãn đủ đầy, trú an

          Trong khi đang tu Thiền tâm trụ.

          Hay Phích-Khú cho đến hai, ba

              Gốc cây – biến mãn đủ đầy

       Thấm nhuần, an trú như vầy, trong khi

          Đang tu Thiền, vậy thì căn cứ

          Trong hai sự tu tập tâm này

              Tu tập nào rộng lớn đây ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Tỷ Kheo đây như vầy

          Cho đến hai gốc cây & ba, bốn

          An trú, biến mãn lớn, thấm nhuần

              Trong khi tu thiền tập huân

       Sự tu tập đó đơn thuần hơn xa ”.

 

    – “ Hiền-giả Kách-Cha-Na ! Như vậy

          Tỷ Kheo ấy cho đến ruộng làng

              Một, hai hay ba ruộng làng

       Thấm nhuần, biến mãn, trú an như vầy,

          Cho đến ngay một đại vương-quốc

          Hai, ba đại vương-quốc – trú an

              Biến mãn, thấm nhuần vô vàn

       Cho đến như vậy khi đang tu thiền,

     … Cho đến tận hải biên xa thẳm

          Biến mãn và nhuần thấm, trú yên

              Xảy đến khi đang tu thiền,

       Như vậy tu tập tâm liền trước sau

          Sự tu tập tâm nào hơn cả ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả A-Nậu-Đà-La !

              Tỷ Kheo cho đến rất xa

       Giải đất tận hải biên mà trú an

          Biến mãn toàn, thấm nhuần rộng rãi

          Cho đến vậy khi đang tu thiền

              Trong hai sự tu tập trên

       Cho đến đất tận hải biên như vầy

          Sự tu tập tâm này hơn cả ”. 

 

    – “ Hiền-giả Kách-Cha-Ná ! Đó là

              Do nhân & duyên này xảy ra

       Chư Thiên ấy tuy sinh ra Thiên đường

          Một số thường hào quang hạn lượng,

          Một số có vô lượng hào quang ”.

 

        – “ Thưa Tôn-giả ! Tôi hiện đang

       Có một câu nữa cầm mang hỏi ngài :

         ‘Về hào quang hiển bày Thiên-chúng

          Có phải đúng tất cả hào quang

              Là tạp nhiễm hay hào quang

       Thanh tịnh của một số hàng Chư Thiên ? ”.

 

    – “ Này Hiền-giả ! Tuy nhiên ở đó

          Nhiều vị Thiên cũng có hào quang

              Tạp nhiễm. Nhưng cũng có hàng

       Chư Thiên có hào quang toàn tịnh thanh ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Phát sanh như vậy

          Do nhân & duyên gì thấy rõ ràng

              Chư Thiên hoặc có hào quang

       Tạp nhiễm, hoặc có hào quang tịnh lành ? ”.

 

     – “ Này Hiền-giả ! Có nhanh ví dụ

          Nhờ ví dụ, người trí hiểu ngay

              Ý nghĩa của lời nói này :

       Như cây đèn cháy với đầy dầu dơ

          Tim đèn cũng đen dơ như vậy,

          Cây đèn ấy cháy rất mù mờ

              Vì dầu, tim đèn đều dơ.

 

       Cũng vậy, Phích-Khú xưa giờ trú an

          Biến mãn, thấm nhuần toàn thất niệm

          Với hào quang tạp nhiễm đêm ngày

              Thân dâm hạnh của vị này

       Không khéo chấm dứt, luôn hay hôn trầm,

          Thụy miên không quyết tâm chấm dứt

          Trạo cử, hối quá thực dẫy đầy

              Không được khéo nhiếp phục ngay.

       Vì những cớ ấy, vị này xem như

          Đèn cháy lên lừ đừ, yếu mãi.

          Khi thân hoại, sinh tới cõi Thiên

              Cộng trú cùng với Chư Thiên

       Có hào quang tạp nhiễm, duyên là vầy.

 

          Hiền-giả này ! Khi ngọn đèn ấy

          Được đốt cháy với cái tim đèn

              Và dầu sạch sẽ không đen

       Ngọn lửa tỏa sáng từ đèn dầu đây.   

          Hiền-giả này ! Tỷ Kheo an trú

          Biến mãn, thấm nhuần đủ như vầy

              Với hào quang thanh tịnh đây,

       Khi thân dâm hạnh vị này dứt ngay,

          Hôn trầm, thụy miên này dứt cả

          Và trạo cử, hối quá ở đây

              Được khéo nhiếp phục đêm ngày,

       Chính do vì vậy, vị này được xem

          Đã cháy lên ngọn lửa tỏ sáng,

          Khi thân hoại, đã mãn trần duyên    

              Được sinh cộng tru Chư Thiên

       Hào quang thanh tịnh lan truyền tỏa xa,.

 

          Kách-Cha-Na ! Trả lời Hiền-giả

          Do nhân này và cả duyên này

              Giữa Chư Thiên kể ở đây

       Cùng một Thiên-chúng, nhưng hay bất toàn

          Một số có hàn quang tạp nhiễm,

          Nhiều vị Thiên ưu điểm có ngay

              Hào quang thanh tịnh như vầy ”.

 

       Khi nghe nói vậy, thì ngài cùng đi

          Là A-Phi-Dá Kách-Cha-Ná

          Hướng Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha

              Thưa rằng : “ Lời giảng sâu xa

       Lành thay ! A-Nậu-Lâu-Đà Đại-sư !

          Chính Đại Sư đã không khẳng định

         ‘Như vậy chính tôi nghe’ lời này

              Hay ‘Sự việc đúng như vầy’.

       Trái lại Tôn-giả ở đây nói là :

         ‘Chư Thiên này đã là như vậy’,

         ‘Chư Thiên kia như vậy’ nói ra.

 

              Thưa Tôn-giả ! Tôi nghĩ là

       Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha – vị này

          Chắc chắn đã sống rày trước đó

          Đã đàm thoại trước đó nhiều thời

              Với Chư Thiên các cõi Trời ”.

 

 – “ Kách-Cha-Na Hiền-giả ! Lời của Sư

          Đến gần như là điều thách đố

          Để ta phải tuyên bố ra lời.

              Nhưng nay ta sẽ trả lời :

       Từ trước ta đã có thời sống qua,

          Đã đàm luận thật là tâm đắc

          Với Chư Thiên ở khắp gần xa ”. 

 

              Sau khi đã được nghe qua

       Lời vị Tôn-giả tại nhà Tín-gia

          Là thợ mộc Panh-Cha-Kan-Gá

          Thì Tôn-giả Kách-Chá-Na đây

              Nói với người thợ mộc này :

 

 – “ Thật là lợi ích tròn đầy cho ông !

          Khiến cho ông đoạn trừ nghi hoặc

          Những thắc mắc từ trước đến nay

              Được dịp nghe pháp môn này

       Từ A-Na-Luật là ngài Thánh Tăng ./- 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *   *

 

( Chấm dứt Kinh số 127 : A-NA-LUẬT

–  ANURUDDHA  Sutta )



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/12/2020(Xem: 3478)
Ai cũng tin rằng tương lai sẽ như vầy, như vầy, đúng như hôm qua và hôm nay đã trù liệu, hoạch định và tiến hành; bởi vì cái nhân gieo xuống với sự trợ duyên của các yếu tố phụ thuộc chung quanh, một cách khoa học và kinh nghiệm, cùng với thời gian vừa đủ để một tiến trình được khai mở, phát triển, chắc hẳn có nhiều phần mang lại kết quả tương xứng, hoặc bội phần, hoặc bội bội phần. Tuy vậy, kinh nghiệm, với những kết quả thực tế của một số sự việc, công trình, cũng cho thấy rằng, không phải lúc nào quả phải theo nhân. Bài học vỡ lòng của nhân-quả dạy chúng ta rằng các yếu tố ngoại tại có khi cũng rất quan trọng để dẫn đến kết quả như ý hay bất xứng ý. Tất nhiên khi nông gia cấy lúa xuống ruộng, đã theo kinh nghiệm lâu năm của cha-ông và nghề nghiệp: biết chọn giống tốt, biết lúc nào gieo mạ, cấy mạ, đưa nước vào ruộng, xả nước khỏi ruộng, xịt thuốc trừ sâu, v.v… Nhưng cũng nông vụ nầy, năm ngoái trúng mùa, năm nay bão giông lũ lụt lại thêm các đập thủy điện xả nước, lúa sẽ bị
10/12/2020(Xem: 5873)
Dạo này đang mùa bầu cử Tổng Thống tại xứ Cờ Hoa, có nhiều tuồng diễn rất ư là ngoạn mục, lấy mất của tôi rất nhiều thời gian. Tôi không còn thì giờ để à ơi mưa nắng với một số các bạn xưa. Muốn nói chuyện cũng phải cân nhắc, lựa lời dò la xem đối phương thuộc về bên nào, có cùng chung một chiến tuyến với mình không? Nhỡ cùng một lũ cuồng hết có mà vỡ nợ! Chẳng những thế tôi còn phải xem sắc mặt của từng ông Chủ Bút của từng tờ báo, giấy cũng như điện tử mà lựa bài để gửi. Gửi sai, chẳng những bài bị vất vào sọt rác mà tình văn nghệ cũng sứt mẻ dài lâu. Tại sao lại ra cớ sự như vậy? Trong lịch sử bầu bán chưa bao giờ có hiện tượng kỳ lạ đến như thế. Đây không phải là trận chiến giữa hai đối thủ, giữa hai đảng phái cùng yêu nước, mà là hai phe từ lúc con người mới khai thiên lập địa đến nay, đã có sẵn trong bầu máu nóng những hạt giống của tham lam, sân hận, si tình đủ kiểu. Đã ẩn hiện trong từng một con người với hai mặt tốt và xấu, chánh và tà, như ngày với đêm, như thiên thần
04/12/2020(Xem: 12753)
Lớn lao thay Bài Ca Chứng Đạo! Ngài Huyền Giác đã nói lên được những gì ngài thật tu thật chứng trong bài ca này. Nói là bài ca là vì mỗi lời mỗi chữ đều là Trí Tuệ Bát Nhã xuất phát từ Chân Tâm của ngài, nên thông suốt vô ngại và an vui tự tại. Vui trong cảnh giải thoát, vui trong cảnh Niết Bàn, hân hoan mà thốt lên những lời này, không biết gọi nó là gì, nên tạm gọi nó là Bài Ca Chứng Đạo vậy! Ngài Huyền Giác đã bài trừ tất cả sự chấp có, không, cũng có cũng không, không có không không (tứ cú), để nêu ra cái Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Người giác ngộ được Bản Thể Chân Tâm này là người “tuyệt học, vô vi, an nhàn vô sự”. Xưa nay nó vốn không một vật mà lại thường đầy đủ muôn pháp không thiếu sót. Khi chưa giác ngộ thì thấy biết bằng vọng thức nên mới có muôn ngàn sai biệt. Khi giác ngộ được Bản Tâm thì thấy biết bằng trí tuệ Bát Nhã nên tất cả là Bất Nhị, Như Thị, và Không.
02/12/2020(Xem: 9776)
Làm thinh không phải mình sai Làm thinh là để tương lai cuộc đời Làm thinh không phải dại khờ Làm thinh là để lu mờ thị phi Làm thinh không phải khinh khi Làm thinh là để biết đi biết về Làm thinh không phải u mê Làm thinh là để nghĩ về đường tu Làm thinh không phải gật gù Làm thinh là để Văn Thù hiện ra Làm thinh không phải thứ tha Làm thinh là để biết ta làm gì Làm thinh không phải nhu mì Làm thinh là để mỗi khi thực hành Làm thinh không phải tranh giành Làm thinh là để trung thành hạnh tu
02/12/2020(Xem: 11011)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ QUÊ HƯƠNG MÙA BÃO LŨ (thơ Mặc Phương Tử), trang 11 ¨ QUẢ BÁO VỀ VIỆC GÂY TẠO CHIẾN TRANH (Quảng Tánh), trang 12 ¨ CÁI THIỆN VÀ HẠNH PHÚC (Quảng Tánh), trang 13 ¨ CHỈ LÀ LỜI HỎI THĂM (thơ Thy An), trang 15 ¨ KHỔ THÁNH ĐẾ (Chân Hiền Tâm), trang 16 ¨ SAU LỤT LÀM BÀI THƠ VỀ CỎ (thơ Lê Vĩnh Tài), trang 20 ¨ ĐẠO ĐỨC VƯỢT KHỎI TÔN GIÁO (Tuệ Uyển dịch), trang 21 ¨ MÙA LŨ (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 25 ¨ LÀM THẾ NÀO ĐOẠN TRỪ CÁC LẬU HOẶC? (TN Hằng Như), trang 27 ¨ AI ƠI, MAU DỪNG LẠI (thơ Huệ Trân), trang 32 ¨ CHÙA LINH QUANG VÀ CHÙA TỪ ĐÀM Ở TRUNG VIỆT, VNPG Sử Luận, Chương 33 (Nguyễn Lang), trang 33 ¨ LOAY HOAY GIỮA CON ĐƯỜNG (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 36 ¨ CHẤP THỦ LÀ ĐÁNG SỢ (Lâm Thanh Huyền), trang 37 ¨ TRUYỀN THỐNG GĐPT
01/12/2020(Xem: 9613)
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, lục bát Việt Nam đã tạo nên một bước đi tân kỳ, một bước nhảy ngoạn mục, rung lên những tiếng thơ tự tình giữa trường mộng nhân sinh, nỗi ngậm ngùi nhân thế với niềm xao xuyến, bồi hồi. Rồi tiếp nối trên những bước đi song hành cùng lục bát, rạt rào bao sóng vỗ ngân nga, hòa âm thâm thiết với những tâm hồn quá đỗi tiêu sái như Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Dzếnh, Phạm Thiên Thư, Huy Cận, Trần Xuân Kiêm, Huy Tưởng, Vũ Hoàng Chương… Đặc biệt Huy Tưởng, riêng một cõi trời thơ Mười Phương Tố Vọng phiêu diêu giữa Phương Chiều: Trũng hai mắt vọng bia đời Cổng tồn sinh mở mù khơi nắng tà Lòng tay nát mộng châu sa Phương chiều bãi quạnh mưa qua bến mình Nghiêng tầm con mắt soi kinh Vẳng nghe tâm lặng hồn chênh chếch về Phôi thu rụng lá mây đè Phiền ban sơ dậy đất se sắt lòng Im nghe thác máu loạn dòng Trôi phiêu lạc giữa vô cùng mộ Không
23/11/2020(Xem: 6729)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
11/11/2020(Xem: 6544)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
11/11/2020(Xem: 9503)
Trong quyển Yếu giải kinh A Di Đà lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam cũng như trên thế giới được in cả nguyên tác bằng chử Hán của Đại sư Linh Phong Ngẩu Ích cùng bản dịch Anh ngữ của Tiến sỉ J.C. Cleary và phần dịch sang Việt ngữ có chú giải của chính mình, học giả Lý Việt Dũng đã… “tự bạch” về “tiểu sử dài lòng thòng đáng chán của Song Hào Lý Việt Dũng”. Trong đó ông thẳng thắng nhận rằng: “Về quan điểm cuộc sống, tôi là người lạc quan tếu… Tôi cũng chay mặn tùy duyên, không bó thân trong những giới luật xa rời cuộc sống, chẳng có bổn sư vì chẳng quy y ai, chẳng có giới xơ cứng để giữ, sống đa cảm tự tại, có hơi “quậy” một chút!”.
25/10/2020(Xem: 2633)
Nước. Nước từ đâu cứ dâng lên; lên rồi rút, rút rồi lại lên, ngập tràn đồng ruộng, ao hồ, vườn tược, làng quê, và phố thị của nhiều tỉnh thành miền Trung. Cuồng phong bão tố từ đại dương cuộn xoáy vào đất liền, kéo theo những cơn mưa xối xả ngày đêm. Nước lũ ngầu đục từ non cao đổ về, từ các đập thủy điện xả xuống, đẩy những dòng cuồng lưu ồ ạt đi về nơi trũng thấp, theo những nhánh sông hướng ra biển, chựng lại khi gặp mực biển dâng cao với cường triều gầm thét, sông nối biển biến vùng duyên hải thành một biển nước mênh mông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]