Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

145. Kinh Giáo Giới Phú-Lâu-Na

19/05/202011:37(Xem: 10260)
145. Kinh Giáo Giới Phú-Lâu-Na

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


145. Kinh  GIÁO GIỚI PHÚ-LÂU-NA

( Puññovàda sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ  – trú qua

              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na (1)

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka (1) cúng dường.

 

          Vào buổi chiều, tà dương còn phủ

          Tôn-giả Pun-Nhá (Phú-Lâu-Na)  (2)

              Sau khi Thiền định trải qua

       Đứng dậy đi đến Phật Đà Thế Tôn 

          Đảnh lễ Ngài, một bên ngồi kế

          Rồi bạch đức Thiện Thệ như vầy :

 

        – “ Bạch Thế Tôn ! Tốt lành thay !

       Nếu Ngài giáo giới ở đây vẹn tròn

          Giáo giới con vắn tắt, khả dĩ

          Để cho con gẫm kỹ hành trình

              Không phóng dật, sống một mình

       Nhiệt tâm, tinh tấn, tâm minh tịnh nhàn ”.

 

    – “ Vậy Pun-Nha sẵn sàng nghe kỹ

          Suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng ra ”.

       – “ Thưa vâng, bạch đức Phật Đà ! ”.

     __________________________

 

(1) : Tinh xá Kỳ Viên – Jetavanavihàra do Trưởng-giả Cấp-Cô-

       Độc (Anathapindika ) cúng dường.

(2) : Tôn-giả Puñña – Phú-Lâu-Na, còn có tên Mantaniputta

     (Mãn-từ-tử) là vị Thuyết Giáo Đệ Nhất trong Thập Đại Đệ

     Tử của Đức Phật.    

 

       Tôn-giả vâng đáp Phật Đà trí bi.             

          Đấng Toàn Tri giảng cho Tôn-giả :

 

    – “ Này Pun-Nhá ! Có những Sắc mà

              Do mắt nên nhận thức ra

       Khả hỷ, khả lạc, thật là đáng yêu,

          Liên hệ nhiều đến dục, hấp dẫn, 

          Nếu Tỷ Kheo chấp nhận, tán dương

              Chấp thủ và an trú thường

       Trong ấy, thời bởi tán dương, vui mừng

          Chấp thủ cùng trú  – thời dục hỷ 

          Sanh đích thị. Và này Pun-Nha !

              Từ sự tập khởi xảy ra

       Của dục hỷ ấy, tức là ở đây

          Có sự tập khởi ngay của khổ.

 

          Này Pun-Nha ! Hiểu rõ tiếp vầy : 

              Các tiếng nhận thức do tai,

       Các hương do tự mũi này nhận ra,

          Các vị do lưỡi mà nhận thức,

          Các cảm xúc do thân nhận ra,

              Các pháp do ý nhận ra…   

       Khả hỷ, khả lạc, thật là đáng yêu,

          Liên hệ nhiều đến dục, hấp dẫn,

          Nều Tỷ Kheo chấp nhận, tán dương,

              Chấp thủ và an trú thường

       Trong ấy, thời bởi tán dương, vui mừng

          Chấp thủ cùng trú – thời dục hỷ

          Sanh đích thị. Và này Pun-Nha !

              Từ sự tập khởi xảy ra

       Của dục hỷ ấy, tức là ở đây

          Có sự tập khởi ngay khổ ấy.                      

          Này Pun-Nha ! Trái lại, các phần

              Sáu trần do bởi sáu căn

       Nhận thức, khả hỷ, vô ngần đáng yêu

          Liên hệ nhiều đến dục, hấp dẫn…

          Tỷ Kheo vẫn không hoan hỷ gì

              Dù khả ái, không khen chi

       Cũng không chấp thủ, không vì trú an,

          Thời dục hỷ diệt tan đi cả.

 

          Này Pun-Nhá ! Lời Ta nói ra 

              Sự diệt tận dục hỷ là

       Diệt tận đau khổ trải qua hằng hà.

 

          Này Pun-Nha ! Sau này hóa độ

          Ông sống ở quốc độ nào đây ?

              Sau khi lời giáo giới này

       Như Lai vắn tắt như vầy giảng ra ? ”.

 

    – “ Bạch Phật Đà ! Con nay duyên phước

          Nên đã được chính đức Phật Đà

              Giáo giới vắn tắt dạy qua.

       Có quốc độ Su-Na-Pa-Ranh-Tà  (1)

         (Tức Tây Phương Du-Na quốc độ)

          Con sẽ sống ở đó độ tha ”.

 

        – “ Pun-Nha ! Người của quốc gia  

       Tên Su-Na-Pá-Ranh-Ta vốn là

          Tánh hung bạo, tỏ ra ác nghiệt,

          Nếu như họ mắng nhiếc ông hoài

              Nhục mạ, chưởi rủa đêm ngày

       Thời ông phản ứng việc đây thế nào ? ”.

    ________________________

 

(1) : Xứ Sunaparanta – trong kinh điển Hán dịch thường được

       gọi là Xứ Du-Na. 

 

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Gặp vào chuyện đó

          Nếu Du-Na dân có mắng con,  

              Nhục mạ hay chưởi rủa con,

       Con nghĩ là họ vẫn còn thiện tâm

          Vẫn còn tốt, không tầm đánh đập

          Khiến thân con bầm dập – bằng tay

              Bạch Phật ! Con nghĩ như vầy ”.

 

 – “ Nhưng nếu họ lấy chân tay đánh nhầu  

          Ông nghĩ sao trường hợp như vậy ? ”.

 

    – “ Bạch Phật ! Nếu họ lấy tay chân

              Đánh con đau đớn bội phần

       Con nghĩ : Họ vẫn còn chân thiện nhiều

          Thật là điều chí thiện hiếm có

          Vì rằng họ đánh bằng chân tay,

              Không lấy đất đá ném ngay.

       Bạch Phật ! Con nghĩ ở đây như vầy ”.

 

    – “ Pun-Nha này ! Nếu họ lấy đá 

          Ném vào để hành hạ ông đau

              Thời ông sẽ nghĩ thế nào ? ”.

 

 – “ Bạch Phật ! Nếu việc ấy dầu xảy ra

          Dân chúng Su-Na-Pa-Ranh-Tá

          Lấy đất đá ném mạnh vào con,

              Con nghĩ : Dân đây vẫn còn

       Thật là hiền thiện, có lòng biết bao !

          Vì họ không lấy dao mà chặt,

          Bạch Đức Phật ! Con nghĩ như vầy ”.

 

        – “ Pun-Nha ! Nếu dân nơi này 

       Dùng dao mà chém ông ngay tức thì

          Ông nghĩ gì về trường hợp đó ? ”.

 

    – “ Con nghĩ họ dù sao vẫn là

              Thật chí thiện, thật hiền hòa

       Vì họ không lấy dao mà giết con ”.

 

    – “ Này Pun-Nha ! Vẫn còn điều khác :

          Nếu dân đó hung ác trong lòng

              Lấy dao sắc bén đâm ông

       Khiến ông mất mạng, thì trong việc này

          Ông nghĩ sao điều đây xảy tới ? ”.

 

    – “ Bạch Phật ! Với trường hợp xảy ra

              Dân Su-Na-Pá-Ranh-Ta

       Giết con, con nghĩ suy qua điều là :

         ‘Những đệ tử Phật Đà thỉnh thoảng

          Ưu phiền và nhàm chán thân này,

              Nếu mà sự chết đến ngay

       Thì thoát được khổ đọa đày tấm thân.

          Nay không cần tự tìm cái chết

          Mà họ giúp ta chết được đây !’

              Bạch Phật ! Con nghĩ như vầy,

       Thế Tôn ! Con sẽ nghĩ ngay như vầy ”.

 

    – “ Lành thay ! Lành thay ! Này Pun-Nhá !

          Quốc độ Su-Na-Pá-Ranh-Ta

              Ông có thể sống trải qua

       Khi mà quyết chí tỏ ra như vầy,

          Sự nhiếp phục đủ đầy, an tịnh.

          Này Pun-Nhá ! Dự định ra sao

              Ông hãy thực hiện đúng vào

       Những điều ông nghĩ trước sau hợp thời ”.

 

          Nghe những lời giáo giới cao cả 

          Của Phật Đà, Tôn-giả hân hoan

              Tín thọ Thế Tôn lời vàng

       Đứng dậy và đảnh lễ hàng Đạo Sư,

          Hữu nhiễu, rồi giã từ Đức Phật,

          Về tịnh thất dọn dẹp sàng tòa,

              Lấy y bát rồi đi qua

       Nước Su-Na-Pá-Ranh-Ta này liền

          Với bản tính khoan hiền, kham nhẫn

          Ngài lần lượt hướng dẫn độ qua

              Dân Su-Na-Pá-Ranh-Ta          

       Ngày càng thuần tính, hiền hòa hơn xưa.

          Nội trong mùa an-cư năm đó

          Ngài nhiếp phục được họ quy y

              Năm trăm Thiện nam, đồng thì

       Năm trăm Tín nữ, hộ trì Săng-Ga.        (1)

 

          Tôn-giả Phú-Lâu-Na sau đó

          Chứng Tam Minh, sáng tỏ lý mầu. 

              Một thời gian nữa không lâu

       Ngài đã viên tịch, nhập vào Vô Dư.  (2)  

 

          Một số đông vị Sư (Phích-Khú) 

          Đến nơi ngụ của đức Phật Đà

              Đảnh lễ Ngài rồi ngồi qua

       Một bên cạnh Phật, thưa qua chuyện là :

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Thiện gia nam tử 

          Là Tôn-giả Pháp tự Pun-Nha

              Sau khi được đức Phật Đà

       Giáo giới vắn tắt, đã qua nơi là

    _______________________________

 

(1) : Sangha  –  Tăng-Già – là đoàn thể xuất gia trong Đạo Phật

       gồm từ 4 vị Tỷ-Kheo (đã thọ Cụ-túc-giới) giới đức trong sạch.

(2) : Một vị đã chứng đạt Tam Minh và Lục thông nhưng còn mang   

       xác thân tứ đại, ngũ uẩn được gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Khi

      các ngài xả bỏ tấm thân tứ đại gọi là nhập Vô Dư Y Niết Bàn.  


 

          Su-Na-Pá-Ranh-Ta quốc độ

          Rồi Tôn-giả hóa độ chúng dân

              Cải thiện thành những hiền nhân

       Thiện-nam Tín-nữ chánh chân tu hành.

          Bạch Phật ! Sanh thú của vị ấy

          Và đời sau vị ấy thế nào ? ”.

 

         – “ Này các Tỷ Kheo ! Hiểu mau   

       Pun-Nhá là bậc thanh cao trí hiền

          Vị ấy chuyên thực hành chánh pháp

          Và tùy-pháp tinh tấn, an hòa.

              Vị ấy không phiền nhiễu Ta

       Với những câu hỏi dựa qua pháp gì.

          Thiện nam tử hành trì nhuần nhã

          Là Pun-Nhá đã nhập Niết-bàn ”.

 

              Thế Tôn thuyết giảng nghiêm trang

       Chúng Tăng tín thọ lời vàng, hân hoan ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 145 :  GIÁO GIỚI PHÚ-LÂU-NA  – 

Puññovàda  Sutta  )  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24346)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9365)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10922)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3597)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5298)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3233)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10465)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3723)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 14986)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3467)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]