Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

59. Kinh Nhiều Cảm Thọ

19/05/202010:26(Xem: 10169)
59. Kinh Nhiều Cảm Thọ

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



59. Kinh NHIỀU CẢM THỌ
( Bahuvedanìya sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
      Một thời, đức Thế Tôn trú tại
          Kỳ-Viên-Tự , Chê-Tá-Va-Na  (1)
              Tại Sa-Vát-Thí (2) an hòa
       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka (3) tâm lành
          Cấp-Cô-Độc (3) đại danh thí chủ
          Thành Xá-Vệ (2) thường trú tại đây
              Đã dâng Phật Tinh Xá này
       Tên “ Bố-Kim-Tự ”(1) cũng hay dùng thường
          Là trung tâm hoằng dương Chánh Pháp
          Chư Tỷ Kheo an lạc sáu thì
              Hòa hợp, thanh tịnh, uy nghi
       Giải thoát giới bổn nghiêm trì trải qua.
 
          Người thợ mộc Panh-Cha-Kanh-Gá
    _________________________
 
(1) , (2), (3) : Jetavanavihàra :Kỳ Viên hay Kỳ Hoàn Tinh Xá ,do
 Trưởng Giả Cấp-Cô-Độc (Anathapindika – tên thật là SUDATTA 
-Tu-Đạt-Đa ) mua lại từ khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà ( Jeta ) gần
 Thành Xá Vệ (Savatthi ) dâng choĐức Phật .Tại đây đức Phật đã
 nhập hạ nhiều lần và  nhiều Kinh quan trọng đã được Phật thuyết
 ra tại đây .     Vì Trưởng Giả Cấp-Cô-Độc  đã dùng vàng lót trên
 mặt đất để mua cho được khu vườn theo lời thách của Thái Tử Kỳ
 Đà , nên chùa này còn được gọi  là Bố Kim Tự ( chùa trải vàng ). 
      Cảm phục tấm lòng nhiệt tâm vì đạo của Trưởng Giả , Thái Tử 
 Jeta  hoan hỷ cúng toàn bộ cây trái trong vườn đến Phật và Tăng 
 Chúng, nên ngôi chùa thường được gọi với danh xưng : Jetavana 
Anathapindikàràma - Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên ( vườn Cấp-Cô-Độc , cây Kỳ-Đà ).    
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 59 : NHIỀU CẢM  THỌ   *MLH  –  308
 
          Tức Ngũ Phần này đã một thì      
              Đến Tôn-giả Ưu-Đà-Di  (1)
Đảnh lễ Tôn-giả sau khi đến rồi,
          Ông ta ngồi một bên Tôn-giả
          Đoạn Panh-Chá-Kanh-Gá (2) thưa ngay
              Với ngài U-Đa-Di này :
 
 – “ Kính thưa Tôn-giả ! Xin ngài giải cho
          Thế Tôn thuyết có bao nhiêu thọ ? ”.
 
    – “ Gia chủ ! Có ba thọ trải qua
              Lạc thọ, khổ thọ kể ra,
       Bất khổ bất lạc thọ là thứ ba ”.
 
    – “ Thưa Tôn-giả ! Phật Đà không thuyết
          Có ba thọ. Chỉ thuyết hai thôi :
      Lạc thọ, khổ thọ trên đời.
       Bất khổ & lạc thọ Ngài thời thuyết ra
          Đó chính là tối thắng an lạc
          Đối với các vị chứng tịnh an ”.
 
              Vị Tôn-giả lại nói rằng    
       Đức Thế Tôn đã rõ ràng thuyết ra
          Là có ba thọ, và khẳng định :
 
    – “ Này Gia chủ ! Do chính Phật Đà
              Không chỉ thuyết hai thọ ra
       Mà thuyết ba thọ trải qua mọi thời :
          Lạc thọ, khổ thọ, rồi tiếp đó
          Bất khổ bất lạc thọ thứ ba ”.
 
              Ba lần, thợ mộc thưa là :
– “ Tôn-giả ! Phật không thuyết ba thọ vầy
    _________________________
 
(1) : Vị Tôn-giả tên Udayì .
   (2) :  Người thợ mộc tên Pancakanga – Ngũ Phần .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 59 : NHIỀU CẢM  THỌ   *MLH  –  309
 
          Phật chỉ thuyết có hai thọ đó
          Là lạc thọ, khổ thọ mà thôi !
              Bất khổ & lạc thọ này thời
       Thế Tôn thuyết đối với người hành sâu
          Tối thắng lạc, chứng vào tịch tịnh ”.
 
  Hai người đều đeo dính ý mình.
              Tôn-giả giải thích, thuyết minh
       Không thể thuyết phục, dù mình ông ta.
          Thợ mộc thì cho là như thế
          Cũng không thể thuyết phục ngài này.
 
              Tôn-giả A-Nan gần đây
       Nghe cuộc đàm thoại như vầy xảy ra
          Giữa thợ mộc Panh-Cha-Kanh-Gá
        Với Tôn-giả là Ưu-Đà-Di.
              Tôn giả A-Nan liền đi
       Đến hương thất Phật ; sau khi đến rồi
          Đảnh lễ Phật xong, ngồi cạnh đó
          Rồi Tôn-giả thuật rõ tức thì
              Chuyện Tôn-giả Ưu-Đà-Di
       Cùng người thợ mộc, sau khi thoại đàm
          Về các thọ hoàn toàn nghịch ý
          Ai cũng chấp về lý của ta.
 
              Nghe thuật lại, đấng Phật Đà
       Bảo Tôn-giả A-Nan-Đà như sau :
 
    – “ A-Nan ! Dầu cho U-Đa-Dí
          Nêu pháp môn đúng lý chăng là,
              Nhưng mà Panh-Chá-Kanh-Ga
       Cũng không chấp nhận. Hay là pháp môn
          Của thợ mộc bảo tồn là đúng
          U-Đa-Dí lại cũng khăng khăng
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 59 : NHIỀU CẢM  THỌ   *MLH  –  310
 
              Không chấp nhận hai thọ phần
       A-Nan ! Tứ chúng cũng cần hiểu ra :
          Về hai thọ được Ta nói tới
  Tùy theo với pháp môn thế nào.
              Ba thọ, Ta nói thuộc vào
       Tùy trường hợp khác, phải đâu sai lời.
          Năm & sáu thọ hay mười tám thọ,
          Hay ba mươi sáu thọ đồng thì,
              Một trăm lẻ tám thọ chi,
       Như Lai thuyết giảng theo tùy pháp môn.
          A-Nan-Đa ! Pháp môn tùy đó
          Ta thuyết giảng các thọ khác nhau !
              Nên đối với những người nào
       Không chấp nhận thì không sao tán đồng,
          Không tùy hỷ vì lòng chấp trước
          Những điều được khéo nói, trình bày,
              Sẽ xảy ra sự kiện này :
 
       Họ sẽ tranh đấu hoặc bày khẩu tranh,
          Họ luận tranh, đả-thương nhau kỹ
          Với binh khí miệng lưỡi cuồng ngông.  
 
              Còn với những ai tán đồng
       Chấp nhận, tùy hỷ thuộc trong những điều
          Được khéo nói, thuận chiều khéo thuyết
          Khéo trình bày chi tiết, hiểu mau,
              Xảy ra sự kiện như sau :            
       Họ sống ý hợp tâm đầu, tương liên,
          Hoan hỷ liền, như nước với sữa
          Mắt chan chứa tương ái nhìn nhau.
 
              Này A-Nan-Đa ! Thế nào
       Năm dục tăng trưởng kể vào ở đây ?
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 59 : NHIỀU CẢM  THỌ   *MLH  –  311
 
      *  Các sắc do mắt này nhận thức,
          Là đáng vui và thực đáng yêu
              Đẹp ý với sắc mỹ miều,
       Tương ứng với dục, những điều tốt hay.
 
      *  Các tiếng do tai này nhận thức,
      *  Mũi nhận thức đủ các thứ hương,
          *  Vị do lưỡi nhận thức thường,
   *  Xúc do thân cảm xúc, dường êm êm.
 
          Cả năm căn đều đem tức khắc
          Sự khả lạc, khả ý, đáng yêu,
              Tương ứng với dục mọi điều, 
       Năm dục trưởng dưỡng được nêu như vầy.
 
          Năm dục này khởi lên hỷ, lạc
    Nên gọi là dục-lạc trải qua.
 
              Này A-Nan ! Ai nói ra : 
      ‘Lạc & hỷ là tối thượng mà chúng sanh
          Có thể nhanh cảm thọ’, như thế 
Ta không thể chấp nhận điều đây.
              Sao vậy ? Vì lạc khác này
       Vi diệu, thù thắng, sâu dày hơn xa.
 
          A-Nan-Đa ! Tỷ Kheo vị nọ
          Dục từ bỏ, bất thiện pháp ly,
              Đệ nhất Thiền chứng, trú y,
       Trạng thái hỷ lạc, mọi thì tịnh thanh,
          Ly dục sanh, có tầm có tứ,
          Lạc này tự khác lạc kia xa,
     Vi diệu, thù thắng, sâu xa.
 
   *  Lại lạc thọ khác vượt xa hơn nhiều
          Vi diệu hơn và nhiều thù thắng :  
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 59 : NHIỀU CẢM  THỌ   *MLH  –  312
 
          Vị Tỷ Kheo diệt hẳn tứ, tầm,
              Chứng, trú Nhị Thiền âm thầm
       Trạng thái hỷ lạc do mầm định sanh,
          Không tầm, tứ, nhất tâm định tĩnh,
 Lạc này chính vi diệu hơn ngay.
 
              A-Nan ! Ai nói như vầy : 
      ‘Lạc & hỷ này tối thượng, đầy tịnh thanh
   Mà chúng sanh có thể cảm thọ’
          Ta không có chấp nhận điều đây !
              Vì sao ? Vì lạc khác này
       Vi diệu, thù thắng, sâu dày hơn xa.
 
      *  A-Nan-Đa ! Lại điều tiếp nữa
          Vị Tỷ Kheo nương tựa thiền tâm
              Ly hỷ trú xả, nhất tâm
       Chánh niệm tỉnh giác thì thân cảm liền
          Sự lạc thọ, Thánh hiền gọi đủ
          Là ‘xả niệm lạc trú’, an nhiên
              Chứng và an trú Tam Thiền
       Lạc này vi diệu, thâm uyên hơn nhiều.
 
      *  Này A-Nan ! Lại điều tiếp nữa
          Vị Tỷ Kheo nương tựa định thiền
              Xả lạc, xả khổ - tâm yên
       Diệt hỷ, ưu, cảm thọ liền trước đây
          Chứng, trú ngay vào Thiền đệ Tứ
          Không khổ, lạc, không giữ niệm nào.
 
          *  Lại có lạc thọ thanh cao 
       Vị Tỷ Kheo ấy nhập vào thiền-na
          Đã vượt qua toàn diện sắc-tưởng,
          Sai-biệt-tưởng không tư-niệm qua
              Diệt trừ hữu-đối-tưởng ra                        
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 59 : NHIỀU CẢM  THỌ   *MLH  –  313
 
       Vị ấy nghĩ : ‘Hư không là vô biên’,
          Không Vô Biên Xứ liền chứng, trú.
          Lạc vi diệu này tự hơn xa 
          Đối với dục lạc mị tà.
 
   *  Vị Tỷ Kheo ấy thiền-na lộ đồ
          Vượt toàn diện Không-vô-biên-xứ
          Liền tư lự : ‘Thức là vô biên’
     Chứng, trú Xứ Thức Vô Biên.
 
   *  Rồi Tỷ Kheo ấy theo duyên bấy giờ
          Vượt toàn diện Thức-vô-biên-xứ
          Lại tư lự : ‘Không có vật gì’
            Vô Sở Hữu Xứ trú, y.
       Lạc này thù thắng, diệu vi hơn nhiều.
 
      *  Vị Tỷ Kheo vượt qua toàn diện
          Vô-sở-hữu-xứ biến khỏi đi
              Chứng và an trú tức thì
       Vào Xứ Phi-Tưởng Phi-Phi-Tưởng này,
          A-Nan-Đa ! Lạc đây chắc chắn
          Vi diệu và thù thắng hơn xa.
 
           *  Lại nữa, có ai nói là :
     ‘Lạc & hỷ này tối thượng, mà chúng sanh
          Có thể nhanh cảm thọ’, như thế
          Ta không thể chấp nhận điều đây !
              Sao vậy ? Vì lạc khác này
       Vi diệu, thú thắng, sâu dày hơn xa.
          Vị Tỷ Kheo vượt qua khỏi hướng
          Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ này
              Chứng Diệt Thọ Tưởng Định ngay
       Và an trú ở định này, lành thay !
          A-Nan-Đa ! Lạc này chắc chắn              
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 59 : NHIỀU CẢM  THỌ   *MLH  –  314
 
          Vi diệu và thù thắng hơn xa
              Với lạc & hỷ đã nói qua.
 
       A-Nan ! Có thể xảy ra điều này :
          Có những tay du sĩ ngoại đạo
          Có thể nói điên đảo như vầy :
            “ Sa-môn Gô-Ta-Ma này
       Nói Diệt-thọ-tưởng-định đây tỏ tường
          Thuộc lạc thọ, chủ trương như vậy,
          Là gì vậy ? Như vậy là sao ? ”.
              A-Nan ! Cần đáp như sau :
 
    “ Này Chư Hiền ! Căn cứ vào đại cương
          Thế Tôn không chủ trương chỉ có
          Những tùy thuộc lạc thọ điều gì
        Là thuộc về lạc tức thì.
       Chủ trương Phật là phạm vi chỗ nào
          Và chỗ nào có được lạc thọ
          Thì chỗ đó thuộc về lạc ngay ! ”.
 
              Thế Tôn thuyết giảng như vầy 
       A-Nan hoan hỷ, càng dày niềm tin ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
 
 
 
*
*    *
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 59  :  Kinh NHIỀU CẢM THỌ
 –  BAHUVEDANÌYA   Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24346)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9365)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10922)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3597)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5298)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3233)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10465)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3723)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 14986)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3467)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]