Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

52. Kinh Bát Thành

19/05/202010:24(Xem: 9421)
52. Kinh Bát Thành

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



52. Kinh BÁT THÀNH
( Atthakanàgara sutta)
 
Như vậy, tôi nghe :
 
Một thời, A-Nan-Đa (1) Tôn-giả
          Tại Tỳ-Xá-Ly (2)  Thành trú qua
           ( Tức Vê-Sa-Li cũng là )
       Bê-Lu-Va-Gá-Ma-Ka (3) thôn làng.
 
          Lúc bấy giờ có hàng Gia Chủ
          Đang thường trú tại Át-Tha-Ka (4)
              Có tên là Đa-Sa-Ma, (4)
       Đến Pa-Ta-Lí-Pút-Ta đô thành
       ( Hoa Thị Thành cũng là nơi đó )
Vì ông có công việc cần qua.
              Rồi Gia-chủ Đa-Sa-Ma
       Đến Kút-Ku-Tá-Ra-Mà (5) – Kê Viên.
          Gặp vị Tăng, ông liền đảnh lễ
    ________________________________
 
(1) : ANANDA  hay A-Nan  là con Hộc-Phạn Vương ( Sukodana – 
       em Vua Tịnh Phạn - Suddhodana ), tức là em chú bác với Đức
      Phật . Xuất gia cùng với 6 vị vương-tử giòng Thích Ca khi đức
      Phật về thăm lại Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavatthu ) lần đầu tiên sau 
      khi thành đạo . Tôn-giả là vị Thị giả hầu cận trung tín của Đức
     Phật suốt 30 năm trung-giác-thời và hậu-giác-thời của Phật .
     ( 15 năm tiền-giác-thời, đức Phật chưa có vị  thị giả nào nhất
    định và chính thức ) .
(2) : Vesali ( Tỳ-Xá-Ly ) là thủ phủ của vương quốc Licchavi , một
   trung tâm chính trị, thương mại và văn hóa quan trọng thời Phật.
   Nơi đây còn là cái nôi của nền văn hóa triết thuyết Phật-giáo.Tại
   đây, đức Phật đã tuyên bố 3 tháng nữa Ngài nhập Niết-Bàn ;  và
   cũng tại đây, Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ 2 được tổ chức
   sau khi Phật nhập diệt hơn 100 năm . 
(3) : Làng Beluvagàmaka .    (4) : Atthaka – Bát Thành , quê quán
        của Dasama .                 (5) :  Kukkutarama – Kê Viên .
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   206
 
          Đoạn ngồi kế một bên vị này
              Ông Đa-Sa-Má thưa ngay :
– “ Kính bạch Tôn-giả ! Xin ngài thứ cho !
          Những điều do con đây quấy quả
          Không biết là Tôn-giả A-Nan
              Ngài đang nơi nào trú an ?
       Chúng con muốn gặp, thỉnh an với ngài ! ”.
 
    – “ Này Gia Chủ ! Ngài nay an trú
          Vê-Sa-Li, nơi ngụ tên là
              Bê-Lu-Vá-Ga-Ma-Ka,
       Gia-chủ muốn gặp, hãy qua nơi này ”.
 
          Đa-Sa-Ma, vị đây quê quán 
          Át-Tha-Ka – hoàn mãn việc nhà
              Ở Pa-Ta-Li-Pút-Ta  (1)
       Liền trực chỉ đến Vê-Sa-Li thành
          Để được gặp tịnh thanh Tôn-giả
          A-Nan-Đa. Khi đã gặp rồi
              Đảnh lễ, một bên ông ngồi
       Rồi Đa-Sa-Má mở lời thưa qua :
 
    – “ Kính bạch A-Nan-Đa Tôn-giả !
          Pháp độc nhất nào đã do Ngài
              Thế Tôn, Kiến Giả, Như Lai,
       Chánh Đẳng Chánh Giác hoằng khai Pháp mầu,
          Bậc thâm sâu Đại A-La-Hán,
          Đã thuyết giảng, tuyên bố như sau :
             ‘Nếu có vị Tỷ Kheo nào
    ______________________________
 
(1) : Pàtaliputta – Ba-la-lị-phất , tức  Hoa Thị Thành , nơi diễn
      ra Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ 3 dưới sự chủ tọa của
     ngài Mục-Kiền-Liên Đế Tu  ( Moggaliputta Tissa ) do A-Dục  
     Đại  Đế  ngoại hộ ( khoảng thế kỷ thứ 3  trước Tây lịch ). 
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   207
 
       Sống không phóng dật, thanh cao, tinh cần,
          Luôn nhiệt tâm hành trì pháp ấy
          Thì tâm của vị ấy tịnh thanh.
              Nếu giải thoát chưa đạt thành
       Sẽ được giải thoát, an lành sớm trưa.
    Các lậu-hoặc nếu chưa trừ diệt
   Sẽ trừ diệt lậu-hoặc dễ dàng.
              Pháp khỏi ách phược, vui an
       Chưa được chứng đạt, sẵn sàng chứng ngay’.
          Pháp độc nhất ở đây được kể
          Là pháp gì Thiện Thệ thuyết ra ? ”.
 
        – “ Này Gia-chủ Đa-Sa-Ma !
       Có pháp độc nhất Phật Đà, Thế Tôn,
          Đại Sa-Môn, Tri Giả, Kiến Giả,
          Chánh Đẳng Giác – Ngài đã thuyết ra.
              Này Gia-chủ Đa-Sa-Ma !
       Tỷ Kheo ly dục trải qua mọi thì,
          Bất thiện pháp cũng ly đầy đủ,
          Chứng và trú vào Đệ Nhất Thiền
              Trạng thái hỷ lạc, an nhiên,
       Có tầm & tứ, ly dục liền phát sanh.
          Rất an lành, vị này nghĩ ngợi :
        ‘ Được biết tới : Sơ Thiền này là
              Pháp hữu vi, thường trải qua,
       Do suy tư, đã tạo ra tức thì.
          Phàm nó là hữu vi pháp ấy
          Do suy tư như vậy tác thành
              Thời sự vật ấy đành rành
       Là vô thường, chịu sẵn dành diệt ngay’.
 
          Vị ấy do ở đây vững trú
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   208
 
  Rồi các thứ lậu-hoặc đoạn trừ.
              Còn các lậu-hoặc, nếu như
       Do tham luyến, chưa đoạn trừ được ngay,
          Nhưng vị ấy pháp này hoan hỷ
          Sẽ khả dĩ đoạn trừ tức thì
              Năm hạ-phần-kiết-sử đi,
       Hóa sanh, nhập Niết Bàn khi mãn phần,
   Và không cần trở lui cõi thế.
          Này Gia-chủ ! Được kể pháp này
              Là pháp độc nhất, không hai
       Do Thế Tôn, bậc Như Lai, Phật Đà,
          Tri & Kiến Giả, Đại A-La-Hán,
          Chánh Đẳng Giác, viên mãn Trí Bi
              Đã tuyên bố để hành trì,
       Nên những Phích-Khú nào vì nhiệt tâm
          Luôn tinh cần và không phóng dật,
          Các lậu-hoặc chưa được đoạn trừ
         Thì sẽ đi đến đoạn trừ.
       Chưa giải thoát sẽ an như thoát trần.
          Pháp vô thượng được phần an ổn
          Khỏi ách phược, không tổn hại gì
  Chưa chứng đạt, chứng tức thì.
 
       Lại nữa Gia-chủ ! Vị Tỳ-Khưu đây
          Diệt tầm & tứ, chứng ngay và trú
          Đệ Nhị Thiền đầy đủ, thâm trầm,
              Trạng thái nội tĩnh nhất tâm
       Hỷ lạc do định, không tầm & tứ chi. 
          Vị ấy liền nghĩ suy, biết rõ :
        ‘ Nhị Thiền đó là pháp hữu vi,
              Tác thành do sự nghĩ suy,
 
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   209
 
       Sự vật ấy thuộc phạm vi vô thường,
          Cho nên thường phải chịu đoạn diệt ’.
 
          Này Gia-chủ ! Với nhiệt tâm cao 
              Ly hỷ trú xả hướng vào,
       Chánh niệm tỉnh giác, thân mau cảm liền,
          Sự lạc thọ Thánh hiền gọi đủ
          Là ‘xả niệm lạc trú’, chứng ngay
        Và an trú Tam Thiền này.
 
       Lại nữa, vị ấy diệt rày hỷ ưu,
          Đã cảm thọ, xả lạc xả khổ
          Chứng, trú chỗ Đệ Tứ Thiền ngay,
              Không khổ, không lạc ở đây,
       Xả niệm thanh tịnh. Vị này suy tư :
       ‘ Được biết : Thiền Thứ Tư cũng thế,
          Cả Tam Thiền và Đệ Nhị Thiền
              Cũng là pháp hữu-vi chuyên,
Do suy tư, tác thành liền có ra.
          Sự vật là hữu-vi pháp ấy,
          Do suy tư như vậy tác thành,
              Thời sự vật ấy đành rành
       Là vô thường, chịu sẵn dành diệt ngay.
 
          Vị ấy do ở đây vững trú
          Rồi các thứ lậu-hoặc đoạn trừ.
              Còn các lậu-hoặc, nếu như
       Do tham luyến, chưa đoạn trừ được ngay,
          Nhưng vị ấy pháp này hoan hỷ
          Sẽ khả dĩ đoạn trừ tức thì
              Năm hạ-phần-kiết-sử đi,
       Hóa sanh, nhập Niết Bàn khi mãn phần,
   Và không cần trở lui cõi thế.
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   210
 
          Này Gia-chủ ! Được kể pháp này
              Là pháp độc nhất, không hai
       Do Thế Tôn, bậc Như Lai, Phật Đà,
          Tri & Kiến Giả, Đại A-La-Hán,
          Chánh Đẳng Giác, viên mãn Trí Bi
              Đã tuyên bố để hành trì,
       Nên những Phích-Khú nào vì nhiệt tâm
          Luôn tinh cần và không phóng dật,
          Các lậu-hoặc chưa được đoạn trừ
     Thì sẽ đi đến đoạn trừ.
       Chưa giải thoát sẽ an như thoát trần.
          Pháp vô thượng được phần an ổn
          Khỏi ách phược, không tổn hại gì
  Chưa chứng đạt, chứng tức thì.
 
       Lại nữa, Gia-chủ ! Vị Tỷ Khưu đây
          Vâng lời dạy bậc Thầy hy hữu
          Biến mãn tâm câu hữu với Từ,
              Với Bi, Hỷ, Xả – an như,
       Hết thảy phương xứ, chẳng trừ nơi nao,
          Vô biên giới khắp vào cùng tận,
          Không sân, hận, quảng đại, vô biên.
              Vị ấy suy tư, biết liền
       Từ, Bi, Hỷ, Xả tâm nguyên đều là
     Pháp hữu vi, có ra do nghĩ.
          Sự vật chỉ là pháp hữu vi  
              Thời sự vật ấy được truy
       Là vô thường, đoạn diệt đi chẳng chầy.
 
          Vị ấy do ở đây vững trú
  Rồi các thứ lậu-hoặc đoạn trừ.
              Còn các lậu-hoặc, nếu như
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   211
 
       Do tham luyến, chưa đoạn trừ được ngay,
          Nhưng vị ấy pháp này hoan hỷ
          Sẽ khả dĩ đoạn trừ tức thì
              Năm hạ-phần-kiết-sử đi,
       Hóa sanh, nhập Niết Bàn khi mãn phần,
   Và không cần trở lui cõi thế.
          Này Gia-chủ ! Được kể pháp này
              Là pháp độc nhất, không hai
       Do Thế Tôn, bậc Như Lai, Phật Đà,
          Tri & Kiến Giả, Đại A-La-Hán,
          Chánh Đẳng Giác, viên mãn Trí Bi
              Đã tuyên bố để hành trì,
       Nên những Phích-Khú nào vì nhiệt tâm
          Luôn tinh cần và không phóng dật,
          Các lậu-hoặc chưa được đoạn trừ
         Thì sẽ đi đến đoạn trừ.
       Chưa giải thoát sẽ an như thoát trần.
          Pháp vô thượng được phần an ổn
          Khỏi ách phược, không tổn hại gì
  Chưa chứng đạt, chứng tức thì.
       Lại nữa, Gia-chủ ! Vị Tỳ Khưu trên
          Đã vượt lên với mọi Sắc-tưởng,
          Chướng ngại-tưởng hết thảy diệt mau,
       Không tác ý dị tưởng nào.
       Tỷ Kheo ấy lại mau mau nghĩ liền :
       “ Hư không là vô biên’ thực thụ ”.
  Chứng và trú Xứ Không Vô Biên.
              Sau đó vị ấy vượt lên   
       Mọi Không Vô Biên Xứ, liền nghĩ ra :
       “ Chính Thức là vô biên’ đích thực ”
   Chứng và trú Xứ Thức Vô Biên.
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   212
 
              Vị ấy tiếp tục vượt lên
       Mọi Thức Vô Biên Xứ, liền nghĩ suy :
   “ Thật không có vật gì  ” – chứng, trú
       Vào Vô Sở Hữu Xứ cõi này.
              Vị ấy suy tư, biết ngay :
    “ Tất cả các Xứ trên đây còn phiền
          Không Vô Biên, Thức Vô Biên Xứ,
          Cùng Vô Sở Hữu Xứ Định ni
              Cũng đều là pháp hữu vi
       Chúng do từ sự nghĩ suy tác thành
          Phàm sự vật tác thành do nghĩ
          Là hữu vi, đích thị vô thường,
              Chịu sự đoạn diệt tang thương
     Không phải là sự cát tường, chẳng hay !
 
          Vị ấy do ở đây vững trú
  Rồi các thứ lậu-hoặc đoạn trừ.
              Còn các lậu-hoặc, nếu như
       Do tham luyến, chưa đoạn trừ được ngay,
          Nhưng vị ấy pháp này hoan hỷ
          Sẽ khả dĩ đoạn trừ tức thì
              Năm hạ-phần-kiết-sử đi,
       Hóa sanh, nhập Niết Bàn khi mãn phần,
   Và không cần trở lui cõi thế.
 
          Này Gia-chủ ! Được kể pháp này
              Là pháp độc nhất, không hai
       Do Thế Tôn, bậc Như Lai, Phật Đà,
          Tri & Kiến Giả, Đại A-La-Hán,
          Chánh Đẳng Giác, viên mãn Trí Bi
              Đã tuyên bố để hành trì,
       Nên những Phích-Khú nào vì nhiệt tâm
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   213
 
          Luôn tinh cần và không phóng dật,
          Các lậu-hoặc chưa được đoạn trừ
         Thì sẽ đi đến đoạn trừ.
       Chưa giải thoát sẽ an như thoát trần.
          Pháp vô thượng được phần an ổn
          Khỏi ách phược, không tổn hại gì
  Chưa chứng đạt, chứng tức thì.
       Gia Chủ ! Sự việc chung qui như vầy ! ”.
 
          Nghe thuyết giảng từ ngài Tôn-giả,
          Vị Gia-chủ tên Đá-Sa-Ma
              Cư dân thành Át-Thá-Ka
       Bạch Tôn-giả A-Nan-Đa rõ ràng :
 
     – “ Bạch Tôn-giả A-Nan đáng kính !
          Như một người toan tính tìm ra
              Kho tàng cất dấu lâu xa
       Mất nhiều công sức, tìm ra kho tàng.
          Cũng vậy, bạch A-Nan Tôn-giả !
          Con vất vả tìm một pháp-môn
        Xứng là bất tử pháp môn.
       Một lúc, mười một pháp môn tuyệt vời
          Được tìm thấy do lời ngài giảng,
          Đều xứng đáng ‘bất tử pháp môn’.
 
              Như ngôi nhà được bảo tồn
       Có mười một cửa được tôn tạo vầy.
          Khi nhà này bất thần bị cháy
          Chỉ cần lấy một cửa chạy qua
        Có thể an toàn thoát ra.
       Cũng vậy, cần có chỉ là một thôi
          Cửa bất tử trong mười một cửa
   Con có thể nương tựa an toàn.
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   214
 
              Kính bạch Tôn-giả A-Nan !
       Đệ tử ngoại đạo các hàng thường xuyên   
          Tìm của tiền cúng dường Thầy họ,
          Con cũng có ý muốn cúng dường
              Cho Tôn-giả, bậc thanh lương,
       Cùng với Tăng Chúng địa phương tịnh hòa ”. 
          Vị Gia Chủ tên Đa-Sa-Má
          Cư dân Át-Tha-Ká – Bát Thành
              Thỉnh mời Tăng-Già tịnh thanh
   Pa-Ta-Lí-Pút-Ta thành nơi ni,
          Hoặc tại Vê-Sa-Li trú ngụ
 Vào ngày mai Gia-chủ Trai Tăng.
              Tự tay chủ nhân mời ăn
       Các món thượng vị quý trân cứng, mềm.
          Sau ngọ thực, ông đem dâng đủ
    Mỗi Phích-Khú một bộ y vàng,
              Cúng dường Tôn-giả A-Nan
       Tam y (1), pháp phục của hàng Tỷ Kheo.
          Rồi dâng chư Tỷ Kheo & Tôn-giả
          Một Tăng Xá giá trị vô song
              Tiền vàng, xứng năm trăm đồng
       Trong đó có năm trăm phòng tiện nghi ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
(  Chấm dứt  Kinh số 52  :  BÁT THÀNH   –
ATTHAKANÀGARA   Sutta  )
    _______________________________
 
(1) : Một vị Tỷ Kheo (Tỳ-Khưu -Bhikkhu ) đã thọ Cụ-Túc-Giới (Đại
Giới) luôn luôn mang theo mình Bình Bát và Tam Y : Y An-Đà-Hội
(Antarvàsa –Y mặc như quần ); Y Uất-Đà-La-Tăng (Uttara sangha –Y vai trái ); Y Tăng-Già-Lê – Sanghàti  ( Y may từ 2 đến 7 lớp- có
thể dùng để đắp .Y này chỉ hàng Tỷ Kheo mới có, khi hành Tăng Sự
thì bắt buộc phải đắp lên vai trái, bên ngoài Y Uất-đà-la-tăng ). .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24346)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9365)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10922)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3597)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5298)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3233)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10465)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3723)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 14988)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3467)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]