Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hải Vân Hải Môn Lữ Thứ

24/07/201709:03(Xem: 5112)
Hải Vân Hải Môn Lữ Thứ

Hai Van (1)

HẢI VÂN HẢI MÔN LỮ THỨ
CHÂU YẾN LOAN

 

 

Hải Vân hải môn lữ thứ là bài thơ của vua Lê Thánh Tông được sáng tác trong chiến dịch Bình Chiêm vĩ đại năm 1470 khi nhà vua kéo quân ngang qua vịnh Đà Nẵng.

Lê Thánh Tông (1442 -1497 ) tên thật là Tư Thành, lên ngôi vua năm 1460, mười năm đầu lấy niên hiệu là Quang Thuận, sau đổi niên hiệu là Hồng Đức. Ba mươi tám năm trị vì, với trí tuệ sáng suốt và đức độ của mình ông đã đóng góp to lớn vào công cuộc phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực : chính trị, quân sự, kinh tế ,giáo dục, văn học, nghệ thuật v.v..và dựng lên một vương triều thịnh vượng nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.

 

Thời nhà Hồ, biên giới Đại Việt đã vào tới Chiêm Động và Cổ Luỹ Động (phía bắc tỉnh Quảng Ngãi ), nhà Hồ chia hai động này thành bốn châu : Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa đặt An phủ sứ và Phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị . Khi quân Minh sang đánh nước ta, họ Hồ thua chạy, Chiêm Thành đem quân  chiếm lại Chiêm Động và Cổ Luỹ rồi đánh Hoá Châu. Từ thời Lê Nhân Tông, năm Thái Hoà thứ II (1444 ) cho đến thời Lê Thánh Tông , năm Hồng Đức thứ I (1470 ) quân Chiêm đã 4 lần đánh phá Hoá châu. Năm 1469, vua Chiêm là Bàn La Trà Toàn dấy binh, rồi tháng 8 năm sau (1470 ) lại đem 10 vạn quân và một đoàn kỵ binh tấn công lần nữa. Thủ ngữ Kinh lược sứ Thuận Hoá là Phạm văn Hiển không chống nổi, phải rút vào thành cố thủ và phi báo về triều đình. Trước tình hình đó, vua Lê Thánh Tông phải xuống chiếu thân chinh.

Ngày 6 tháng 11 năm Canh Dần (1470 ) bắt đầu xuất quân. Vua sai Chinh lỗ tướng quân Thái sư Lân Quận Công  Đinh Liệt, Chinh lỗ phó tướng quân Thái bảo Kỳ Quận Công Lê Niệm đem 10 vạn thủy quân đi trước, ngày Canh Dần 16 tháng 11 vua đốc suất 15 vạn thủy quân đi tiếp theo.

Trên đường Nam chinh từ cửa biển Thần Phù ( tỉnh Thanh Hoá ) tới cửa Thị Nại ( tỉnh Bình Định ) nhà vua đã đi qua 39 cửa bể :

 

                      “Thử khứ hải  môn tam thập cửu

                      Kế trình hà nhật đáo Ô Châu ?”

                                     (  Thần Phù hải môn lữ thứ )

                   Chuyến đi này vượt qua ba mươi chín cửa biển ,

                     Tính đoạn đường, biết ngày nào mới tới Ô Châu ?

                                                  ( Ngô Linh Ngọc dịch )

 

Vốn là một vị vua nổi tiếng về tài thơ văn, nên những cảnh  thiên nhiên hùng  vĩ của tổ quốc đã trở thành nguồn cảm hứng thơ ca của ông, đến đâu ông cũng ghi lại những cảm xúc của mình trong những bài thơ. Ngoài 30 bài

trong Chinh Tây kỷ hành thi tập miêu tả phong cảnh đất nước dọc đường hành quân, trong Minh Lương Cẩm tú thi tập còn có 14 bài vịnh các cửa biển gọi là Ngự chế các hải môn thi (thơ về các cửa biển của nhà vua ): 1) Thần Phù hải môn lữ thứ, 2) Giáp hải môn lữ thứ, 3) Du hải môn lữ thứ, 4) Càn hải môn lữ thứ, 5) Đan Nhai hải môn lữ thứ, 6) Nam Giới hải môn lữ thứ, 7) Kỳ La hải môn lữ thứ, 8) Hà Hoa hải môn lữ thứ, 9) Xích Lỗ hải môn lữ thứ, 10) Di Luân hải môn lữ thứ, 11) Bố Chính hải môn lữ thứ, 12) Nhật Lệ hải môn lữ thứ, 13) Tư Dung hải môn lữ thứ và khi thuyền rồng qua cửa biển Hải Vân - cửa biển nằm ở phái bắc thành phố Đà Nẵng, giáp ranh với tỉnh Thừa Thiên Huế - vua Lê Thánh Tông đã sáng tác bài thơ :

 

                                              海雲海門旅次

 

混一車書共幅員

海雲橫界越南天

三更夜靜銅龍月

五鼓風清路鶴船

夷落奉參期款塞

閫臣愛國巧籌邊

此身那得生還幸

敢望班超到酒泉

 

                                Hải Vân hải môn lữ thứ 

                             Hỗn nhất thư xa cộng bức quyên
                            Hải Vân hoành giới Việt Nam thiên

                             Tam canh dạ tĩnh Đồng Long nguyệt

                             Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền

                             Di lạc phụng thâm kỳ khoản tái

                             Khổn thần ái quốc xảo trù biên
                             Thử thân na đắc sinh hoàn hạnh

                             Cảm vọng Ban Siêu đáo Tửu Tuyền .

 

Qua cửa biển Hải Vân

 

Giang sơn trọn bức dư đồ

Hải Vân giang rộng mở cờ vượt Nam

Đồng Long vằng vặc trăng nằm

Con thuyền Lộ Hạc canh năm dập dềnh

Người Di hẹn đất dâng lên

Khổ thân viên tướng giữ nền biên cương

Sá chi sống chết sa trường,

Ban Siêu chín suối thẹn nhường được sao?

                                                (Nguyễn Thiếu Dũng dịch)

                                     

Ngày mồng 2 tháng giêng năm Tân Mão (1471) vua vào tới Thuận Hóa cho quân ra biển tập thủy chiến rồi sai thổ tù ở Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ bản đồ của Chiêm Thành dâng lên cho vua.

Sách Thiên Nam Dư Hạ Tập chép rằng : Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, đóng quân ở Hải Vân Quan, đêm khuya không ngủ, vừa đứng ngắm núi biển, đèo, mây, nước, có câu thơ:

 

Tam canh dạ tĩnh Đồng Long Nguyệt

Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền

 

Vua thân đem đại quân đánh phá thành Thị Nại, vây thành Trà Bàn

Ngày 1 tháng 3 năm Tân Mão (1471), hạ thành Trà Bàn, bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn đưa về nước cùng 30.000 quân sĩ và 50 người trong hoàng tộc bị bắt làm tù binh.

Ngày mồng 1 tháng 5 năm Tân Mão (1471), làm lễ mừng thắng trận.

Công cuộc bình Chiêm thắng lợi, vua đổi Thăng Châu , Hoa Châu thành ba  huyện Lê Giang, Hy Giang và Hà Đông thuộc phủ Thăng Hoa; Tư Châu, Nghĩa Châu thành ba huyện Bình Sơn, Nghĩa Giang và Mộ Hoa, thuộc phủ Tư Nghĩa. Chia đất cũ của Chiêm Thành là Đồ Bàn thành ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhơn, đặt ba phủ rồi đưa tù nhân ba loại bị tội đồ tới đây để “cấy người ở biên giới” (thực biên )

Với chiến thắng này, nhà vua không những  thực hiện được ý định khôi phục bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chấm dứt nạn binh đao, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân, mà còn mở rộng biên cương đến miền Vijaya, tức là phủ Hoài Nhơn (ngày nay là Bình Định ).

 

Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn lập thành đạo thứ mười ba là Quảng Nam Thừa tuyên đạo, sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, đúng như mục đích xuất chinh mà nhà vua đã nói trong câu thơ mở đầu:

 

                              “ Hỗn nhất thư xa cộng bức quyên” 

Danh xưng Quảng Nam ra đời từ lúc ấy.

                               

                            “ Hải Vân hoành giới Việt Nam thiên

Câu thơ nêu bật vị trí hiểm yếu, quan trọng của núi Hải Vân đối với lãnh thổ Đại Việt.

Hải Vân là một quần thể núi non hùng vĩ ở cuối Trường Sơn Bắc, đâm ra tới biển Đông, ngọn núi chính là Hải Vân Sơn cao 1192m còn có tên là Cao An Lĩnh hợp với các ngọn núi Đại Tu Nông, Tiểu Tu Nông, núi Tía, núi Kiền Kiền về phía tây từ biên giới Lào chạy tới. Hải Vân Sơn cùng với Bà Sơn và Hải Sơn là ba ngọn núi cao nhất liên tiếp xen nhau, đỉnh núi cao thấu từng mây, chân núi chạy thẳng ra bờ biển, dọc theo các sườn núi thuộc quần thể Hải Vân còn có những khe với những tảng đá muôn hình vạn trạng rải dài tận biển như khe Kỹ, khe Vu, khe Hổ Lang, khe Bé, khe Lớn. Phía Bắc chân núi có hang Dơi khoét sâu vào, nơi đây thường có sóng to gió lớn nhấn chìm ghe thuyền khiến người qua đó phải ngại bước chùn chân:

 

                                        “Đi bộ thì khiếp Hải Vân,

                             Đi biển thì sợ sóng thần hang Dơi”

 

Từ xưa, Hải Vân đã được chú ý vì nó chiếm giữ một vị trí chiến lược quan trọng :  là phên giậu phía nam của nước Đại Việt. Hải Vân đã từng là địa đầu chiến tuyến giữa hai lực lượng Việt – Chiêm trong chiến dịch Bình Chiêm của Lê Thánh Tông năm 1470-1471. Phía Bắc Hải Vân, nhà vua đặt hành điện tại cửa Tư Dung (nay là cửa Tư Hiền) để cho thủy quân diễn tập chuẩn bị vào trận còn phía Nam Hải Vân thì tướng Bồng Nga Sa của Chiêm Thành đang trấn giữ Cu Đê.

Hải Vân núi cao, vực thẳm đường đi hiểm trở gian nguy thường được ví như đường vào đất Thục:

 

Ải lĩnh xuân vân-                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                

Việt Nam xung yếu thử sơn điên

Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên

Đản kiến vân hoành tam tuấn lĩnh,

Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên…

(Nguyễn Phúc Chu)

 

Mây xuân đỉnh Ải

 

Việt Nam hiểm yếu Hải Vân sơn

Thăm thẳm đường lên Thục đạo nan

Chỉ thấy mây vờn ba đỉnh núi

Đâu biết người đâu lẫn mấy tầng

 (Nguyễn Thiếu Dũng dịch)

 

Chân núi Hải Vân sát với biển xanh, ngọn núi lẫn trong mây trắng, núi chia đôi đường Nam Bắc làm thành tấm bình phong thiên nhiên cao ngất, chắn ngang con đường thiên lý, là ranh giới giữa hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam, lần đầu tiên vua Lê Thánh Tông đặt cửa quan Hải Vân để kiểm soát những người ra vào :

 

                        “ Hải Vân hoành giới việt nam thiên

 

Câu thơ mạnh mẽ, hùng tráng nói lên cái thế vững chãi của quần thể núi Hải Vân rạch ngang trời Nam như một bức trường thành kiên cố.

Chữ Việt Nam trong câu thơ này chưa phải là tên nước, tên chính thức lúc bấy giờ là Đại Việt, nhưng hai từ Việt và Nam đi liền nhau bắt đầu từ đây có thể là báo hiệu cho việc lấy tên nước về sau.       

 

Từ cửa biển Hải Vân nhìn  vũng Đồng Long bờ bến mênh mông, đêm khuya thanh vắng, ánh trăng vằng vặc giữa trời, thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng đã khơi nguồn thi hứng cho nhà vua vẽ nên một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp

 

                   “ Tam canh dạ tĩnh Đồng Long nguyệt

                      Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền”

 

Vũng Đồng Long còn gọi là vũng Thùng, tức là Vũng Sơn Trà. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí (q.VII- tỉnh Quảng Nam) chép:

 

Vũng Sơn Trà (tức vũng Thùng) ở phía bắc huyện Hòa Vang, lại có tên là vũng Đà Nẵng. Phía đông là núi Trà Sơn (Sơn Trà), phía bắc là núi Hải Vân, phía tây là tấn Cu Đê, dài rộng ước 25 dặm linh (có lẻ), phía đông nam là vũng Trà Sơn (tức vịnh Hàn) là vùng biển lớn, vừa rộng vừa sâu, có thể chứa được hàng ngàn thuyền ghe, phía ngoài có núi che, không phải lo về sóng gió; tàu thuyền đi lại gặp lúc chưa tiện gió, phần nhiều đổ tại đây

 

 Hai Van (1)

  (nguồn Internet)

 

Vịnh Đà Nẵng có hình cánh cung, được bao bọc bởi hai dãy núi Hải Vân và Sơn Trà nên rất kín gió, tàu bè neo đậu an toàn.

 

“Lộ Hạc “là tên nước, (Locac là bán đảo Mã Lai  ngày nay) thuyền của họ thường lui tới buôn bán ở đây. Câu thơ cho biết ít nhất thì từ thời Hậu Lê   (thế kỷ XV ), đã có thuyền nước ngoài đến buôn bán ở vịnh Đà Nẵng .

Sông Cổ Cò nối cửa Hàn Đà Nẵng và cửa Đại Chiêm ở Hội An, thuyền buôn các nước từ bắc xuống, qua cửa Hàn, theo sông Cổ Cò qua Ngũ Hành Sơn vào vụng Trà Quế tới Hội An buôn bán; từ phía nam lên, theo sông Trường Giang vào vụng Trà Nhiêu mà tới Hội An.

Trước thế kỷ XV, Hội An đã là nơi tập trung và phân phối hàng hóa của vương quốc Champa với các nước trong khu vực.

Như vậy nhìn về vịnh Đồng Long, vua Lê Thánh Tông không chỉ thấy một phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ thơ mộng mà nhà vua còn thấy được viễn cảnh kinh tế phồn vinh của vùng vịnh này.

Cũng chính vì vị trí chiến lược vô cùng quan trọng của Vịnh Đà Nẵng mà năm 1858, tàu Pháp đã vào Vũng Thùng nổ súng tấn công, khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam:

                  

                                  Tai nghe súng nổ cái đùng

                             Tàu Tây đã tới Vũng Thùng bậu ơi

 

                  

                  

 Hai Van (2)

                   (nguồn Internet)

           

Hai câu kết :

 

                   “ Thử thân na đắc sinh hoàn hạnh ,

                      Cảm vọng Ban Siêu đáo Tửu Tuyền .”

 

Nói lên tinh thần sẵn sàng xả thân vì nước, không quản ngại về sự an nguy tính mạng của cá nhân nhà vua. Quyết định thân chinh của Lê Thánh Tông là một hành động vô cùng dũng cảm, là minh chứng hùng hồn cho tinh thần hy sinh đó, vì trong lịch sử nước nhà, đã từng có những vị vua anh dũng hy sinh ngoài trận địa như vua Trần Duệ Tông khi tiến quân vào thành Trà Bàn năm 1377.

Để khẳng định quyết tâm bình Chiêm, trừ bạo vì sự bình yên của bá tánh, vua đã ví mình với Ban Siêu, một vị tướng tài ba thời nhà Hán của Trung Quốc. Ban Siêu đã hiến dâng cả tuổi trẻ của mình cho chinh chiến, ông sống ở Tây Vực 31 năm, chinh phục hơn 50 nước Hung Nô, đến khi trở về thì tuổi đã già, tóc đã bạc “ Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về” (Chinh Phụ Ngâm )

Do sự so sánh này mà phần nguyên chú trong Thiên Nam dư hạ ghi là: “Nghi là sai, thực không phải ý của nhà vua.” Có thể vì người bình về hai câu thơ này nghĩ rằng “đời nào một vị vua lại  đi so sánh với một vị tướng nước ngoài, tứ thơ lại quá khiêm tốn, tự cho mình  còn kém cả Ban Siêu, thì đó không phải là khẩu khí của Lê Thánh Tông”( Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông - Viện nghiên cứu Hán Nôm ) .

Thực ra, do chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc, các nhà thơ cổ điển nước ta mỗi khi nói đến một vấn đề gì, họ thuờng viện dẫn các sự kiện, nhân vật trong sử sách Trung Quốc để làm tăng thêm sức thuyết phục, ví dụ như Trương Hán Siêu ca ngợi chiến công của Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng đã viết :

 

                  “ Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay ,

                   Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi .”

                                      ( Bạch Đằng Giang Phú -Bùi Văn Nguyên dịch )

         

hoặc Nguyễn Khuyến trong bài Thu vịnh cũng nói :

 

                    “ Nhân hứng cũng vừa toan cất bút ,

                      Nghĩ ra lại thẹn vớI ông Đào”

 

Lê Thánh Tông là một vị vua uyên thâm Hán học, nên khi tâm hồn dạt dào cảm xúc, tứ thơ hứng khởi, ông cũng ví mình với Ban Siêu và tỏ ý khiêm nhường trước cổ nhân thì cũng là lẽ thường tình, thiết nghĩ chẳng có gì là không hợp.

 

Qua cửa biển Hải Vân, nhà vua đã  lưu  lại bài thơ vịnh cảnh Đồng Long Loan (vịnh Đà Nẵng ) hùng vĩ, thơ mộng, thể hiện lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước thiết tha của nhà vua .

Cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông đã mang về cho tổ quốc một vùng đất đai rộng lớn, phì nhiêu, góp phần đưa đất nước trở thành một quốc gia cường thịnh và đóng góp vào kho tàng văn học nhiều bài thơ có giá trị, trong đó đáng chú ý là phong cách ghi nhật kí bằng thơ của nhà vua .

 

Lê Thánh Tông  không chỉ là một vị vua anh minh, một nhà chính trị, văn hoá lỗi lạc mà còn là một nhà thơ lớn của nước ta nửa sau thế kỷ XV .

        

 

 

                                                                   CHÂU YẾN LOAN

                                                         

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/12/2020(Xem: 3478)
Ai cũng tin rằng tương lai sẽ như vầy, như vầy, đúng như hôm qua và hôm nay đã trù liệu, hoạch định và tiến hành; bởi vì cái nhân gieo xuống với sự trợ duyên của các yếu tố phụ thuộc chung quanh, một cách khoa học và kinh nghiệm, cùng với thời gian vừa đủ để một tiến trình được khai mở, phát triển, chắc hẳn có nhiều phần mang lại kết quả tương xứng, hoặc bội phần, hoặc bội bội phần. Tuy vậy, kinh nghiệm, với những kết quả thực tế của một số sự việc, công trình, cũng cho thấy rằng, không phải lúc nào quả phải theo nhân. Bài học vỡ lòng của nhân-quả dạy chúng ta rằng các yếu tố ngoại tại có khi cũng rất quan trọng để dẫn đến kết quả như ý hay bất xứng ý. Tất nhiên khi nông gia cấy lúa xuống ruộng, đã theo kinh nghiệm lâu năm của cha-ông và nghề nghiệp: biết chọn giống tốt, biết lúc nào gieo mạ, cấy mạ, đưa nước vào ruộng, xả nước khỏi ruộng, xịt thuốc trừ sâu, v.v… Nhưng cũng nông vụ nầy, năm ngoái trúng mùa, năm nay bão giông lũ lụt lại thêm các đập thủy điện xả nước, lúa sẽ bị
10/12/2020(Xem: 5873)
Dạo này đang mùa bầu cử Tổng Thống tại xứ Cờ Hoa, có nhiều tuồng diễn rất ư là ngoạn mục, lấy mất của tôi rất nhiều thời gian. Tôi không còn thì giờ để à ơi mưa nắng với một số các bạn xưa. Muốn nói chuyện cũng phải cân nhắc, lựa lời dò la xem đối phương thuộc về bên nào, có cùng chung một chiến tuyến với mình không? Nhỡ cùng một lũ cuồng hết có mà vỡ nợ! Chẳng những thế tôi còn phải xem sắc mặt của từng ông Chủ Bút của từng tờ báo, giấy cũng như điện tử mà lựa bài để gửi. Gửi sai, chẳng những bài bị vất vào sọt rác mà tình văn nghệ cũng sứt mẻ dài lâu. Tại sao lại ra cớ sự như vậy? Trong lịch sử bầu bán chưa bao giờ có hiện tượng kỳ lạ đến như thế. Đây không phải là trận chiến giữa hai đối thủ, giữa hai đảng phái cùng yêu nước, mà là hai phe từ lúc con người mới khai thiên lập địa đến nay, đã có sẵn trong bầu máu nóng những hạt giống của tham lam, sân hận, si tình đủ kiểu. Đã ẩn hiện trong từng một con người với hai mặt tốt và xấu, chánh và tà, như ngày với đêm, như thiên thần
04/12/2020(Xem: 12753)
Lớn lao thay Bài Ca Chứng Đạo! Ngài Huyền Giác đã nói lên được những gì ngài thật tu thật chứng trong bài ca này. Nói là bài ca là vì mỗi lời mỗi chữ đều là Trí Tuệ Bát Nhã xuất phát từ Chân Tâm của ngài, nên thông suốt vô ngại và an vui tự tại. Vui trong cảnh giải thoát, vui trong cảnh Niết Bàn, hân hoan mà thốt lên những lời này, không biết gọi nó là gì, nên tạm gọi nó là Bài Ca Chứng Đạo vậy! Ngài Huyền Giác đã bài trừ tất cả sự chấp có, không, cũng có cũng không, không có không không (tứ cú), để nêu ra cái Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Người giác ngộ được Bản Thể Chân Tâm này là người “tuyệt học, vô vi, an nhàn vô sự”. Xưa nay nó vốn không một vật mà lại thường đầy đủ muôn pháp không thiếu sót. Khi chưa giác ngộ thì thấy biết bằng vọng thức nên mới có muôn ngàn sai biệt. Khi giác ngộ được Bản Tâm thì thấy biết bằng trí tuệ Bát Nhã nên tất cả là Bất Nhị, Như Thị, và Không.
02/12/2020(Xem: 9776)
Làm thinh không phải mình sai Làm thinh là để tương lai cuộc đời Làm thinh không phải dại khờ Làm thinh là để lu mờ thị phi Làm thinh không phải khinh khi Làm thinh là để biết đi biết về Làm thinh không phải u mê Làm thinh là để nghĩ về đường tu Làm thinh không phải gật gù Làm thinh là để Văn Thù hiện ra Làm thinh không phải thứ tha Làm thinh là để biết ta làm gì Làm thinh không phải nhu mì Làm thinh là để mỗi khi thực hành Làm thinh không phải tranh giành Làm thinh là để trung thành hạnh tu
02/12/2020(Xem: 11011)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ QUÊ HƯƠNG MÙA BÃO LŨ (thơ Mặc Phương Tử), trang 11 ¨ QUẢ BÁO VỀ VIỆC GÂY TẠO CHIẾN TRANH (Quảng Tánh), trang 12 ¨ CÁI THIỆN VÀ HẠNH PHÚC (Quảng Tánh), trang 13 ¨ CHỈ LÀ LỜI HỎI THĂM (thơ Thy An), trang 15 ¨ KHỔ THÁNH ĐẾ (Chân Hiền Tâm), trang 16 ¨ SAU LỤT LÀM BÀI THƠ VỀ CỎ (thơ Lê Vĩnh Tài), trang 20 ¨ ĐẠO ĐỨC VƯỢT KHỎI TÔN GIÁO (Tuệ Uyển dịch), trang 21 ¨ MÙA LŨ (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 25 ¨ LÀM THẾ NÀO ĐOẠN TRỪ CÁC LẬU HOẶC? (TN Hằng Như), trang 27 ¨ AI ƠI, MAU DỪNG LẠI (thơ Huệ Trân), trang 32 ¨ CHÙA LINH QUANG VÀ CHÙA TỪ ĐÀM Ở TRUNG VIỆT, VNPG Sử Luận, Chương 33 (Nguyễn Lang), trang 33 ¨ LOAY HOAY GIỮA CON ĐƯỜNG (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 36 ¨ CHẤP THỦ LÀ ĐÁNG SỢ (Lâm Thanh Huyền), trang 37 ¨ TRUYỀN THỐNG GĐPT
01/12/2020(Xem: 9613)
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, lục bát Việt Nam đã tạo nên một bước đi tân kỳ, một bước nhảy ngoạn mục, rung lên những tiếng thơ tự tình giữa trường mộng nhân sinh, nỗi ngậm ngùi nhân thế với niềm xao xuyến, bồi hồi. Rồi tiếp nối trên những bước đi song hành cùng lục bát, rạt rào bao sóng vỗ ngân nga, hòa âm thâm thiết với những tâm hồn quá đỗi tiêu sái như Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Dzếnh, Phạm Thiên Thư, Huy Cận, Trần Xuân Kiêm, Huy Tưởng, Vũ Hoàng Chương… Đặc biệt Huy Tưởng, riêng một cõi trời thơ Mười Phương Tố Vọng phiêu diêu giữa Phương Chiều: Trũng hai mắt vọng bia đời Cổng tồn sinh mở mù khơi nắng tà Lòng tay nát mộng châu sa Phương chiều bãi quạnh mưa qua bến mình Nghiêng tầm con mắt soi kinh Vẳng nghe tâm lặng hồn chênh chếch về Phôi thu rụng lá mây đè Phiền ban sơ dậy đất se sắt lòng Im nghe thác máu loạn dòng Trôi phiêu lạc giữa vô cùng mộ Không
23/11/2020(Xem: 6730)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
11/11/2020(Xem: 6544)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
11/11/2020(Xem: 9503)
Trong quyển Yếu giải kinh A Di Đà lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam cũng như trên thế giới được in cả nguyên tác bằng chử Hán của Đại sư Linh Phong Ngẩu Ích cùng bản dịch Anh ngữ của Tiến sỉ J.C. Cleary và phần dịch sang Việt ngữ có chú giải của chính mình, học giả Lý Việt Dũng đã… “tự bạch” về “tiểu sử dài lòng thòng đáng chán của Song Hào Lý Việt Dũng”. Trong đó ông thẳng thắng nhận rằng: “Về quan điểm cuộc sống, tôi là người lạc quan tếu… Tôi cũng chay mặn tùy duyên, không bó thân trong những giới luật xa rời cuộc sống, chẳng có bổn sư vì chẳng quy y ai, chẳng có giới xơ cứng để giữ, sống đa cảm tự tại, có hơi “quậy” một chút!”.
25/10/2020(Xem: 2633)
Nước. Nước từ đâu cứ dâng lên; lên rồi rút, rút rồi lại lên, ngập tràn đồng ruộng, ao hồ, vườn tược, làng quê, và phố thị của nhiều tỉnh thành miền Trung. Cuồng phong bão tố từ đại dương cuộn xoáy vào đất liền, kéo theo những cơn mưa xối xả ngày đêm. Nước lũ ngầu đục từ non cao đổ về, từ các đập thủy điện xả xuống, đẩy những dòng cuồng lưu ồ ạt đi về nơi trũng thấp, theo những nhánh sông hướng ra biển, chựng lại khi gặp mực biển dâng cao với cường triều gầm thét, sông nối biển biến vùng duyên hải thành một biển nước mênh mông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]