Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hải Vân Hải Môn Lữ Thứ

24/07/201709:03(Xem: 5110)
Hải Vân Hải Môn Lữ Thứ

Hai Van (1)

HẢI VÂN HẢI MÔN LỮ THỨ
CHÂU YẾN LOAN

 

 

Hải Vân hải môn lữ thứ là bài thơ của vua Lê Thánh Tông được sáng tác trong chiến dịch Bình Chiêm vĩ đại năm 1470 khi nhà vua kéo quân ngang qua vịnh Đà Nẵng.

Lê Thánh Tông (1442 -1497 ) tên thật là Tư Thành, lên ngôi vua năm 1460, mười năm đầu lấy niên hiệu là Quang Thuận, sau đổi niên hiệu là Hồng Đức. Ba mươi tám năm trị vì, với trí tuệ sáng suốt và đức độ của mình ông đã đóng góp to lớn vào công cuộc phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực : chính trị, quân sự, kinh tế ,giáo dục, văn học, nghệ thuật v.v..và dựng lên một vương triều thịnh vượng nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.

 

Thời nhà Hồ, biên giới Đại Việt đã vào tới Chiêm Động và Cổ Luỹ Động (phía bắc tỉnh Quảng Ngãi ), nhà Hồ chia hai động này thành bốn châu : Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa đặt An phủ sứ và Phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị . Khi quân Minh sang đánh nước ta, họ Hồ thua chạy, Chiêm Thành đem quân  chiếm lại Chiêm Động và Cổ Luỹ rồi đánh Hoá Châu. Từ thời Lê Nhân Tông, năm Thái Hoà thứ II (1444 ) cho đến thời Lê Thánh Tông , năm Hồng Đức thứ I (1470 ) quân Chiêm đã 4 lần đánh phá Hoá châu. Năm 1469, vua Chiêm là Bàn La Trà Toàn dấy binh, rồi tháng 8 năm sau (1470 ) lại đem 10 vạn quân và một đoàn kỵ binh tấn công lần nữa. Thủ ngữ Kinh lược sứ Thuận Hoá là Phạm văn Hiển không chống nổi, phải rút vào thành cố thủ và phi báo về triều đình. Trước tình hình đó, vua Lê Thánh Tông phải xuống chiếu thân chinh.

Ngày 6 tháng 11 năm Canh Dần (1470 ) bắt đầu xuất quân. Vua sai Chinh lỗ tướng quân Thái sư Lân Quận Công  Đinh Liệt, Chinh lỗ phó tướng quân Thái bảo Kỳ Quận Công Lê Niệm đem 10 vạn thủy quân đi trước, ngày Canh Dần 16 tháng 11 vua đốc suất 15 vạn thủy quân đi tiếp theo.

Trên đường Nam chinh từ cửa biển Thần Phù ( tỉnh Thanh Hoá ) tới cửa Thị Nại ( tỉnh Bình Định ) nhà vua đã đi qua 39 cửa bể :

 

                      “Thử khứ hải  môn tam thập cửu

                      Kế trình hà nhật đáo Ô Châu ?”

                                     (  Thần Phù hải môn lữ thứ )

                   Chuyến đi này vượt qua ba mươi chín cửa biển ,

                     Tính đoạn đường, biết ngày nào mới tới Ô Châu ?

                                                  ( Ngô Linh Ngọc dịch )

 

Vốn là một vị vua nổi tiếng về tài thơ văn, nên những cảnh  thiên nhiên hùng  vĩ của tổ quốc đã trở thành nguồn cảm hứng thơ ca của ông, đến đâu ông cũng ghi lại những cảm xúc của mình trong những bài thơ. Ngoài 30 bài

trong Chinh Tây kỷ hành thi tập miêu tả phong cảnh đất nước dọc đường hành quân, trong Minh Lương Cẩm tú thi tập còn có 14 bài vịnh các cửa biển gọi là Ngự chế các hải môn thi (thơ về các cửa biển của nhà vua ): 1) Thần Phù hải môn lữ thứ, 2) Giáp hải môn lữ thứ, 3) Du hải môn lữ thứ, 4) Càn hải môn lữ thứ, 5) Đan Nhai hải môn lữ thứ, 6) Nam Giới hải môn lữ thứ, 7) Kỳ La hải môn lữ thứ, 8) Hà Hoa hải môn lữ thứ, 9) Xích Lỗ hải môn lữ thứ, 10) Di Luân hải môn lữ thứ, 11) Bố Chính hải môn lữ thứ, 12) Nhật Lệ hải môn lữ thứ, 13) Tư Dung hải môn lữ thứ và khi thuyền rồng qua cửa biển Hải Vân - cửa biển nằm ở phái bắc thành phố Đà Nẵng, giáp ranh với tỉnh Thừa Thiên Huế - vua Lê Thánh Tông đã sáng tác bài thơ :

 

                                              海雲海門旅次

 

混一車書共幅員

海雲橫界越南天

三更夜靜銅龍月

五鼓風清路鶴船

夷落奉參期款塞

閫臣愛國巧籌邊

此身那得生還幸

敢望班超到酒泉

 

                                Hải Vân hải môn lữ thứ 

                             Hỗn nhất thư xa cộng bức quyên
                            Hải Vân hoành giới Việt Nam thiên

                             Tam canh dạ tĩnh Đồng Long nguyệt

                             Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền

                             Di lạc phụng thâm kỳ khoản tái

                             Khổn thần ái quốc xảo trù biên
                             Thử thân na đắc sinh hoàn hạnh

                             Cảm vọng Ban Siêu đáo Tửu Tuyền .

 

Qua cửa biển Hải Vân

 

Giang sơn trọn bức dư đồ

Hải Vân giang rộng mở cờ vượt Nam

Đồng Long vằng vặc trăng nằm

Con thuyền Lộ Hạc canh năm dập dềnh

Người Di hẹn đất dâng lên

Khổ thân viên tướng giữ nền biên cương

Sá chi sống chết sa trường,

Ban Siêu chín suối thẹn nhường được sao?

                                                (Nguyễn Thiếu Dũng dịch)

                                     

Ngày mồng 2 tháng giêng năm Tân Mão (1471) vua vào tới Thuận Hóa cho quân ra biển tập thủy chiến rồi sai thổ tù ở Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ bản đồ của Chiêm Thành dâng lên cho vua.

Sách Thiên Nam Dư Hạ Tập chép rằng : Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, đóng quân ở Hải Vân Quan, đêm khuya không ngủ, vừa đứng ngắm núi biển, đèo, mây, nước, có câu thơ:

 

Tam canh dạ tĩnh Đồng Long Nguyệt

Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền

 

Vua thân đem đại quân đánh phá thành Thị Nại, vây thành Trà Bàn

Ngày 1 tháng 3 năm Tân Mão (1471), hạ thành Trà Bàn, bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn đưa về nước cùng 30.000 quân sĩ và 50 người trong hoàng tộc bị bắt làm tù binh.

Ngày mồng 1 tháng 5 năm Tân Mão (1471), làm lễ mừng thắng trận.

Công cuộc bình Chiêm thắng lợi, vua đổi Thăng Châu , Hoa Châu thành ba  huyện Lê Giang, Hy Giang và Hà Đông thuộc phủ Thăng Hoa; Tư Châu, Nghĩa Châu thành ba huyện Bình Sơn, Nghĩa Giang và Mộ Hoa, thuộc phủ Tư Nghĩa. Chia đất cũ của Chiêm Thành là Đồ Bàn thành ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhơn, đặt ba phủ rồi đưa tù nhân ba loại bị tội đồ tới đây để “cấy người ở biên giới” (thực biên )

Với chiến thắng này, nhà vua không những  thực hiện được ý định khôi phục bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chấm dứt nạn binh đao, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân, mà còn mở rộng biên cương đến miền Vijaya, tức là phủ Hoài Nhơn (ngày nay là Bình Định ).

 

Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn lập thành đạo thứ mười ba là Quảng Nam Thừa tuyên đạo, sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, đúng như mục đích xuất chinh mà nhà vua đã nói trong câu thơ mở đầu:

 

                              “ Hỗn nhất thư xa cộng bức quyên” 

Danh xưng Quảng Nam ra đời từ lúc ấy.

                               

                            “ Hải Vân hoành giới Việt Nam thiên

Câu thơ nêu bật vị trí hiểm yếu, quan trọng của núi Hải Vân đối với lãnh thổ Đại Việt.

Hải Vân là một quần thể núi non hùng vĩ ở cuối Trường Sơn Bắc, đâm ra tới biển Đông, ngọn núi chính là Hải Vân Sơn cao 1192m còn có tên là Cao An Lĩnh hợp với các ngọn núi Đại Tu Nông, Tiểu Tu Nông, núi Tía, núi Kiền Kiền về phía tây từ biên giới Lào chạy tới. Hải Vân Sơn cùng với Bà Sơn và Hải Sơn là ba ngọn núi cao nhất liên tiếp xen nhau, đỉnh núi cao thấu từng mây, chân núi chạy thẳng ra bờ biển, dọc theo các sườn núi thuộc quần thể Hải Vân còn có những khe với những tảng đá muôn hình vạn trạng rải dài tận biển như khe Kỹ, khe Vu, khe Hổ Lang, khe Bé, khe Lớn. Phía Bắc chân núi có hang Dơi khoét sâu vào, nơi đây thường có sóng to gió lớn nhấn chìm ghe thuyền khiến người qua đó phải ngại bước chùn chân:

 

                                        “Đi bộ thì khiếp Hải Vân,

                             Đi biển thì sợ sóng thần hang Dơi”

 

Từ xưa, Hải Vân đã được chú ý vì nó chiếm giữ một vị trí chiến lược quan trọng :  là phên giậu phía nam của nước Đại Việt. Hải Vân đã từng là địa đầu chiến tuyến giữa hai lực lượng Việt – Chiêm trong chiến dịch Bình Chiêm của Lê Thánh Tông năm 1470-1471. Phía Bắc Hải Vân, nhà vua đặt hành điện tại cửa Tư Dung (nay là cửa Tư Hiền) để cho thủy quân diễn tập chuẩn bị vào trận còn phía Nam Hải Vân thì tướng Bồng Nga Sa của Chiêm Thành đang trấn giữ Cu Đê.

Hải Vân núi cao, vực thẳm đường đi hiểm trở gian nguy thường được ví như đường vào đất Thục:

 

Ải lĩnh xuân vân-                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                

Việt Nam xung yếu thử sơn điên

Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên

Đản kiến vân hoành tam tuấn lĩnh,

Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên…

(Nguyễn Phúc Chu)

 

Mây xuân đỉnh Ải

 

Việt Nam hiểm yếu Hải Vân sơn

Thăm thẳm đường lên Thục đạo nan

Chỉ thấy mây vờn ba đỉnh núi

Đâu biết người đâu lẫn mấy tầng

 (Nguyễn Thiếu Dũng dịch)

 

Chân núi Hải Vân sát với biển xanh, ngọn núi lẫn trong mây trắng, núi chia đôi đường Nam Bắc làm thành tấm bình phong thiên nhiên cao ngất, chắn ngang con đường thiên lý, là ranh giới giữa hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam, lần đầu tiên vua Lê Thánh Tông đặt cửa quan Hải Vân để kiểm soát những người ra vào :

 

                        “ Hải Vân hoành giới việt nam thiên

 

Câu thơ mạnh mẽ, hùng tráng nói lên cái thế vững chãi của quần thể núi Hải Vân rạch ngang trời Nam như một bức trường thành kiên cố.

Chữ Việt Nam trong câu thơ này chưa phải là tên nước, tên chính thức lúc bấy giờ là Đại Việt, nhưng hai từ Việt và Nam đi liền nhau bắt đầu từ đây có thể là báo hiệu cho việc lấy tên nước về sau.       

 

Từ cửa biển Hải Vân nhìn  vũng Đồng Long bờ bến mênh mông, đêm khuya thanh vắng, ánh trăng vằng vặc giữa trời, thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng đã khơi nguồn thi hứng cho nhà vua vẽ nên một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp

 

                   “ Tam canh dạ tĩnh Đồng Long nguyệt

                      Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền”

 

Vũng Đồng Long còn gọi là vũng Thùng, tức là Vũng Sơn Trà. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí (q.VII- tỉnh Quảng Nam) chép:

 

Vũng Sơn Trà (tức vũng Thùng) ở phía bắc huyện Hòa Vang, lại có tên là vũng Đà Nẵng. Phía đông là núi Trà Sơn (Sơn Trà), phía bắc là núi Hải Vân, phía tây là tấn Cu Đê, dài rộng ước 25 dặm linh (có lẻ), phía đông nam là vũng Trà Sơn (tức vịnh Hàn) là vùng biển lớn, vừa rộng vừa sâu, có thể chứa được hàng ngàn thuyền ghe, phía ngoài có núi che, không phải lo về sóng gió; tàu thuyền đi lại gặp lúc chưa tiện gió, phần nhiều đổ tại đây

 

 Hai Van (1)

  (nguồn Internet)

 

Vịnh Đà Nẵng có hình cánh cung, được bao bọc bởi hai dãy núi Hải Vân và Sơn Trà nên rất kín gió, tàu bè neo đậu an toàn.

 

“Lộ Hạc “là tên nước, (Locac là bán đảo Mã Lai  ngày nay) thuyền của họ thường lui tới buôn bán ở đây. Câu thơ cho biết ít nhất thì từ thời Hậu Lê   (thế kỷ XV ), đã có thuyền nước ngoài đến buôn bán ở vịnh Đà Nẵng .

Sông Cổ Cò nối cửa Hàn Đà Nẵng và cửa Đại Chiêm ở Hội An, thuyền buôn các nước từ bắc xuống, qua cửa Hàn, theo sông Cổ Cò qua Ngũ Hành Sơn vào vụng Trà Quế tới Hội An buôn bán; từ phía nam lên, theo sông Trường Giang vào vụng Trà Nhiêu mà tới Hội An.

Trước thế kỷ XV, Hội An đã là nơi tập trung và phân phối hàng hóa của vương quốc Champa với các nước trong khu vực.

Như vậy nhìn về vịnh Đồng Long, vua Lê Thánh Tông không chỉ thấy một phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ thơ mộng mà nhà vua còn thấy được viễn cảnh kinh tế phồn vinh của vùng vịnh này.

Cũng chính vì vị trí chiến lược vô cùng quan trọng của Vịnh Đà Nẵng mà năm 1858, tàu Pháp đã vào Vũng Thùng nổ súng tấn công, khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam:

                  

                                  Tai nghe súng nổ cái đùng

                             Tàu Tây đã tới Vũng Thùng bậu ơi

 

                  

                  

 Hai Van (2)

                   (nguồn Internet)

           

Hai câu kết :

 

                   “ Thử thân na đắc sinh hoàn hạnh ,

                      Cảm vọng Ban Siêu đáo Tửu Tuyền .”

 

Nói lên tinh thần sẵn sàng xả thân vì nước, không quản ngại về sự an nguy tính mạng của cá nhân nhà vua. Quyết định thân chinh của Lê Thánh Tông là một hành động vô cùng dũng cảm, là minh chứng hùng hồn cho tinh thần hy sinh đó, vì trong lịch sử nước nhà, đã từng có những vị vua anh dũng hy sinh ngoài trận địa như vua Trần Duệ Tông khi tiến quân vào thành Trà Bàn năm 1377.

Để khẳng định quyết tâm bình Chiêm, trừ bạo vì sự bình yên của bá tánh, vua đã ví mình với Ban Siêu, một vị tướng tài ba thời nhà Hán của Trung Quốc. Ban Siêu đã hiến dâng cả tuổi trẻ của mình cho chinh chiến, ông sống ở Tây Vực 31 năm, chinh phục hơn 50 nước Hung Nô, đến khi trở về thì tuổi đã già, tóc đã bạc “ Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về” (Chinh Phụ Ngâm )

Do sự so sánh này mà phần nguyên chú trong Thiên Nam dư hạ ghi là: “Nghi là sai, thực không phải ý của nhà vua.” Có thể vì người bình về hai câu thơ này nghĩ rằng “đời nào một vị vua lại  đi so sánh với một vị tướng nước ngoài, tứ thơ lại quá khiêm tốn, tự cho mình  còn kém cả Ban Siêu, thì đó không phải là khẩu khí của Lê Thánh Tông”( Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông - Viện nghiên cứu Hán Nôm ) .

Thực ra, do chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc, các nhà thơ cổ điển nước ta mỗi khi nói đến một vấn đề gì, họ thuờng viện dẫn các sự kiện, nhân vật trong sử sách Trung Quốc để làm tăng thêm sức thuyết phục, ví dụ như Trương Hán Siêu ca ngợi chiến công của Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng đã viết :

 

                  “ Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay ,

                   Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi .”

                                      ( Bạch Đằng Giang Phú -Bùi Văn Nguyên dịch )

         

hoặc Nguyễn Khuyến trong bài Thu vịnh cũng nói :

 

                    “ Nhân hứng cũng vừa toan cất bút ,

                      Nghĩ ra lại thẹn vớI ông Đào”

 

Lê Thánh Tông là một vị vua uyên thâm Hán học, nên khi tâm hồn dạt dào cảm xúc, tứ thơ hứng khởi, ông cũng ví mình với Ban Siêu và tỏ ý khiêm nhường trước cổ nhân thì cũng là lẽ thường tình, thiết nghĩ chẳng có gì là không hợp.

 

Qua cửa biển Hải Vân, nhà vua đã  lưu  lại bài thơ vịnh cảnh Đồng Long Loan (vịnh Đà Nẵng ) hùng vĩ, thơ mộng, thể hiện lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước thiết tha của nhà vua .

Cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông đã mang về cho tổ quốc một vùng đất đai rộng lớn, phì nhiêu, góp phần đưa đất nước trở thành một quốc gia cường thịnh và đóng góp vào kho tàng văn học nhiều bài thơ có giá trị, trong đó đáng chú ý là phong cách ghi nhật kí bằng thơ của nhà vua .

 

Lê Thánh Tông  không chỉ là một vị vua anh minh, một nhà chính trị, văn hoá lỗi lạc mà còn là một nhà thơ lớn của nước ta nửa sau thế kỷ XV .

        

 

 

                                                                   CHÂU YẾN LOAN

                                                         

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2020(Xem: 3792)
Thế gian này hiện hữu trong mối tương quan tương duyên. “Cái này có nên cái kia có. Cái này không nên cái kia không.” Cõi này vì vậy có thiện mà cũng có ác, có tốt mà cũng có xấu. Biên tế giữa thiện và ác, tốt và xấu chỉ nằm trong đường tơ kẽ tóc của ý niệm, hay nói theo nhà Phật là một mống tâm. Cùng một hành động, một việc làm, một sự việc nhưng khác nhau xa lắc xa lơ ở tâm thiện hay tâm ác. Không cần phải suy nghĩ và tìm kiếm đâu xa, chỉ nhìn vào cuộc khủng hoảng đại dịch vi khuẩn corona đã và đang xảy ra trên toàn cầu thì cũng thấy rõ được điều đó. Đảng và nhà nước Cộng Sản Trung Quốc vì cái tâm âm mưu thao túng để làm bá chủ toàn cầu đã bất chấp đến sự nguy hại khôn lường của vi khuẩn corona phát xuất từ Vũ Hán nên giấu nhẹm lúc ban đầu. Sau khi để cho vi khuẩn này truyền nhiễm khắp thế giới rồi cũng vì cái tâm mưu đồ mà ra tay ban phát ân huệ cho những nước bị đại dịch bằng những viện trợ lấy có. Hành động sau này được TQ khoa trương như thể họ vì lòng vị tha mà ra tay cứu
27/05/2020(Xem: 5366)
Hoa Lan vốn là loài hoa đẹp vừa kiêu sa thanh thoát, tuổi thọ cao (thường trụ trong chậu những sáu tháng), hương thơm nhẹ nhàng được bao người trân quí dùng làm quà tặng nhau hay chưng tại các đại sảnh, trang thờ, phòng khách... Nhưng Hoa Lan ở đây, tôi muốn viết về là bút hiệu của cô bạn văn tên thật là Lan Hương ( hương của hoa lan), cái tên đúng là có sự an bài của định mệnh.
26/05/2020(Xem: 9531)
Đàn chim bay ngang phố. Xao xác tiếng cánh vỗ. Con quạ già trên nhánh cây hè phố ngước nhìn một lúc, rồi im lặng sà xuống đất, nhảy lò cò vài bước với một chân bị què, tiếp tục kiếm ăn. Phố im lạ thường. Những con đường vắng xe đã vơi mùi khói xăng từ những ngày trước. Lan tỏa đâu đây hương bạch đàn hòa lẫn với mùi nước cống vẫn ngày đêm chảy ngầm dưới lòng đất. Thỉnh thoảng có tiếng còi hụ của xe cứu thương băng ngang góc phố xa. Khách bộ hành mang khẩu trang chỉ chừa lại hai mắt ngầu đục sau gọng kiếng râm, không sao nhìn ra được vẻ đẹp tráng lệ của một bình minh tràn ngập nắng tàn xuân. Gió mai lành lạnh trong công viên thành phố. Ông già ngồi phơi nắng trên chiếc ghế gấp mang theo từ nhà. Hai vợ chồng trẻ khoác áo gió dắt chó đi bộ quanh bãi cỏ xanh. Một cơn gió mạnh thổi qua làm cho những hàng cây rùng mình buông lá úa. Giờ không phải mùa thu, cũng chưa vào hạ, mà lá vàng vẫn rơi lác đác, trông như những cánh bướm cải nhởn nhơ trong gió. Nhưng không, chỉ trong thoáng chốc, n
23/05/2020(Xem: 4132)
Trong buổi họp online sáng thú sáu 22/5/2020 vừa qua nhóm bạn Tây Phương của tôi trong Community tôi đã làm việc nhiều năm , các bạn ấy đã nhắc đến một điều mà có lẽ những ai bước vào thập niên thất thập cổ lai hy phải thầm tư duy và tôi không ngoại lệ..... Đó là điều trước đây báo chí Úc đã từng báo động “Australia is in the midst of a loneliness crisis, with many in our population experiencing a deficit of social connection.” . Kính xin phép được tạm dịch : Nước Úc đang ở vào giữa thời điểm của sự khủng hoảng về đơn chiếc lẽ loi cô độc mà phần lớn trong chúng ta nhận ra được một kinh nghiệm đó là do thiếu một sự liên hệ nối kết với xã hội , cộng đồng ... Nay từ khi cách giản xã hội do dịch Covid19 hoành hành , điều này lại càng phát triển mạnh hơn trong giới cao niên và có thể lấn vào địa hạt của thanh thiếu niên vừa mới tốt nghiệp trung học ...
21/05/2020(Xem: 4461)
Mùi hương từ hoa thơm cỏ nội, thông thường sẽ theo hướng gió mà bay đi, tuy nhiên cũng có một mùi hương đặc biệt, rất đặc biệt lan tỏa khắp nơi không theo chiều gió nào đó là mùi hương của loài hoa mang tên đức hạnh. Vâng, ở đây tôi muốn nhắc đến một vị có...mùi hương đó, chính là Ni Trưởng (NT) (bên Tăng gọi là Hòa Thượng): NT Thích Nữ Diệu Phước, trụ trì chùa Linh Thứu tại thủ đô Berlin Đức quốc. Viết về một người đang hiện tiền trên thế gian này, đó là điều Hòa Thượng Thích Như Điển luôn khích lệ. Hòa Thượng quan niệm, đợi họ chết xong mới đua nhau, xúm nhau ca tụng, người chết đâu nghe được.
21/05/2020(Xem: 2994)
Bà Mai đưa mắt ngắm cô dâu, chú rể. Cô dâu ba mươi sáu tuổi, chú rể hai mươi bảy tuổi. Trông cũng xứng ấy chứ, nhất là đối với người con gái Việt đứng bên cạnh một chàng trai Thuỵ Sĩ. Đã vậy, Trang, tên của cô dâu, vốn dĩ xuất thân từ một gia đình khá giả. Thân phụ nàng từng giữ chức vụ cao trong chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Mẹ có một cửa hàng buôn. Trong đời sống ăn sung mặc sướng không lo nghĩ tiền bạc mặc dù sau năm 75 gia đình có sa sút, Trang vẫn giữ được nét trẻ của ngày nào. Với dáng dấp mảnh mai, Trang đứng bên Heinz cao lớn với bộ râu xồm xoàm, cái mức tuổi chênh lệch dường như không thấy nữa.
14/05/2020(Xem: 11144)
Từ tuổi còn niên thiếu dù chưa trưởng thành nhưng nhờ suốt thời gian trong ngày ngoài việc học tập tôi thường bên cạnh sát thân phụ tôi nên rất hiểu những cay đắng của cuộc đời và mỗi lần khốn khổ hoạn nạn gì thì dường như có một ai đó vươn tay ra vỗ về và an ủi hay ban cho điều mà tôi mong ước . Dù người đó đôi khi là một doanh nhân , một vị giáo sư chỉ biết dạy học nhưng cũng có thể yểm trợ một chút về vật chất và rất nhiều về tinh thần hoặc một người bạn chí thân rồi hình bóng họ lại biến mất khỏi vài năm sau đó dù tôi cố tìm lại để đền đáp ân tình mà mình đã mang trọn trong tim ... nhưng không thể nào có cơ hội .
08/05/2020(Xem: 6279)
Thành phố Melbourne vẫn còn trong thời kỳ hạn chế đi lại và tiếp xúc. Ngày 11/5/2020 sắp tới, Thủ Hiến tiểu bang Victoria sẽ có thông báo mới về lệnh cấm này. Hằng năm, vào giờ này nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước phương Tây ắt hẳn sẽ rất nhộn nhịp và hân hoan mua sắm và tổ chức tiệc tùng để chúc mừng “Ngày Nhớ Ơn Mẹ”… nhưng các trung tâm mua sắm nơi đây vẫn im lìm, buồn bã, hình như ít ai còn tinh thần để mua sắm, ít người qua lại chẳng qua để mua vội những thứ cần thiết cho gia đình. Tuy nhiên, những người con, người cháu nơi đây vẫn âm thầm mua sắm online để tặng Mẹ, tặng Bà,… cho ngày này. Tình thương và lòng nhớ ơn dành cho Mẹ không chỉ là một ngày, hai ngày mà có lẽ cả cuộc đời này cũng không thể trả hết công ơn sinh thành dưỡng dục. Thời gian phong toả này đã cản ngăn những chuyến bay về thăm Ba Mẹ, thăm gia đình và cái ngày trở về sao mà xa vời vợi…QT xin chia sẻ câu chuyện của John P. Buentello như những tâm tình của mình dành tặng Mạ QT và kính tặng các người Mẹ
01/05/2020(Xem: 12437)
Ngày 25 tháng 10 âm lịch năm 1967, Ngài ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Củu Tiên, dãy Quế Lạc, Công xá Thượng Đông, Huyện Đức Hóa, Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát QUÁN-THẾ-ÂM tiếp dẫn đi khiến mất cả tông tích. Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch năm 1973 (đi từ 25/10 âm lịch 1967) chạy ra đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua. Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói "trên trời 1 ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống nhau, khái niệm thời gian cũng khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.
27/04/2020(Xem: 2972)
Tôi đã tiếp xúc rất nhiều với các cháu những thế hệ thứ hai sanh sau 30/4/1975 và đã sang đây từ khi còn bé , và nếu được sống trong hoàn cảnh cha mẹ cho học lại Việt Ngữ và đôi lần tìm về Việt Nam thăm quê nội , quê ngoại thì trong các cháu vẫn có chút gì ... khi nhắc đến Việt Nam , còn ngoài ra rất nhiều cháu sống trong những gia đình mà cha mẹ từng bị đánh tư sản và ra đi trong nỗi kinh hoàng và chưa bao giờ đặt chân về quê hương xứ sở sau 45 năm , thì các cháu đều nói với tôi rằng “Quê hương cháu là nước Úc , Mỹ v.v...và theo cháu nghĩ nơi nào mình sống hơn 1/2 đời người ( 30-40) năm thì nơi đó chính là quê hương mình Cô ạ “.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]