Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi Đọc Kinh Di Đà

18/12/201509:13(Xem: 6270)
Tôi Đọc Kinh Di Đà

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Sīlaguṇa-Mahāthera)

NHẶT LÁ RỪNG XƯA
Tủ sách Huyền Không Sơn Thượng

(Phật lịch 2558 – 2015)

Tôi Đọc Kinh Di Đà

 

Trong xã hội mà đạo đức băng hoại, độc ác, bạo tàn, vô cảm và cuồng tín xảy ra khắp nơi thì một tình thương, một việc lành, một nghĩa cử cao đẹp đều như viên ngọc quý, có ai tu hành dầu theo pháp môn nào cũng đều làm cho con người trở nên tốt hơn. Và quả thật, từ hơn hai nghìn năm trước cho đến nay, Phật giáo đi đến đâu thì mang trí tuệ và từ bi đến đấy, chưa làm tổn thương ai, dù là con sâu, cái kiến. Vậy thì Phật giáo nói chung, các tông phái Phật giáo nói riêng, ai có sứ mạng nấy, tuỳ căn cơ trình độ chúng sanh, tuỳ lịch sử và thời đại, tuỳ quyền biến, phương tiện nên chúng có thể sai khác, dị biệt chút ít, nhưng tựu trung, vẫn có cái chung nhất: “Không làm điều ác, làm các việc lành và giữ tâm trong sạch”.

Như vậy thì trong Phật giáo, ai là người tu hành chơn chánh, dẫu theo pháp môn nào cũng đều được cả. Người căn cơ trí tuệ thì tu Thiền tông, Thiền minh sát. Người căn cơ tinh tấn thì sống với hạnh phục vụ chúng sanh, từ thiện xã hội. Người căn cơ đức tin thì tu niệm ân đức Phật, đức Pháp, đức Tăng, niệm Phật A-di-đà, niệm Quán Thế Âm. Trí tuệ thì “tự lực, tự giác”. Tinh tấn thì “phục vụ để hoàn toàn, hoàn toàn để phục vụ”. Đức tin, ban đầu tuy “nương tựa tha lực” cho đến lúc tự mình lên đường thì lúc ấy cũng “tự lực, tự giác” được vậy.

Kinh A-di-đà hậu tác khoảng 600 sau Phật Niết-bàn, được lấy cảm hứng từ câu chuyện vua Ajātasattu (A-xà-thế) do tham vọng vương quyền, lại còn bị Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) xúi giục nên bắt giam vua cha Bimbisāra vào ngục. Mẹ của Ajātasattu là hoàng hậu Videhi (Vi-đề-hi) bí mật mang thức ăn vào cho chồng, nhưng vài lần bị Ajātasattu phát hiện, ngăn cấm. Cuối cùng đức vua Bimbisāra chết đói trong ngục tối. Hoàng hậu Videhi đau khổ tột cùng, bà chán ngán trần gian, chán ngán và ghê sợ tâm địa độc ác của con bà. Vốn là một cận sự nữ thuần thành, bà hướng tâm đến đức Phật, ngầm hỏi ngài là trên thế gian này, có cảnh giới nào không có những con người hung hiểm, độc ác, mà chỉ thuần là kẻ thiện hiền, sống một đời an lạc, hạnh phúc chăng? Khởi tâm bi mẫn, đức Phật xuất hiện, dùng oai lực thần thông cho bà thái hậu đau khổ thấy sáu cảnh trời Dục giới, nơi các vị chư thiên, do phước báu hoá sanh đang thọ hưởng niềm vui ngũ dục, không có cảnh bạo tàn và ác độc như nhân gian. Đặc biệt, đức Phật giới thiệu cung trời Đẩu Suất, vừa đầy đủ hạnh phúc vật chất vừa đầy đủ hạnh phúc tinh thần, là nơi thường có chư đẳng giác bồ-tát ngụ cư, hằng thuyết pháp cho thiên chúng. Sau đó, thái hậu Videhi hỏi Phật là muốn sanh về cảnh giới hạnh phúc ấy thì phải làm thế nào? Và đức Phật đã cặn kẽ chỉ dạy cách tu tập, là phải đầy đủ năm giới, mười lành, phải đầy đủ tín, giới, văn, thí, tuệ như thế nào. Và cuối đời, thái hậu Videhi cố gắng, chăm chuyên tu tập như lời Phật dạy để mong hoá sanh vào cảnh trời Đẩu Suất.

Theo tinh thần kinh điển Nikāya là vậy. Nhưng theo nguồn gốc văn bản Vô Lượng Thọ kinh (Amitāyurdhyāna Sūtra) về Di Đà hậu tác thì chúng ta thấy rõ sự sai khác:    

“- Đức Phật tiếp tục giảng giải những công hạnh tu tập cần thiết để quy hướng về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Những công hạnh nầy là “Ba nghiệp thanh tịnh,” gồm kính trọng cha mẹ và sư trưởng, giữ giới và tụng đọc kinh điển Đại thừa. Qua năng lực thần thông, đức Phật đã cho Hoàng hậu Vi-đề-hi và những người thân thấy được cảnh giới Tịnh độ của đức Phật A-di-đà và nhờ đó mà bà chứng được vô sanh pháp nhẫn. 

Không lo âu về thọ mạng trong đời sau thì sẽ không có được sự lợi lạc từ lời “khai thị” của đức Phật, Hoàng hậu Vi-đề-hi thưa hỏi về phương pháp tu tập để được vãng sanh. Để trả lời, đức Phật đã dạy cho bà 16 pháp quán, bắt đầu với pháp quán về mặt trời mọc ở cõi Ta-bà nầy, và chuyển sang kích thước vật lý của cõi Tịnh độ (Sukhāvati), như đất đai, cây cối, ao hồ; rồi nói về đức Phật A-di-đà và các vị Bồ-tát trợ thủ như Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí. Ba pháp quán sau cùng đề cập đến các đối tượng của chín phẩm vãng sanh và chi tiết từng phẩm hạng mà mọi người có khả năng đạt được. Lời chỉ dạy của đức Phật về 16 pháp quán tạo thành chủ đề chính trong phần chánh văn của bộ kinh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ kết thúc bằng sự quả quyết rằng Hoàng hậu Vi-đề-hi chắc chắn sẽ được vãng sanh, và khuyến tấn người đọc truyền bá sâu rộng giáo nghĩa kinh văn”.

Còn theo Bách khoa mở thì:

      “- Quán Vô Lượng Thọ kinh Amitāyurdhyāna Sūtra) là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh độ tông. Kinh miêu tả thế giới phương Tây của Phật A-di-đà và dạy cách hành trì: sống thanh tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu Phật A-di-đà, hành giả thoát khỏi các nghiệp bất thiện và được tái sinh nơi Tịnh độ của A-di-đà. Kinh này chỉ rõ quá trình phát sinh giáo pháp của Tịnh độ tông và thật ra đã được đức Phật lịch sử Thích-ca trình bày. Tương truyền rằng, hoàng hậu Vi-đề-hi, mẹ của vua A-xà-thế, bị con mình bắt hạ ngục cùng với chồng là vua Tần-bà-sa-la (sa., pi. bimbisāra). Bà nhất tâm cầu nguyện Phật và khi Phật hiện đến, bà xin tái sinh nơi một cõi yên lành hạnh phúc. Phật dùng thần lực cho bà thấy mọi thế giới tịnh độ, cuối cùng bà chọn cõi Cực lạc của A-di-đà. Phật dạy cho bà phép thiền định để được tái sinh nơi cõi đó. Phép thiền định này gồm 16 phép quán tưởng, và tuỳ theo nghiệp lực của chúng sinh, các phép này có thể giúp tái sinh vào một trong chín cấp bậc của Tịnh độ.

Mười sáu phép quán tưởng đó là: quán mặt trời lặn; quán nước; quán đáy sông; quán cây cối; quán nước cam lộ; quán thế giới thực vật; quán nước và đáy nước; quán toà sen; quán ba báo thân của ba vị thánh A-di-đà, Quán Thế ÂmĐại Thế Chí; quán ba ứng thân của Phật A-di-đà; của Quán Thế Âm; của Đại Thế Chí; quán A-di-đà trong Tịnh độ; quán ba vị thánh trong Tịnh độ; quán cấp thượng căn trong Tịnh độ; quán cấp trung căn và hạ căn trong Tịnh độ. Các phép quán này giúp hành giả có thể thấy được A-di-đà và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí ngay trong đời này và đó là dấu hiệu chắc chắn hành giả sẽ được tái sinh về Tịnh độ.

Đọc mấy đoạn văn trên, độc giả có thể dễ dàng nhận thấy chỗ nào là cận nguyên thuỷ, chỗ nào là của tư tưởng phát triển (Những cụm từ như tụng đọc kinh điển đại thừa, vô sanh pháp nhẫn và 16 phép quán tưởng chưa hề thầy trong hơn 25 bộ phái Tiểu thừa và Đại chúng bộ sau cuộc kêt tập kinh điển lần thứ 3, thời vua Asoka, 216-218 năm sau Phật Niết-bàn).

Thật ra, hầu như một số ngôn ngữ, hình ảnh, biểu tượng của kinh A-di-đà đều được triển khai từ các Nikāya nguyên thuỷ. Ta có thể đối chứng một vài.

1- Cảnh giới Tịnh Độ Di-đà :

“Lại nữa Xá Lợi Phất ! Cõi nước Cực Lạc có bảy tầng lan can, bảy tầng mành lưới, bảy tầng hàng cây, đều do bốn thứ báu bao bọc chung quanh, cho nên cõi đó gọi là Cực Lạc.

 Lại nữa Xá Lợi Phất ! Cõi nước Cực Lạc có ao làm bằng bảy báu, nước có tám thứ công đức, đầy dẫy trong đó, đáy ao dùng cát vàng rải làm đất, bốn bên thềm đường, dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê hợp làm thành, phía trên có lầu các, cũng dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, châu đỏ, mã não  nghiêm sức. Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, hoa màu xanh thì ánh sáng xanh, màu vàng thì ánh sáng vàng, màu đỏ thì ánh sáng đỏ, màu trắng thì ánh sáng trắng, tốt đẹp thơm tho trong sạch. Xá Lợi Phất ! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

 Lại nữa Xá Lợi Phất ! Cõi Phật đó thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời, mưa xuống hoa trời Mạn Đà La. Chúng sinh cõi đó, thường vào buổi sớm, đều lấy túi y đựng đầy hoa đẹp, đem đi cúng dường vạn ức Đức Phật trong mười phương, khi đến bữa ăn bèn trở về nước của mình, ăn cơm xong đi kinh hành. Xá Lợi Phất ! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

 Lại nữa Xá Lợi Phất ! Cõi đó thường có đủ thứ chim lạ đẹp đủ màu như : Chim hạt trắng, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mệnh. Các thứ chim đó, ngày đêm sáu thời, vang ra tiếng hoà nhã. Tiếng đó diễn nói pháp : năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo, các pháp như vậy thảy, chúng sinh trong cõi đó, nghe tiếng đó rồi, đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

 Xá Lợi Phất ! Ông chớ cho rằng những thứ chim đó là do tội báo sinh ra. Vì sao ? Vì cõi Phật đó chẳng có ba đường ác. Xá Lợi Phất ! Cõi Phật đó tên ba đường ác còn không có, hà huống là có thật. Những thứ chim đó đều do Đức Phật A Di Đà, muốn khiến cho pháp âm tuyên lưu mà biến hoá làm ra. Xá Lợi Phất ! Cõi Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu, và các mành lưới báu, vang ra âm thanh vi diệu, ví như trăm ngàn thứ nhạc, đồng thời hoà tấu, người nghe tiếng đó rồi, tự nhiên đều sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá Lợi Phất ! Cõi Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm như thế”.

Và sau đây là cảnh giới của đức Chuyển Luân thánh vương (Đức vua Thiện Kiến) thuộc Nikāya:

“- A-nan, ở chung quanh bên ngoài Câu-thi vương thành, có bảy lớp hào. Hào ấy được xây bằng gạch bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Đáy hào cũng trải cát bằng bốn loại báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh.

“Này A-nan, Câu-thi vương thành có bảy lớp tường thành bao bọc bên ngoài. Những lớp tường thành ấy cũng được xây bằng gạch bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh.

“Này A-nan, Câu-thi vương thành có bảy lớp hàng cây Đa-la bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh bao bọc xung quanh. Cây Đa-la bằng vàng thì hoa, lá và trái bằng bạc. Cây Đa-la bằng bạc thì hoa, lá và trái bằng vàng. Cây Đa-la bằng lưu ly thì hoa, lá và trái bằng thủy tinh. Cây Đa-la bằng thủy tinh thì hoa, lá và trái lại bằng lưu ly.

“Này A-nan, ở giữa những cây Đa-la có đào nhiều hồ sen; hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen đỏ và hồ hoa sen trắng.

“Này A-nan, bờ hồ hoa ấy được đắp bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Ở đáy hồ thì rải cát bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Trong thành hồ ấy có thềm cấp bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh. Thềm cấp bằng vàng thì bậc chân bằng bạc, thềm cấp bằng bạc thì có bậc chân bằng vàng. Thềm cấp bằng lưu ly thì có bậc chân bằng thủy tinh. Thềm cấp bằng thủy tinh thì có bậc chân bằng lưu ly.

“Này A-nan, xung quanh hồ ấy có câu lan bằng bốn báu, lưỡi câu là vàng bạc, lưu ly, thủy tinh. Lan can bằng vàng thì lưỡi câu bằng bạc. Lan can bằng bạc thì lưỡi câu bằng vàng. Lan can bằng lưu ly thì lưỡi câu bằng thủy tinh. Lan can bằng thủy tinh thì lưỡi câu là lưu ly.

“Này A-nan, hồ ấy được trùm bởi màn lưới có chuông treo ở giữa. Chuông ấy làm bằng bốn báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Chuông bằng vàng thì quả lắc bằng bạc. Chuông bằng bạc thì quả lắc bằng vàng. Chuông bằng lưu ly thì quả lắc bằng thủy tinh. Chuông bằng thủy tinh thì quả lắc bằng lưu ly.

“Này A-nan, trong hồ ấy trồng nhiều loại hoa dưới nước như hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng; thường có nước, có hoa, không có người trông giữ vì thuộc về tất cả mọi người.

“Này A-nan, ở bờ hồ ấy có trồng nhiều loại hoa như hoa Tu-ma-na, hoa Bà-sư, hoa Chiêm-bặc, hoa Kiện-đề, hoa Ma-đầu-kiện-đề, hoa A-đề-mâu-đa, hoa Ba-la đầu.

“Này A-nan, bên các bờ hồ sen ấy, có nhiều người nữ thân thể nõn nà, sạch sẽ, trong sáng, sắc đẹp hơn người, chẳng kém thiên nữ, tư dung đoan chánh, ai nhìn cũng thấy vui thích, được trang sức đầy đủ các loại ngọc báu; những người nữ ấy bố thí tùy theo nhu cầu của mọi người như đồ ăn thức uống, áo, chăn, xe cộ, nhà cửa, giường nệm, đệm lông ngũ sắc, tôi tớ, đèn dầu... đem cung cấp đầy đủ.

“Này A-nan, lá cây Đa-la ấy lúc gió thổi thì phát ra âm thanh cực kỳ vi diệu, cũng như năm loại kỹ nhạc được nhạc sư tài ba tấu lên thì có âm thanh hết sức hài hòa, tuyệt diệu. Này A-nan, lá cây ấy lúc gió thổi cũng lại như vậy”.

2- Về thời gian tu tập:

- Kinh A-di-đà:

“Xá Lợi Phất ! Nếu có người thiện nam thiện nữ nào, nghe nói về Đức Phật A Di Đà, mà trì danh hiệu của Ngài: hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tán loạn, thì người đó khi lâm chung, sẽ được Đức Phật A Di Đà và các Thánh chúng, hiện ra ở trước người đó, lúc người đó lâm chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Xá Lợi Phất ! Ta thấy lợi ích đó, nên nói lời nầy. Nếu có chúng sinh nghe nói như thế, phải nên phát nguyện, sinh về cõi đó”.

- Kinh Niệm Xứ Nikāya:

“- Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, sáu năm, năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm, một năm, bảy tháng, sáu tháng, năm tháng, bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng, trong nửa tháng; không cần nửa tháng, chỉ cần trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ”.

3- Niệm Phật của Nguyên thuỷ:

Niệm Phật trong thiền định nguyên thủy dành cho hành giả có căn cơ đức tin (saddhā), tất là có tánh tín (saddhācārita) vượt trội hơn các tánh khác. Có hai cách niệm sau đây:

3.1- Niệm danh hiệu: Trong 9 hồng ân Phật sau đây: Arahaṃ (Ứng Cúng), Sammā Sambuddho (Chánh Biến Tri), Vijjā-carana Sampanno (Minh Hạnh Túc), Sugato (Thiện Thệ), Lokavidū (Thế Gian Giải), Anuttaro Purisa Damma Sārathi (Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu), Satthā Deva Manussānam (Thiên Nhân Sư), Buddho (Phật), Bhagavā (Thế Tôn) – hành giả thấy danh hiệu nào hợp với căn cơ, tâm tánh của mình thì lựa chọn để niệm. Phải chú tâm, tinh cần, miên mật và đặt trọn niềm tin của mình trong khi niệm. Có thể niệm “Arahaṃ, Arahaṃ...” hay “Buddho, Buddho...” thành lời sau đó niệm thầm trong tâm; niệm liên tục, không gián đoạn, không để cho bất kỳ một tạp niệm nào xen vào cho đến khi tâm được an trú trong “nhất niệm”, hay cận hành định (upacāra).

 3.2- Niệm ân đức:

  Ví dụ: Arahaṃ là tự tánh thanh tịnh của chư Phật ba đời, có ba đức (guṇa): Một, Vô Lậu, là đoạn tận vô minh, phiền não, thực chứng Trí Tuệ Vô lậu viên mãn (Anāsava Sabbaññutā Ñāṇa). Hai, Vô Sanh, là chấm dứt sinh tử luân hồi, đạt Vô Sanh Bất tử (Ajātāmata). Ba, Vô Nhiễm, là thoát ly lậu hoặc, cấu uế, hoàn toàn Thanh Tịnh Vô nhiễm (Amala Visuddhi).

Cách niệm ân đức này, hành giả nghĩ tưởng hoặc niệm tưởng trong tâm, từ ân đức một đến ân đức ba. Khi mà tâm hành giả liên tục tràn ngập ba ân đức ấy thì mọi tạp niệm lắng dứt, mọi tham ưu phiền não tự động xa rời, và lúc ấy hành giả cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, mát mẻ, có những thiền chi như phỉ, lạc phát sanh; và cũng đạt được nhất niệm hoặc cận hành định giống như niệm hồng danh vậy.

4- Niệm Phật A-di-đà:

4.1- Niệm danh hiệu: Nếu niệm lục tự Di-đà thì tương tự niệm danh hiệu Phật như bên nguyên thuỷ vậy. Hành giả khi tu tập cứ niệm mãi, niệm hoài hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, một lòng không tán loạn, thì người đó khi lâm chung, sẽ được Đức Phật A Di Đà và các Thánh chúng, hiện ra ở trước người đó, lúc người đó lâm chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Ở đây, ta lưu ý, bên nguyên thuỷ, khi đạt nhất niệm, tức cận hành định thì tâm không còn tán loạn, tâm không còn điên đảo, tâm đã thanh tịnh (tham ưu, phiền não đã lắng dịu). Nói cách khác, “nhất cú Di Đà vô biệt niệm (nhất niệm), bất lao đàn chỉ đáo Tây phương”. Và khi tâm đã thanh tịnh rồi thì “tuỳ kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh”, ở đây và bây giờ.

4.2- Niệm tự tánh:

Nếu tự tánh của chư Phật có ba đức thì niệm Phật A-di-đà cũng có ba đức: Một, Vô Lượng Quang (Amitābhā) là biểu tượng cho Vô Lậu: Trí tuệ vô lậu viên mãn (Anāsava Sabbaññutā Ñāṇa). Hai, Vô Lượng Thọ (Amitāyur) là biểu tượng cho Vô Sanh: Chấm dứt luân hồi sinh tử, đạt Vô Sanh Bất Tử (Ajātāmata). Ba, cõi Cực Lạc (Sukhāvatīvyūha) cõi Tịnh Độ là biểu tượng cho Vô Nhiễm: Thoát ly lậu hoặc, cấu uế, hoàn toàn Thanh Tịnh Vô Nhiễm (Amala Visuddhi).

Hoá ra dù niệm danh tướng, tự tánh thì ý nghĩa hay chứng nghiệm đều giống nhau dù tên gọi có khác. Lại nữa, một bên là thực tánh (Arahaṃ), một bên là biểu tượng quyền biến thiện xảo (A-di-đà) nhưng gặp gỡ nhau ở tâm thanh tịnh cả. Do vậy, không ngạc nhiên gì  khi hành giả phái Tịnh độ thường hay nói: “Tự tánh Di Đà, duy tâm tịnh độ!”  Có nghĩa là, tự tánh mình là Phật Di Đà, và tự tâm mình là cõi Tịnh Độ vậy.

5- Còn tu tập nữa:

5.1- Theo nguyên thuỷ:

Sau khi hành giả niệm Phật đến nhất niệm (còn một niệm, nhất cú Di Đà), tức cận hành định (upacāra samādhi) là tâm thanh tịnh thuộc cõi Dục giới. Niệm Phật thuộc tuỳ niệm (anussati), chỉ có khả năng đạt cận định chứ không thể đạt sâu hơn. Nếu muốn đạt nhất tâm (ekaggatā),  đắc an chỉ định (appanā samādhi), tức là tâm thanh tịnh thuộc cõi Sắc giới thì phải chuyển đổi đề mục sang niệm (sati) hơi thở, niệm thân hoặc các đề mục như đất, nước, lửa, gió... Tuy nhiên, không cần phải đi sâu vào định, chỉ cần cận hành định là hành giả có thể chuyển qua tu tập minh sát tuệ, quán ngũ uẩn, mười hai duyên khởi để thấy rõ tam tướng, đi vào dòng thánh.

5.1- Theo kinh A-di-đà:

Khi niệm Phật đến chỗ “nhất tâm bất loạn”, thì tâm đã là cõi Tịnh Độ rồi. Do kinh Di Đà là kinh phương tiện, kinh biểu tượng, cho nên ta phải đọc ra đằng sau ngôn ngữ và đằng sau hình ảnh biểu tượng đề tìm cho ra cái thực. Vậy, đến cõi Tịnh Độ rồi, hành giả cũng còn cần phải tu tập, ta hãy nghe: “Này Xá-lơi-phất! Cõi đó thường có đủ thứ chim lạ đẹp đủ màu như: Chim hạt trắng, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mệnh. Các thứ chim đó, ngày đêm sáu thời, vang ra tiếng hoà nhã. Tiếng đó diễn nói pháp: Năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo... chúng sinh trong cõi đó, nghe tiếng đó rồi đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”.

Vậy là đã rõ, sau khi niệm kinh Di Đà đến chỗ thanh tịnh (cận định) rồi, còn phải tu 37 trợ đạo phẩm, trong đó có Bát Chánh Đạo, tức Đạo Đế, con đường thành tựu chánh trí, giác ngộ, giải thoát, Vô Sanh, Niết-bàn!

Cầu nguyện cho muôn triệu người tu tập pháp môn niệm Phật Di Đà: “Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung, Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu. Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh. Bồ Tát bất thối vi bạn lữ”.

Chúng ta để ý “Cửu phẩm liên hoa là 4 đạo, 4 quả và 01 Niết-bàn”“Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”, chứ không phải “Hữu sanh”, là sanh lên cõi Tây phương Cực Lạc có bảy báu lôi cuốn, hấp dẫn chúng sanh!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2015(Xem: 5114)
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội bồ đề, thời gian đầu Ngài chần chờ không muốn truyền bá giáo pháp. Đến khi chư Thiên xuống đảnh lễ, cầu xin Ngài nên vì chúng sanh mà lập bày phương tiện giáo hóa. Lúc trước đọc sử tới đoạn này tôi hơi ngạc nhiên. Vì Đức Phật phát thệ nguyện lớn, thị hiện nơi đời để độ chúng sanh, sao bây giờ thành Phật rồi, Ngài không chịu đi truyền bá Chánh pháp, đợi năn nỉ mới chịu thuyết pháp.
15/01/2015(Xem: 11866)
Con xin thành kính đảnh lễ và tri ân: -Đức Đạt Lai Lạt Ma,và Hòa Thượng Lhakor cùng Thư Viện Tây Tạng đã hoan hỷ cho phép con được chuyển dịch nguyên tác “The Way to Freedom” từ Anh Ngữ sang Việt Ngữ.
05/01/2015(Xem: 16873)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
22/11/2014(Xem: 23527)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
20/10/2014(Xem: 27883)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
18/08/2014(Xem: 51915)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
16/06/2014(Xem: 14387)
Tam quy và Ngũ giới là nền tảng xây dựng đạo đức nhân bản vững chắc trong tiến trình tu tập tiến đến Phật quả của người Phật tử. Bất cứ ai muốn trở thành một người Phật tử chơn chánh, điều kiện trước tiên là phải quy y Tam bảo và thọ trì năm giới cấm. Đây là cánh cửa khai thông đầu tiên để người Phật tử bước chân vào đạo Phật. Muốn thực tập con đường "Hiểu" và "Thương" cho có hiệu quả thiết thực, thiết nghĩ, ngoài con đường "Tam quy và Ngũ giới" ra, hẳn là không có con đường nào khác để chúng ta chọn lựa. Có hiểu và thương thì chúng ta mới có thể tiến đến xây dựng hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội. Là con người không ai lại không muốn đời mình luôn được an vui và hạnh phúc. Không ai muốn đời mình phải chịu nhiều đắng cay hệ lụy đau khổ bao giờ. Sự chọn lựa một lối đi cho thích hợp với đời sống tâm linh của mình thật hết sức quan trọng.
21/01/2014(Xem: 17909)
Đọc bản dịch Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của anh Lý Việt Dũng, tôi không khỏi thán phục khi biết sức khỏe anh rất kém mà vẫn phấn đấu kiên trì để hoàn thành dịch phẩm khó khăn này một cách đầy đủ chứ không lược dịch như ý định ban đầu.
21/12/2013(Xem: 6554)
Đây là danh từ Phật học nên không thể tìm thấy trong những từ điển thông thường thuộc các ngành khoa học tự nhiên hay cũng không thể tìm thấy trong các từ điển thuộc về khoa học xã hội, Kinh tế , văn học, triết học, tôn giáo học… Trong tự điển tiếng Việt của Viện Khoa Học Xã Hội và Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam vẫn không tìm thấy từ nầy.
20/12/2013(Xem: 30143)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567