Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

BỐN: Người Tù Trong Ký Ức Thi Nhân

14/06/201212:06(Xem: 16372)
BỐN: Người Tù Trong Ký Ức Thi Nhân

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba

Bốn

Người Tù Trong Ký Ức Thi Nhân

Conngười sinh tồn trong cõi mộng đã không nhiều thì ít, không lắm lần hay chỉ có mộtlần cũng lưu bóng dáng, hình hài qua những bước chân. Dẫu vô tình hay cố ý như chim nhạn bay qua TrườngGiang vẫn không khỏi in ảnh hình xuôi theo dòng nước lạnh. Người Tù biền biệt theo tháng năm, nhưng hìnhdáng Người còn lưu lại nơi đâu đó, mang theo những vần thơ của thiên tài lỗi lạc. Thể nghiệm qua cuộc sống, tương quan giữa ngườivới người, đã có những sự liên đới mật thiết, theo tình tự bẩm sinh, theo thóiquen bạn bè, theo cách điệu thi nhân, trong cuộc rong chơi nhiều ước hẹn. Người Tù đã gầy dựng và để lại cho mai sau nhữngáng văn chương, thi tứ phiêu diêu, mông lung huyền ảo. Biết bao cảm xúc dạt dào trút đổ dồn dập vàotâm tư, vào tâm tưởng của thi nhân như những đợt sóng của đại dương cuồn cuộn vỗbờ đã tạo thành cảm hứng, làm nên chất liệu sống thầm lặng nhưng dạt dào, êm đềmnhưng hối hả, đơn sơ nhưng tráng lệ, dịu dàng nhưng hùng tráng thôi thúc thinhân viết thành những dòng cảm xúc.

Rảirác đó đây, khắp cùng các nẻo đều có mặt thi nhân, có sự tạo dựng và nuôi dưỡng,thừa tiếp một công trình kiến tạo ngàn đời của Người Tù thế kỷ. Những người đồng tâm sự, hay những người đã mộtthời sát cánh cùng Người Tù rảo khắp các miền:

“Từnúi nọ đến biển im muôn thủa.

Đỉnhnúi này và hạt muối đó chưa tan”

đểlàm chứng nhân cho một thời phiêu bạt.

Bằngmỗi cái nhìn khác nhau, các thi nhân đã viết về Người Tù mỗi khía cạnh chẳng đồng,mỗi góc độ khác biệt, tùy theo những cảm nhận cá biệt.

Triếtgia Phạm Công Thiện đã gọi Người Tù là “Anh Hùng Dân Tộc”“Thiền Sưlỗi lạc nhất, thông minh nhất, uyên bác nhất, và trong sạch nhất của Việt Namhiện nay.”

Nhàthơ Bùi Giáng lại có vẻ nghệ sĩ hơn, Người Tù “mang một nguồn thơ Việt phiphàm” hay “Một bài thơ “Không Đề”của ông đủ khiến ta khiếp vía mấtăn mất ngủ”mà nêu lên đề nghị: “Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi, và làmthơ tiếp nhiều cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một nhân tài quá lớn.Chỉ một bài thơ Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới – cũ, Đường Thi Trung Hoatới siêu thực Tây Phương...”

ÔngNguyễn Minh Cần tuy chưa gặp, nhưng: “Lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến Thầy, nghĩ đến một tài năng của đấtnước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác.”

Họcgiả Đào Duy Anh trân quý Người Tù như bảo vật: “Thầy là viên ngọc quý của Phậtgiáo và của Việt Nam.”

Trênđây là những nét chấm phá về Người Tù đã tạo thành bức tranh thủy mặc, lãng đãngnhững sợi khói mờ, những cây cổ thụ và sườn đá sừng sững, dáng dấp kiêu hùng củabàn tay tạo hóa, hay đôi tay người Mẹ hiền đã nuôi dưỡng Người Tù khôn lớnthành vách tường đồng vững chắc ngăn chặn cuồng phong bão tố. Thi nhân đã hoàn thành những tác phẩm hiếndâng cho đời thưởng ngoạn. Bức tranh ấylà bảo vật cổ quý giá chỉ có những bậc sành điệu mới biết giá trị của nó, mớitâng tiu cất giữ.

NgườiTù qua nét bút của các nhà nghệ sĩ tạo dựng nên nhiều hình ảnh đa dạng, cuồng nộ,phóng thể, lập chân tùy theo từng trường phái. Qua cái nhìn của một triết gia thì nét bút thẳng và đứng, hiên ngang vàvững mạnh như những cội thông già ngàn năm trên núi tuyết, hứng sương mai, nắngchiều và gió rừng vi vu, rì rào hát với thông những bài tình ca dân tộc, nhữngthiên tình sử quê hương để tô thắm núi rừng, đồng bằng cỏ cây thêm xanh biếc.

NgườiTù qua cái nhìn của một nhà thơ, một đại thi hào thì nét bút phóng thể, hưng phấn,phiêu diêu thơ mộng như áng mây vương bồng bềnh trên bầu trời thu, lang thangqua những đồi phong nhuộm màu quan san. Qua những đỉnh núi cao, mặt biển rộng vang rền tiếng sóng. Áng mây trời khi tan khi hợp, linh động nhiệmmầu, hóa thân vào cát bụi để làm cát bụi. Hóa thân vào cỏ nội hoa ngàn để làm bông hoa điểm xuyết đồng cỏ hoang,làm nhựa cây để nuôi cây sống, làm ánh nắng để sưởi ấm muôn loài. Nét vẽ lung linh ảo diệu, khi thực khi hư vớinghệ thuật pha màu tuyệt hảo.

NgườiTù qua cái nhìn của một nhà văn với nét bút tả chân gãy gọn, bình dị. Nét bút hài hòa, đằm thắm và tươi tắn, tạonên dáng vẻ dung dị một Người Tù, giữa lớp người kiêu sa hãnh tiến.

NgườiTù qua cái nhìn của một học giả thì nét bút trân kỳ, sang cả hiển lộ sự quýphái hiếm hoi, mà những người quyền quý cao sang, vọng tộc, các bậc vương hầubá tước mới có trong tay. Đó là viên ngọcKha Nguyệt, viên ngọc Trị Thủy, viên Như Ý Bảo Châu. Là khối kim cương lóng lánh, chặt đứt các vậtthể khác. Nhà học giả biết quý trọng cácviên ngọc đó. Viên ngọc ẩn mình trong tảngđá ngàn năm trên núi tuyết. Viên ngọc đượctồn sinh dưới lòng đại dương sâu thẳm. Người thợ chạm ngọc biết được giá trị của viên bảo ngọc.

Trênđây là một vài ký ức của thi nhân cảm niệm về Người Tù thế kỷ, còn tất cả chỉlà một thoáng qua mành, như làn gió thoảng làm lay động cành sương, như làn hươngphảng phất thơm lây, như sợi tơ chiều vương vương trong nắng, rồi tan, rồi tắtlịm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2015(Xem: 5372)
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội bồ đề, thời gian đầu Ngài chần chờ không muốn truyền bá giáo pháp. Đến khi chư Thiên xuống đảnh lễ, cầu xin Ngài nên vì chúng sanh mà lập bày phương tiện giáo hóa. Lúc trước đọc sử tới đoạn này tôi hơi ngạc nhiên. Vì Đức Phật phát thệ nguyện lớn, thị hiện nơi đời để độ chúng sanh, sao bây giờ thành Phật rồi, Ngài không chịu đi truyền bá Chánh pháp, đợi năn nỉ mới chịu thuyết pháp.
15/01/2015(Xem: 12944)
Con xin thành kính đảnh lễ và tri ân: -Đức Đạt Lai Lạt Ma,và Hòa Thượng Lhakor cùng Thư Viện Tây Tạng đã hoan hỷ cho phép con được chuyển dịch nguyên tác “The Way to Freedom” từ Anh Ngữ sang Việt Ngữ.
05/01/2015(Xem: 18906)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
22/11/2014(Xem: 28105)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
20/10/2014(Xem: 33012)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
18/08/2014(Xem: 58362)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
16/06/2014(Xem: 15845)
Tam quy và Ngũ giới là nền tảng xây dựng đạo đức nhân bản vững chắc trong tiến trình tu tập tiến đến Phật quả của người Phật tử. Bất cứ ai muốn trở thành một người Phật tử chơn chánh, điều kiện trước tiên là phải quy y Tam bảo và thọ trì năm giới cấm. Đây là cánh cửa khai thông đầu tiên để người Phật tử bước chân vào đạo Phật. Muốn thực tập con đường "Hiểu" và "Thương" cho có hiệu quả thiết thực, thiết nghĩ, ngoài con đường "Tam quy và Ngũ giới" ra, hẳn là không có con đường nào khác để chúng ta chọn lựa. Có hiểu và thương thì chúng ta mới có thể tiến đến xây dựng hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội. Là con người không ai lại không muốn đời mình luôn được an vui và hạnh phúc. Không ai muốn đời mình phải chịu nhiều đắng cay hệ lụy đau khổ bao giờ. Sự chọn lựa một lối đi cho thích hợp với đời sống tâm linh của mình thật hết sức quan trọng.
21/01/2014(Xem: 22179)
Đọc bản dịch Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của anh Lý Việt Dũng, tôi không khỏi thán phục khi biết sức khỏe anh rất kém mà vẫn phấn đấu kiên trì để hoàn thành dịch phẩm khó khăn này một cách đầy đủ chứ không lược dịch như ý định ban đầu.
21/12/2013(Xem: 7076)
Đây là danh từ Phật học nên không thể tìm thấy trong những từ điển thông thường thuộc các ngành khoa học tự nhiên hay cũng không thể tìm thấy trong các từ điển thuộc về khoa học xã hội, Kinh tế , văn học, triết học, tôn giáo học… Trong tự điển tiếng Việt của Viện Khoa Học Xã Hội và Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam vẫn không tìm thấy từ nầy.
20/12/2013(Xem: 36367)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]