Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bà già bán cái nghèo

22/01/201103:49(Xem: 3082)
Bà già bán cái nghèo

BÀ GIÀ BÁN CÁI NGHÈO

Nói đến sự đau khổ, bất hạnh của con người trên thế gian này thì nhiều vô số kể, ở đây chúng tôi chỉ nói đến cái khổ do nghèo. Vậy ta làm thế nào để vượt qua cảnh nghèo? Đó là điều mà ai cũng mong muốn và ước mơ.

Người ta thường đặt câu hỏi: Tại sao mình nghèo mà người khác lại giàu? Không lẽ thượng đế lại sắp đặt như thế sao? Nghèo hay giàu đều có nguyên nhân của nó, không có gì bỗng dưng, khi không mà thành. Do ta không nhận thức sáng suốt, nhận định sai lầm, rồi cho rằng con người sanh ra nghèo hay giàu đều do trời định, số định, nói như vậy là oan cho trời quá.

Bố thí là sự cảm thông chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần quý kính, tôn trọng vì tình người. Nhờ bố thí ta giảm bớt lòng tham lam, ích kỷ nhỏ nhoi và rộng mở lòng từ bi đối với mọi người.

Biết rõ gốc nghèo khổ

Từ bỏn xẻn mà ra

Muốn không khổ, oán sầu

Phải thực hành bố thí.

Nói đến bố thí, ta không nên nghĩ đến giàu có, nhiều tiền của mới thực hành bố thí. Như ở trên đã nói, bố thí có nhiều cách như bố thí tấm lòng, bố thí lời nói, bố thí sự hiểu biết, hay bố thí hành động của mình… Việc thực hành bố thí cho người thân, người thương thì dễ, còn bố thí cho người mà mình từng oán hận, căm ghét trước đây mới là khó. Chúng ta nên học tập hạnh bố thí của Bồ tát: bố thí bình đẵng, không phân biệt đối tượng nào.

Ngày xưa, đức Phật có người đệ tử tên Ca-chiên-diên đã chứng quả A-la-hán. Trên đường du hóa, ông gặp một bà lão nghèo than vãn sự đói khổ của bà gần tám chục năm. Nghe xong, Ca-chiên-diên giải thích nguyên nhân cái nghèo của bà và bảo bà hãy bán cái nghèo đi để hết khổ. Bà lão mừng hỏi: “Cái nghèo có thể bán được sao?” Vậy, nếu có ai mua con sẽ bán. Cái nghèo mà bán được thì trên đời này không còn ai nghèo nữa; ai mà không ham bán cái nghèo đi.

Nghèo là do hậu quả của việc không biết bố thí, cúng dường lại hay trộm cướp, lường gạt của người hoặc không biết tiết kiệm, làm một xài mười, hưởng thụ quá mức. Bố thí là cách bán cái nghèo tốt nhất.

Ngài Ca-chiên-diên đã giải thích cho bà lão hiểu rằng, việc giàu nghèo đều có nguyên nhân sâu xa của nó chớ không tự dưng mà bà bị nghèo như vậy. Người nghèo hèn thời nay là do đời trước không biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ với ai. Do đó, thực hành bố thí là cách bán cái nghèo tốt nhất. sau khi nghe Ngài Ca-chiên-diên giải thích, bà lão cảm thấy những nỗi buồn khổ về thân phận nghèo hèn của mình đều tan biến trong tâm tưởng. Nhưng nghĩ lại, bà cũng tủi thân vì nhìn quanh mình chẳng có cái gì để bố thí hay cúng dường.

Khi thấy tâm thành kính muốn cúng dường của bà đến cao độ, ngài Ca-chiên-diên mới nói: “Bà lấy cái chén ra ngoài mé sông múc cho tôi chén nước, chắc chắn trong tương lai bà sẽ bán được cái nghèo.

Bà lão hoan hỷ trong lòng, nhanh chân ra sông mang về một chén nước trong, thành kính dâng lên cúng dường cho ngài Ca-chiên-diên. Từ đó bà lão lúc nào cũng cảm thấy trong lòng vui vẻ, hạnh phúc. Và mấy ngày sau bà lão qua đời trong bình an, tự tại.

Do phước báu cúng dường với tâm thành kính, bà lão được sanh lên cõi trời làm một Tiên nữ đầy đủ phước báu muốn gì được nấy. Bà vận dụng thần thông trở về trần gian thăm lại cái xác thân nghèo khổ ngày nào nay đang tan rã. Bà thầm cảm ơn Phật pháp, cảm ơn ngài ca-chiên-diên đã hướng dẫn, giúp bà vượt qua kiếp nghèo khổ thế gian một cách dễ dàng.

Bây giờ được thân Tiên nữ xinh đẹp lộng lẫy, muốn gì được nấy chỉ nhờ vào công đức cúng dường cho bậc A-la-hán một chén nước sông với tất cả tấm lòng tôn kính và hoan hỷ. Nay trong cảnh Tiên, Bà lập nguyện cúng dường mãi mãi để tăng trưởng tâm tình thương, lòng hỷ xả và nuôi dưỡng phước báu.

Ở thế gian, việc bố thí, cúng dường là ruộng phước cho nhân loại. Người có tâm bố thí là tập cho mình có đời sống cao thượng, an vui trong hiện tại và hạnh phúc cho mai sau. Và việc thực hành bố thí, cúng dường không cần phải người giàu có, tiền dư, bạc hậu mới có thể làm được. Người nghèo khổ, khốn khó, nếu biết cách vẫn có thể thực hành bố thí, cúng dường, tích lũy phước báu thì tai qua, nạn khỏi, có cơ hội sống an vui, hạnh phúc trong đời này và hướng tới một tương lai tốt đẹp.

Trong dân gian có câu:” Ai giàu ba họ, ai khó ba đời.” Không ai phải chịu nghèo hèn mãi mãi. Người biết làm việc thiện, biết bố thí, cúng dường thì cuộc sống sẽ được thay đổi, không đời này thì đời sau. “Ai khó ba đời” là vậy.

Trong kho tàng ca dao Việt nam cũng có câu: “Ai ơi ăn ở cho lành, kiếp này không gặp để dành kiếp sau.” Vì vậy chúng ta phải cố gắng làm lành, làm thiện, bố thí, cúng dường chứ đừng quan niệm rằng giàu, nghèo là do số trời đã định. Nói như vậy là không đúng, làm gì có ông trời nào xử sự bất công như thế.

Người có phước báu, đời này được giàu sang, quyền quý, nhưng nếu ta hưởng phước mà không biết thực hành bố thí, cúng dường để tích lũy thêm, đến khi hết phước làm ăn sa sút hay gặp tai họa thì cũng trở nên nghèo khổ, khốn khó. “Ai giàu ba họ” là ở chỗ này.

Tóm lại, người sanh ra phải chịu cảnh nghèo hèn, khốn khó là do hậu quả của lòng tham lam ích kỷ từ nhiều đời, nhiều kiếp và người được giàu sang là do kết quả của việc biết làm lành, làm thiện, biết giúp đỡ, chia sẻ, bố thí, cúng dường. Vì cái nhân quả khác nhau ấy, mà trong đời này, con người sinh ra đã có sự bất đồng về mọi phương diện giàu nghèo, tốt xấu, thông minh, đần độn…

Ngừời nghèo khổ dễ khởi tâm oán giận, vì sao? Bởi họ thấy mình luôn khốn khổ gian nan, đầu tắt mặt tối mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn trăm bề, vì vậy họ thường sanh tâm oán giận, căm ghét lung tung, trên trách trời, dưới trách đất, đố kỵ, ganh ghét với người tài cao đức trọng, do đó họ dễ gây ra nhiều điều tội lỗi.

Biết được điều này chúng ta sẽ không than oán, trách móc, đổ thừa tại, bị, thì là, không chịu vươn lên làm lại cuộc đời, cố gắng thay đổi đời sống.

Chúng ta phải biết gieo trồng phước đức, muốn được cái này thì phải có cái kia. Muốn có quả xoài ta phải gieo trồng hột xoài, chăm bón cây xoài, không, ta phải có tiền mới mua được trái xoài đó, nhân quả là vậy. Nhân quả là giáo lý nền tảng của đạo Phật, ta không gieo nhân mà muốn gặt quả thì không được.

Theo quan niệm của Phật giáo, giàu nghèo không phải ở nơi tiền tài, vật chất mà sự giàu nghèo đặt nặng trên nền tảng của đạo đức, tư cách và tấm lòng. Người có lòng nhân ái, sống biết thương yêu giúp đỡ mọi người, sống có phẩm chất đạo đức và nhân cách tốt thì mới đang quý, đáng trân trọng, ngược lại, người tuy có tiền của, tiện nghi mà không có được những yếu tố trên thì họ vẫn là người nghèo khổ.

Trong làm ăn, kinh tế, đức Phật dạy rằng, tài sản, của cải ta làm ra nên chia ra làm bốn phần:

- Phần thứ nhất, dùng chi tiêu trong cuộc sống hằng ngày.

- Phần thứ hai, tích lũy dự phòng cho hậu sự hoặc chi dùng khi gặp chuyện bất trắc.

- Phần thứ ba, lo việc phụng dưỡng, hiếu sự với ông, bà, cha, mẹ.

- Phần thứ tư, làm việc phước thiện, chia sẻ nỗi khổ đau với những người bất hạnh.

Vậy, người nghèo thường oán giận cái gì? Oán giận ông trời bất công. Theo quan niệm của thần quyền, con người phải lệ thuộc vào ai đó. Ai theo truyền thống này sẽ oán giận ông trời, vì số phận họ là do trời sắp đặt.

Nếu có ông trời sắp đặt mọi việc như vậy, tại sao ông trời không đem phước lành đến cho con người, để cho thế gian này khổ nhiều hơn vui, người nghèo khổ, bất hạnh nhiều hơn người giàu có hạnh phúc?

Trên thì oán trời, dưới đổ thừa cho xã hội bất công, bởi khi nghèo khổ, túng quẩn, tâm trí, đầu óc thiếu minh mẫn, sáng suốt, lại không chịu suy tư cho chín chắn, nên oán trách lung tung.

Có khi oán trách người thân, gặp chuyện không vui ở đâu, về nhà trút đổ nỗi buồn cho cha mẹ, cho vợ con, lỡ khi làm điều phi pháp bị bắt vào tù lại đổ thừa tại gia đình, vợ con mà tôi phải làm như vậy. Hoặc khi thất nghiệp không tìm được công ăn việc làm thì oán trách thầy bạn sao không mở lòng giúp đỡ.

Người nghèo khổ thường không biết tu tạo phước đức, bởi phải vất vả mà cũng chỉ kiếm tiền sống qua ngày, do đó đã nghèo lại càng nghèo thêm. Họ không có điều kiện hay cơ hội giúp đỡ ai, không tích lũy được phước báu, vì vậy mà oán hận chứa chất trong lòng mỗi ngày càng nhiều thêm.

Vì vậy, trách nhiệm của xã hội là phải quan tâm đến vấn đề của người nghèo nhiều hơn, không những giúp đỡ họ về phương diện vật chất mà còn phải chăm lo đời sống tinh thần để họ vơi đi những khổ đau nội kết chất chứa trong lòng. Tốt nhất cho việc làm này, xã hội nên kết hợp với đạo Phật giúp họ hiểu được nguyên nhân sâu xa của bất hạnh nghèo khổ.

Chúng ta có nhiều cách để tạo ra phước đức, về mặt xã hội, ta thực hiện đắp đường, xây cầu, khoan giếng, trồng cây, tạo công viên, hoa viên, lập ra các nơi khám chữa bệnh miễn phí, bệnh viện từ thiện... Còn đối với đạo Phật cần có những trách nhiệm cao hơn, ngoài việc giúp đỡ vật chất còn phải hỗ trợ tinh thần để họ phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, bế tắc cuộc đời.

Tại các chùa hay các cấp của giáo hội cần lập ra các đoàn từ thiện đi đến vùng sâu, vùng xa thăm hỏi, động viên, trợ duyên cho họ bằng những món quà vật chất với tấm lòng của ít lòng nhiều, khuyến tấn họ đến chùa tu tập, nương theo lời Phật dạy, hướng dẫn họ biết cách gieo trồng phước báu, không phải chờ đến khi giàu có mới làm phước được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2015(Xem: 5095)
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội bồ đề, thời gian đầu Ngài chần chờ không muốn truyền bá giáo pháp. Đến khi chư Thiên xuống đảnh lễ, cầu xin Ngài nên vì chúng sanh mà lập bày phương tiện giáo hóa. Lúc trước đọc sử tới đoạn này tôi hơi ngạc nhiên. Vì Đức Phật phát thệ nguyện lớn, thị hiện nơi đời để độ chúng sanh, sao bây giờ thành Phật rồi, Ngài không chịu đi truyền bá Chánh pháp, đợi năn nỉ mới chịu thuyết pháp.
15/01/2015(Xem: 11790)
Con xin thành kính đảnh lễ và tri ân: -Đức Đạt Lai Lạt Ma,và Hòa Thượng Lhakor cùng Thư Viện Tây Tạng đã hoan hỷ cho phép con được chuyển dịch nguyên tác “The Way to Freedom” từ Anh Ngữ sang Việt Ngữ.
05/01/2015(Xem: 16719)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
22/11/2014(Xem: 23350)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
20/10/2014(Xem: 27538)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
18/08/2014(Xem: 51680)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
16/06/2014(Xem: 14311)
Tam quy và Ngũ giới là nền tảng xây dựng đạo đức nhân bản vững chắc trong tiến trình tu tập tiến đến Phật quả của người Phật tử. Bất cứ ai muốn trở thành một người Phật tử chơn chánh, điều kiện trước tiên là phải quy y Tam bảo và thọ trì năm giới cấm. Đây là cánh cửa khai thông đầu tiên để người Phật tử bước chân vào đạo Phật. Muốn thực tập con đường "Hiểu" và "Thương" cho có hiệu quả thiết thực, thiết nghĩ, ngoài con đường "Tam quy và Ngũ giới" ra, hẳn là không có con đường nào khác để chúng ta chọn lựa. Có hiểu và thương thì chúng ta mới có thể tiến đến xây dựng hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội. Là con người không ai lại không muốn đời mình luôn được an vui và hạnh phúc. Không ai muốn đời mình phải chịu nhiều đắng cay hệ lụy đau khổ bao giờ. Sự chọn lựa một lối đi cho thích hợp với đời sống tâm linh của mình thật hết sức quan trọng.
21/01/2014(Xem: 17768)
Đọc bản dịch Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của anh Lý Việt Dũng, tôi không khỏi thán phục khi biết sức khỏe anh rất kém mà vẫn phấn đấu kiên trì để hoàn thành dịch phẩm khó khăn này một cách đầy đủ chứ không lược dịch như ý định ban đầu.
21/12/2013(Xem: 6524)
Đây là danh từ Phật học nên không thể tìm thấy trong những từ điển thông thường thuộc các ngành khoa học tự nhiên hay cũng không thể tìm thấy trong các từ điển thuộc về khoa học xã hội, Kinh tế , văn học, triết học, tôn giáo học… Trong tự điển tiếng Việt của Viện Khoa Học Xã Hội và Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam vẫn không tìm thấy từ nầy.
20/12/2013(Xem: 29882)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567