Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Giản dị trong nếp sống

02/01/201107:22(Xem: 8143)
6. Giản dị trong nếp sống

6. Giản dị trong nếp sống

Các nhà nghiên cứu Phật giáo đều có một nhận định chung rằng, khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, khi ấy có mấy ai đã hiểu Phật giáo, nhưngtại sao Phật giáo được chấp nhận một cách dễ dàng, êm thấm, đẹp đẽ như vậy. Đó là họ tiếp nhận Phật giáo thông qua hành động của các nhà sư. Hình ảnh cụ thể của các nhà sư có nhiều điểm gần giống với họ, làm cho người dân quí mến nên họ đã gần nhà sư, gần đạo Phật. Nhiều hình thái, nhiều việc làm của nhà sư phục vụ cho dân, ở với dân, những hình ảnh ấy là cách để cho dân gần, nhưng tóm tắt trong đó có 4 điều.

Điều thứ nhất là nhà sư đạm bạc trong ăn uống. Cách ăn chay của chúngta là lối ăn hết sức đạm bạc. Ở đâu cũng ăn được. Rau cải, vài miếng đậu, chút nước tương thế là xong. Cách ăn này người đời cũng ăn như thế,nhờ đó cho nên dân thấy rằng sự ăn uống của nhà sư khiêm tốn giản dị. Biết như vậy nên ngày hôm nay nếu có những người gần đạo Phật, thấy chúng ta ăn uống quá cầu kỳ, xa lạ đối với họ, thì họ sẽ xa lánh chúng ta. Do đó chúng ta phải tri túc trong ăn uống. Khi đi độ đám, làm đàn machay kỵ giỗ, các thầy đừng ham ăn ham uống quá nhiều. Nếu có ăn thì ăn vừa đủ no để nuôi thân, nếu có uống thì uống nước ngọt thay cho uống bia, uống rượu. Và nếu khi các vị cư sĩ đãi bia thì mình cũng đừng uống.Khi mình uống thì trước mặt họ không nói gì nhưng sau lưng họ chê mình,đó là việc hết sức tối kỵ.

Tôi biết ở Huế trước đây đi cúng tới nhà thí chủ có một số vị trước hết là đòi bia liền. Đó là điều hôm nay các thầy phải lưu ý. Nếu họ có mời cũng không uống. Tôi xin nói kinh nghiệm của tôi. Trước đây tôi cũngkhông uống bia, nhưng cái bụng cứ hay đau lâm râm, có một vị sư nói Thầy nên uống một ít bia thì cái bụng của thầy sẽ êm, vì nó tống khứ cácđồ ăn trong bụng đi. Vì muốn cái bụng hết đau nên cũng nhắm mắt uống một ly. Lúc đầu uống thấy cay cay, uống ngụm thứ hai thấy cũng hơi được được, ngụm thứ ba thấy ngọt ngọt (vì cho sữa vào). Nếu tôi không kịp ngăn lại thì bây giờ tôi cũng là ông thầy uống bia rồi.

Sau có bà bổn đạo nghe được tôi có uống bia, nên khi tôi vào Sài Gòn chữa mắt, Phật tử ra chào và nói: Con nghe Ôn uống bia được, con mua mộtthùng để sẵn đây. Khi đó tôi nghĩ, như thế này thì nguy hiểm quá. Tôi uống một lon bia chưa hết mà mụ đi quảng cáo tới 10 người thành ra 10, 20 lon, vô tình mà mình mang cái họa. Nghĩ thế nên tôi bỏ luôn. Từ khi bỏ luôn đến giờ thì cái bụng hắn cũng êm luôn. Cho nên các thầy phải rútkinh nghiệm, giản dị trong ăn uống là vậy. Đó là một hình thái sinh hoạt để cho người ta gần gũi với mình.

Thứ hai là giản dị trong sinh hoạt. Các vị thiền sư trước đây của chúng ta ăn mặc sinh hoạt giản dị lắm, không có rườm rà khách sáo quan liêu như bây giờ. Nếu có việc các vị phải đi xe, các vị cố gắng lái xe vừa phải. Các vị biết rằng xe sang thì khỏe và êm, chắc chắn có người quen nhưng nhiều người không quen, ít người thích nhưng nhiều người chê.Vì hoàn cảnh và thời thế, không đi xe không được, nhưng đi xe vừa phải,đó cũng là giản dị trong sinh hoạt.

Thứ ba là đứng đắn trong gia quyếtn. Trong gia đình phải ăn nói thật thà, không quanh co, lắt léo, phức tạp trong giao tiếp. Nếu ăn nói quanhco thì sẽ làm cho người ta chán ngấy và mất niềm tin ở nơi mình.

Thứ tư là tận tụy với đời. Nếu có chuyện gì giúp đời được thì cố gắnggiúp cho thật tốt. Chẳng hạn như cứu trợ nạn lụt thì chúng ta phải lăn xả ra mà làm, đó cũng là một cách cứu đời. Có những người chưa biết Phậtlà gì cả, nhưng qua việc làm của quí thầy họ thấy thích, họ liền xin tutheo Phật, chứ họ đôi khi cũng không biết giáo lý Phật mà chỉ biết các thầy, các cô làm tốt thì họ theo. Đó là trường hợp chung. Cá biệt còn cónhững trường hợp riêng lẽ như: Ở gần địa phương chúng ta rất cô quạnh, không đủ phương tiện, có người bị ốm nửa đêm không có xe đưa đi bệnh viện. Nếu chúng ta có phương tiện thì nên đem đến đưa họ đi nhà thương thì họ sẽ cảm mến và theo ta.

Những điều đó nếu chúng ta làm được sẽ gây thêm uy tín cho bản thân chúng ta. Đó cũng là một sự lợi ích xuyên qua việc làm và cũng đi đúng tinh thần đạo Phật là vào đời để cứu đời trong cơn hoạn nạn. Làm được như vậy là tạo nên một sự thông cảm, gây được thiện cảm đối với mọi người. Tôi thấy tinh thần hòa đồng của đạo Phật rất hay, chính vì thế màđạo Phật đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm của nhân gian mà nó đã trở thành một đạo của dân tộc.

Nói tóm lại, chính đời sống đạm bạc, lối sống giản dị, nói năng ngay thẳng thật thà mà nhà sư đã hòa đồng được với nhân dân, đó cũng là một cách thực hành lời Phật dạy.

Một vài lời như vậy, tôi mong anh em Tăng Ni chúng ta tạo một nếp sống như thế nào đó để cho mình xứng đáng là ông sư của chính mình, một ông sư của Việt Nam. Thứ đến là mong anh em phải thực hiện nghiêm túc, một ngày phải có một thời kinh. Nếu không tụng kinh thì niệm Phật, nếu không niệm Phật thì hành thiền để thúc liễm thân tâm hầu làm gương cho hậu học, cho đệ tử và cho hàng Phật tử tín tâm đang hướng về chúng ta. Thời đại của chúng tôi mỗi khi an cư thì phải tụng kinh bộ, hết bộ này đến bộ khác, liên tục trong 3 tháng, ngoài ra còn học kinh, luật, trì chú một ngày phải vài chục biến cho đến vài trăm biến. Đó là điều bắt buộc. Bây giờ anh em dù có bận việc mấy thì cũng có một thời kinh, thậm chí một giờ hành thiền hay trì chú vài chục biến thì sẽ có kết quả tức khắc, nó đem lại sự lợi lạc cho chính mình và sẽ tạo sự an toàn cho đại chúng.

Bấy nhiêu lời nhắc nhở anh em tinh tấn trong mùa an cư năm nay. Cầu chư Phật gia hộ cho mùa an cư của Tăng Ni giới hạnh viên mãn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2015(Xem: 5372)
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội bồ đề, thời gian đầu Ngài chần chờ không muốn truyền bá giáo pháp. Đến khi chư Thiên xuống đảnh lễ, cầu xin Ngài nên vì chúng sanh mà lập bày phương tiện giáo hóa. Lúc trước đọc sử tới đoạn này tôi hơi ngạc nhiên. Vì Đức Phật phát thệ nguyện lớn, thị hiện nơi đời để độ chúng sanh, sao bây giờ thành Phật rồi, Ngài không chịu đi truyền bá Chánh pháp, đợi năn nỉ mới chịu thuyết pháp.
15/01/2015(Xem: 12959)
Con xin thành kính đảnh lễ và tri ân: -Đức Đạt Lai Lạt Ma,và Hòa Thượng Lhakor cùng Thư Viện Tây Tạng đã hoan hỷ cho phép con được chuyển dịch nguyên tác “The Way to Freedom” từ Anh Ngữ sang Việt Ngữ.
05/01/2015(Xem: 18923)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
22/11/2014(Xem: 28110)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
20/10/2014(Xem: 33031)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
18/08/2014(Xem: 58369)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
16/06/2014(Xem: 15849)
Tam quy và Ngũ giới là nền tảng xây dựng đạo đức nhân bản vững chắc trong tiến trình tu tập tiến đến Phật quả của người Phật tử. Bất cứ ai muốn trở thành một người Phật tử chơn chánh, điều kiện trước tiên là phải quy y Tam bảo và thọ trì năm giới cấm. Đây là cánh cửa khai thông đầu tiên để người Phật tử bước chân vào đạo Phật. Muốn thực tập con đường "Hiểu" và "Thương" cho có hiệu quả thiết thực, thiết nghĩ, ngoài con đường "Tam quy và Ngũ giới" ra, hẳn là không có con đường nào khác để chúng ta chọn lựa. Có hiểu và thương thì chúng ta mới có thể tiến đến xây dựng hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội. Là con người không ai lại không muốn đời mình luôn được an vui và hạnh phúc. Không ai muốn đời mình phải chịu nhiều đắng cay hệ lụy đau khổ bao giờ. Sự chọn lựa một lối đi cho thích hợp với đời sống tâm linh của mình thật hết sức quan trọng.
21/01/2014(Xem: 22188)
Đọc bản dịch Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của anh Lý Việt Dũng, tôi không khỏi thán phục khi biết sức khỏe anh rất kém mà vẫn phấn đấu kiên trì để hoàn thành dịch phẩm khó khăn này một cách đầy đủ chứ không lược dịch như ý định ban đầu.
21/12/2013(Xem: 7076)
Đây là danh từ Phật học nên không thể tìm thấy trong những từ điển thông thường thuộc các ngành khoa học tự nhiên hay cũng không thể tìm thấy trong các từ điển thuộc về khoa học xã hội, Kinh tế , văn học, triết học, tôn giáo học… Trong tự điển tiếng Việt của Viện Khoa Học Xã Hội và Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam vẫn không tìm thấy từ nầy.
20/12/2013(Xem: 36410)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]