Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm Pháp ở đâu?

19/10/201010:16(Xem: 4750)
Tìm Pháp ở đâu?
TÌM PHÁP Ở ĐÂU?
Minh Tâm

Theo Phật học Từ điển thì danh từ Pháp có rất nhiều nghĩa, mà nghĩa rộng nhất và bao trùm nhất là định nghĩa: "Quỹ sinh vật giải, nhậm trì tự tánh", dịch nghĩa là những hình dáng cấu tạo, giải thích rõ một vật, nắm giữ tự tánh của nó, không cho lầm lẫm với vật khác. Theo định nghĩa này thì Pháp là tất cả mọi sự vật ở trên thế gian, dù có hình dáng hay không có hình dáng, dù có thật hay tưởng tượng, người, thú, cỏ cây cũng đều là Pháp, ánh sáng, âm thanh cũng là Pháp, luân hồi nhân quả cũng là Pháp, tư tưởng, hành động cũng là Pháp. Nhưng theo định nghĩa được dùng nhiều nhất, dễ hiểu nhất thì Pháp là những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi chép bằng chữ của người đời, gọi là Kinh. Luật. Còn Luận là những lời bàn của các vị đại Bồ tát, đệ tử của Phật để làm sáng tỏ thêm những lời Phật dạy. Kinh, Luật và Luận được gọi là Tam tạng Pháp bảo.

Vậy câu hỏi "Tìm Pháp ở đâu?" thoạt nghe thật dễ trả lời. Tìm Pháp trong các cuốn kinh Phật, trong Tam tạng Pháp bảo, mà kinh Phật thì nhiều lắm dễ tìm. Cứ đến các chùa, thư viện, các nhà Phật tử thì thấy ngay. Câu này thật ra chỉ đúng một phần thôi, đó là về mặt sự, còn thiếu mặt lý nữa. Người xưa đã dạy: "Đọc kinh cầu lý", khi đọc kinh đừng đọc như con vẹt, chẳng hiểu gì cả, đừng đọc cho lấy lệ hoặc để người khác kính nể, mà phải tìm nghĩa lý câu kinh. Lý đây là nghĩa ẩn, nghĩa bóng, chứ không phải nghĩa đen, chữ đâu nghĩa đó.

Cuốn kinh Phật nào cũng quý báu cũng dạy chúng sinh đường lối tu hành để được thoát khổ, được vui, được giác ngộ và giải thoát ra khỏi vòng luân hồi trong ba cõi, sáu đường. Vì vậy, các đệ tử Phật, sau khi quy y Phật rồi thì phải quy y Pháp là tuân theo lời dạy của Phật, hiểu rõ và thực hành những lời Phật dạy, sống theo Pháp, hòa mình vào Pháp, nhập làm một với Pháp.

Tất cả mọi sự vật đều có hình tướng riêng biệt, nhưng đều chung một bản thể, đó là Pháp tánh. Những ai thâm nhập được bản thể ấy, thấu hiểu Pháp tánh thì đạt đến sự thật, chứng ngộ chân lý. Pháp tánh đó không hình không tướng, chỉ bàng bạc trong không gian và thời gian, và được thể hiện qua các luật thiên nhiên như luân hồi, nhân quả, duyên khởi. Những ai thuận với thiên nhiên, sống với luật thiên nhiên và nhất là không làm trái với luật đó thì được gọi là người thực hành chánh pháp; còn những ai không tuân theo chánh pháp mà sống ngược lại với luật Phật, luật thiên nhiên, thì người đó thực hành tà pháp. Nếu đã biết cùng chung một bản thể, một nguồn gốc, thì tất cả chúng sinh đều có liên hệ với nhau, tất nhiên phải yêu thương lẫn nhau, hòa thuận lẫn nhau, dìu bước nhau tiến đến chỗ sáng suốt an vui, không còn chia rẻ hận thù, tất cả được ví như con một nhà, chim một tổ.

Trước khi nhập Niết bàn, Phật có căn dặn các đệ tử cứ theo chánh pháp mà tu thì cũng như Phật còn tại thế. Nhưng trong kinh điển Đại thừa Phật giáo có câu: "Chánh pháp còn phải bỏ huống chi tà pháp". Như vậy có mâu thuẫn không? Tà pháp thì dĩ nhiên phải bỏ rồi, nhưng chánh pháp sao cũng phải bỏ? Đây là lời Phật dạy các đại đệ tử, những vị đã dày công đức tu hành, chứng quả, đừng chấp nê vào danh từ, ngôn ngữ, ôm chặt những gì đã có, mà còn phải vươn lên nữa, vượt qua những danh từ, ngôn ngữ là những ước lệ tương đối để đạt đến chỗ tuyệt đối, mà danh từ ngôn ngữ không sao diễn tả nổi. Chánh pháp được ví như chiếc bè đưa người qua sông, rất quý báu và hữu ích, nhưng qua sông rồi thì không cần dùng đến bè nữa, nếu cứ ôm bè theo thì sẽ trở ngại cho việc đi đường. Người tu theo tinh thần Đại thừa luôn luôn cố gắng vượt qua ngôn ngữ, văn tự để đạt tới lý "Không", tới chỗ nhiệm mầu của trí tuệ Bát nhã, đó là phương pháp của các thiền sư "Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, dĩ tâm ấn tâm..."

Đó cũng là diệu nghĩa của câu "Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan". Nếu y như kinh, chữ đâu nghĩa đó mà giảng giải ý nghĩa thì oan cho ba đời chư Phật, vì những bài kinh, những câu chuyện chỉ là nghĩa đen, là những tỷ dụ (paraboles)dẫn dắt đến những nghĩa bóng đàng sau, đó mới là chân lý mà chư Phật muốn đề cập đến. Cũng như chúng ta thường đọc các câu chuyện cổ tích hoặc ngụ ngôn của La Fontaine, nếu cứ chấp nhận con cáo và con quạ biết nói, con rùa chạy nhanh hơn con thỏ... thì thật là ấu trĩ và không có lợi bao nhiêu. Nhưng nếu suy ra những bài luân lý ẩn sau những câu chuyện ngụ ngôn, rồi thực hành bài luân lý, thì chắc chắn được lợi ích rất nhiều.

Trong truyện Tây Du, có tiểu thuyết hóa sự tích ngài Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh, bị ngài A Nan đưa ra những bộ kinh không có chữ (Kinh vô tự), sau phải xin đổi lấy những bộ kinh có chữ. Kinh vô tự chính là những sự thật tuyệt đối mà không ngôn ngữ, văn tự nào có thể diễn tả nổi, đó mới là chân lý vượt ra ngoài vòng tương đối và phân biệt. Đấy mới là chánh pháp mà ngài Duy Ma Cật lặng thinh, ngài Ca Diếp mỉm cười, ngài Đạt Ma quay vào vách chín năm không nói. Chánh pháp này chỉ có thể dùng tâm mà chứng, dùng tánh mà nhập, chứ không thể dùng văn chương, chữ nghĩa mà diễn tả trình bày. Nhưng đối với chúng sinh còn mê muội, có mắt như mù, có tai như điếc thì chư Phật phương tiện dùng lời nói và danh từ để giảng giải mở rộng và chỉ bày (khai, thị) cho chúng sinh thấu hiểu sâu vào (ngộ, nhập) chân lý; vì vậy cho nên ngài Huyền Trang phải thỉnh kinh có chữ đem về truyền bá tại Trung Quốc.

Tụng đọc kinh Phật cần vượt qua nghĩa đen, bỏ qua danh từ tầm thường để thâm nhập nghĩa bóng, tìm ra sự thật ẩn náu bên trong, rồi đem ra thực hành, thuận theo lời Phật dạy, hòa hợp với luật thiên nhiên, quên mình, lợi người, tự giác giác tha, thì đó là những người đã tìm ra Pháp và sống với Pháp.

Vậy trở lại câu hỏi "Tìm Pháp ở đâu?", chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển. Luật thiên nhiên đã có từ vô thủy, dù Phật ra đời hay không thì luật vẫn có, vô thường vẫn hiển nhiên, nhân quả vẫn rõ ràng. Trong thời kỳ không có Phật ra đời, những ai thấy lá rụng hoa rơi mà suy gẫm ra lẽ vô thường, theo đó mà tu hành giác ngộ thì được gọi là Độc Giác Phật, những vị đó đã tìm ra chánh pháp, mặc dù không được nghe lời Phật dạy. Như vậy thì chánh pháp sẵn có từ ngàn xưa, lá rụng hoa tàn, trăng tròn rồi khuyết, lửa cháy, nước trôi, sinh lão bệnh tử, hợp rồi lại tan... tất cả đều là những hình tướng của luật thiên nhiên, của Pháp. Tìm ra Pháp rồi thì phải sống theo Pháp, nghĩa là phải tu, phải sửa sao cho thuận với Pháp, từ lời nói đến việc làm đều đúng với chân lý, hợp với bản thể của muôn loài, thì chắc chắn sẽ được giác ngộ và giải thoát.

(1) Trích: Minh Tâm, "Tìm Phật Ở Đâu?", NXB Văn Nghệ, California, Hoa Kỳ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2022(Xem: 2105)
Được sự thương tưởng và hỗ trợ của chư Tôn đức và quí vị thiện hữu hảo tâm, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 9 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận vùng núi Khổ Hạnh Lâm & các làng ven quốc lộ từ Bodhgaya đi Varanasi, tiểu bang Bihar India .
10/12/2022(Xem: 4134)
Kính chia sẻ cùng chư Tôn Đức, chư pháp lữ, và quí thiện hữu một số hình ảnh trong mùa Tipitaka (Đại Tạng Kinh PaLi) khai hội tại Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là lần thứ 17 trùng tụng Tipitaka theo thông lệ hàng năm. Lễ hội quan trọng năm 2022 này do Phật Giáo Việt Nam đăng cai tổ chức nên tất cả mọi trần thiết, trang hoàng đều do Ban tổ chức Hội trùng tụng Kinh tạng Pali VN thực hiện, nổi bật nhất là cổng chào với hình ảnh hoa tươi rực rỡ “Lưỡng Long chầu Pháp Luân” rất đẹp mắt, khiến ai ai cũng trầm trồ ngợi khen và tán dương công đức. Lễ hội trùng tụng Tipitaka năm nay có các nước Phật Giáo tham gia trùng tụng Đại Tạng như: Nepal, Sri-Lanka, Lao, Campuchia, ThaiLand, Myanmar, Việt Nam, Bangladesh, India, International...Chương trình được khai mạc trang trọng vào ngày 2 tháng 12 cho đến ngày 12/12/2022 là bế mạc, với gần 5000 người tham dự . Nguyện cầu tiếng kinh này vang vọng đến ba ngàn thế giới khiến chúng sanh vạn loài thảy đều nghe ba nghiệp từ đó được thanh tịnh. Và xin nguyện
03/12/2022(Xem: 1329)
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
25/11/2022(Xem: 1665)
Lời mở đầu của người chuyển ngữ Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
25/11/2022(Xem: 4043)
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI. Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
22/10/2022(Xem: 2707)
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
12/10/2022(Xem: 1540)
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
30/09/2022(Xem: 2934)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính quý thiện hữu ''Sứ giả Từ Bi'' Đạo Tràng Kim Đài - CA Xin tường trình cùng Đại chúng. Tánh Tuệ vừa hoàn tất 8 giếng nước do quí Thiện hữu bố thí cho dân nghèo xứ Phật và vẫn Continue hoàn tất những giếng nước khác do quí thiện hữu phat tâm.
25/09/2022(Xem: 3498)
Thấm thoát đã đến Giỗ Trăm Ngày Cố Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Hoa Khai danh Không Ngại Thân mẫu Trụ Trì tại Quan Âm
21/09/2022(Xem: 2562)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Chân Tâm chính là gia bảo Tâm, chẳng lẽ không quý trọng hơn tiền tài, vật chất sao? Bởi không có tâm thì ai đặt lên vật chất những giá trị? Tâm là bà mẹ sinh ra những đứa con (vật chất), nhưng phần nhiều con người ta thà vì tiền tài danh lợi mà phụ rẫy bản tâm, mà khiến cho tâm tổn thương chảy máu. - Quả báo của tất cả hạnh phúc, xuất phát từ Tâm. Sự trừng phạt của tất cả khổ đau, cũng bắt nguồn từ Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567