Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời kết

09/05/201311:09(Xem: 8987)
Lời kết
Các Bộ Phái Phật Giáo Ở Ấn Độ


Lời Kết

Thượng tọa Thích Nguyên Tạng
Nguồn: Dr.Nalinaksha Dutt. Thượng tọa Thích Nguyên Tạng


Sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cuộc kết tập lần thứ nhất với sự chủ trì của Trưởng lão Đại Ca Diếp (Mahakassapa) được tổ chức vào năm 487 hoặc 483 trước Tây-lịch. Là thị giả và là đệ nhất đa văn trong số 10 đệ tử hàng đầu của Đức Phật, tôn giả A-Nan tuyên đọc lại những lời dạy của ngài, sau đó được kết tập thành Kinh Tạng, còn tôn giả Ưu-ba-ly (Upali), vị đệ nhất về trì giới, thì tuyên thuyết lại các giới bản được soạn thảo để các tăng ni thọ trì, sau đó được viết thành Luật Tạng. Văn bản của cuộc kết tập này được tất cả tăng ni tham dự chấp thuận, ngoại trừ trưởng lão Purana người xứ Dakhinagiri, vì ngài muốn có một số thay đổi nhỏ trong bảy hay tám giới điều liên quan tới việc nấu ăn, dự trữ thực phẩm và dùng thức ăn của các tăng sĩ. Đây là một sự khác biệt ý kiến nhỏ, không gây bất hòa trong Tăng đoàn, dù về sau phái Mahisasaka (Hóa Địa Bộ) cho thêm bảy hay tám điều này vào Luật Tạng của họ. Hơn một trăm năm sau Cuộc Kết Tập Kinh Điển Thứ Nhất, những sự bất hòa thực sự đã xảy ra trong Tăng đoàn vào Cuộc Kết Tập Kinh Điển Thứ hai được tổ chức ở thành Vesali. Trong cuộc kết tập này những người bất đồng ý kiến tuyên bố họ không xem các La Hán là hoàn hảo, và rồi từ đó hết chi phái này đến chi phái khác xuất hiện từ hai phái chính yếu là Trưởng Lão Bộ (Theravadin) và Đại Chúng Bộ (Mahasanghikas). Phái Trưởng Lão có mười một chi phái, còn phái Đại Chúng có bảy chi phái. Một số chi phái của Đại Chúng Bộ, đặc biệt là phái Thuyết Xuất Thế Bộ và nhóm chi phái Saila, định cư chính yếu ở Amaravati và Nagarjunakonda thuộc xứ Andhra, không chỉ khẳng định quan điểm của Đại Chúng Bộ vốn là nguồn gốc của họ về sự không hoàn hảo của các La Hán mà còn thần thánh hóa Đức Phật như một đấng siêu thiêng liêng. Ý niệm này đưa tới sự hình thành của giáo thuyết Bồ Tát với triết lý “ Paramita”, tức là hạnh hoàn hảo của Bồ tát gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Liên quan đến sự kiện này, có một điều đáng ghi nhận là phái Pali, tức là phái Theravada có tính cách chính thống và bảo thủ, đã đưa vào Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) của họ 550 câu chuyện tiền thân của Phật (Jatakas = Kinh Bản Sanh) nói về những kiếp trước của Phật Thích Ca và việc ngài thành tựu mười Ba La Mật, tức là họ đưa thêm vào sáu Ba La Mật nói trên thêm bốn hạnh nữa, đó là (7) phương tiện thiện xảo (pháp tu tập để đạt Phật quả); (8) trí (sự hiểu biết về Đạo pháp), (9) nguyện (thệ nguyện đắc quả Phật và (10) lực ( có sức mạnh để tu tập đắc Phật quả). Việc phái Theravada đưa các Ba La Mật vào truyện tiền thân Đức Phật cho thấy họ không phải là không chịu ảnh hưởng của Đại Thừa Giáo. Nhưng tất nhiên việc này chỉ xảy ra rất lâu về sau. Tóm lại, quan điểm của phái Thuyết Xuất Thế Bộ nói trên báo trước sự xuất hiện của Đại Thừa Phật giáo.

(còn tiếp, sẽ đăng toàn bài sau)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 17460)
Thật ngạc nhiên là ngay từ năm 1859 tức là hơn một thế kỷ trước, các học giả Âu châu đã quan tâm tới sự xuất hiện của các Bộ phái Phật giáo (PG) ở Ấn Ðộ, tuy nhiên họ chỉ nói tới tên của những phái này mà không bình luận gì cả. Bài viết sớm nhất là của St. Juliesn "Danh sách mười tám Bộ Phái Phật Giáo" đăng trong tạp chí Journal Asiatique vào năm 1859. Bài viết này được tiếp theo bởi M.V.Vasilief năm 1860, Rhys Davids và Oldenberg năm 1881, H. Kern năm 1884 và I.P.Minayeff năm 1884.
08/04/2013(Xem: 6841)
Lịch sử Phật giáo đã có từ trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, cùng các nước thuộc địa vực Tiểu Á Tế Á. Nam phương là những nước Tích Lan1, Miến Điện2, Thái Lan, Ai Lao3, Cao Miên4, đảo Java, Sumatra trong Nam Dương5 quần đảo và hiện nay Phật giáo đã được phổ cập hầu khắp các nước trên thế giới.
08/04/2013(Xem: 13956)
H. W. Schumann là học giả người Ðức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Ðộ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Ðại học Bonn (Ðức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Ðại học Ấn Ðộ ở Benares, Ấn Ðộ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Ðức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Ðức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka).
08/04/2013(Xem: 37504)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
28/02/2013(Xem: 7234)
Sông Hằng (Gangā)là con sông nổi tiếng nhất trong lục địa Ấn Độ ngày nay. Tầm quan trọng của con sông này được thể hiện qua ảnh hưởng của nó trong lịch sử văn minh Ấn Độ suốt hơn năm nghìn năm qua.Nếu lịch sử tư tưởng Ấn Độ là một phần quan trọng trong lịch sử tư tưởng thế giới thì sông Hằng là một nhân tố quan trọng để hình thành hệ thống tư tưởng uyên thâm của Ấn độ, đặc biệt của Phật giáo. Bài viết này đề cập đến vai trò của sông Hẳng và những tương hệ của nó đối với sự hình thành và phát triển của Phật giáo Ấn Độ.
01/12/2012(Xem: 13921)
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
30/11/2012(Xem: 15193)
Mùa hạ năm 1970 tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, chúng tôi được Thầy Đức Chơn và Thầy Phước Châu giao việc dán lại trang Bát-Kính-Pháp bị nhầm trong sách "Phật và Thánh Chúng" của Thầy Cao Hữu-Đính do Phật Học Viện Trung Phần ấn hành và in tại Nhà in Hoa Sen, NhaTrang. Sau khi công việc hoàn tất, chúng tôi được Quý Thầy cho mỗi người một quyển sách này, tuy rằng lúc ấy chưa phát hành. Lần đầu tiên trong đời, tôi bị tác động rất lớn, qua hình ảnh các Phật-tích ở Ấn Độ và những câu chuyện về Đức Phật và các đệ tử trong quyển sách.
21/11/2012(Xem: 10166)
Quyển sách này hình thành từ các bài giảng của tôi ở Đại học Đại Chính được ghi lại và chỉnh lý, nay giao cho ban in ấn để xuất bản. Tên sách là Lịch Sử Giáo Lý Tịnh Độ Trung Quốc chủ yếu lấy sự phát triển và diễn biến giáo nghĩa của tông Tịnh Độ ở Trung Quốc làm tiêu điểm. Song giáo lý của tôn giáo nhất định phải tùy theo tình tự tín ngưỡng, lại nhờ có đủ tính truyền bá rộng rãi, cho nên đồng thời đối với sự tự thuật giáo nghĩa và sự diễn biến phát triển cũng đều được ghi lại thành sự kiện lịch sử của sự truyền bá.
14/11/2012(Xem: 7202)
Để có thể nắm vững hơn về Phật giáo trong tình trạng hiện nay, có thể chúng ta cần nói thêm về lịch sử Phật giáo và ba truyền thống chính là Phật giáo Nguyên thủy, Đại thừa và Kim cương thừa. Ông có thể giải thích thêm vài nét chính về các truyền thống ấy hay chăng ? Ta hãy bắt đầu với Phật giáo Nguyên thủy ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]