Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời kết

09/05/201311:09(Xem: 8994)
Lời kết
Các Bộ Phái Phật Giáo Ở Ấn Độ


Lời Kết

Thượng tọa Thích Nguyên Tạng
Nguồn: Dr.Nalinaksha Dutt. Thượng tọa Thích Nguyên Tạng


Sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cuộc kết tập lần thứ nhất với sự chủ trì của Trưởng lão Đại Ca Diếp (Mahakassapa) được tổ chức vào năm 487 hoặc 483 trước Tây-lịch. Là thị giả và là đệ nhất đa văn trong số 10 đệ tử hàng đầu của Đức Phật, tôn giả A-Nan tuyên đọc lại những lời dạy của ngài, sau đó được kết tập thành Kinh Tạng, còn tôn giả Ưu-ba-ly (Upali), vị đệ nhất về trì giới, thì tuyên thuyết lại các giới bản được soạn thảo để các tăng ni thọ trì, sau đó được viết thành Luật Tạng. Văn bản của cuộc kết tập này được tất cả tăng ni tham dự chấp thuận, ngoại trừ trưởng lão Purana người xứ Dakhinagiri, vì ngài muốn có một số thay đổi nhỏ trong bảy hay tám giới điều liên quan tới việc nấu ăn, dự trữ thực phẩm và dùng thức ăn của các tăng sĩ. Đây là một sự khác biệt ý kiến nhỏ, không gây bất hòa trong Tăng đoàn, dù về sau phái Mahisasaka (Hóa Địa Bộ) cho thêm bảy hay tám điều này vào Luật Tạng của họ. Hơn một trăm năm sau Cuộc Kết Tập Kinh Điển Thứ Nhất, những sự bất hòa thực sự đã xảy ra trong Tăng đoàn vào Cuộc Kết Tập Kinh Điển Thứ hai được tổ chức ở thành Vesali. Trong cuộc kết tập này những người bất đồng ý kiến tuyên bố họ không xem các La Hán là hoàn hảo, và rồi từ đó hết chi phái này đến chi phái khác xuất hiện từ hai phái chính yếu là Trưởng Lão Bộ (Theravadin) và Đại Chúng Bộ (Mahasanghikas). Phái Trưởng Lão có mười một chi phái, còn phái Đại Chúng có bảy chi phái. Một số chi phái của Đại Chúng Bộ, đặc biệt là phái Thuyết Xuất Thế Bộ và nhóm chi phái Saila, định cư chính yếu ở Amaravati và Nagarjunakonda thuộc xứ Andhra, không chỉ khẳng định quan điểm của Đại Chúng Bộ vốn là nguồn gốc của họ về sự không hoàn hảo của các La Hán mà còn thần thánh hóa Đức Phật như một đấng siêu thiêng liêng. Ý niệm này đưa tới sự hình thành của giáo thuyết Bồ Tát với triết lý “ Paramita”, tức là hạnh hoàn hảo của Bồ tát gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Liên quan đến sự kiện này, có một điều đáng ghi nhận là phái Pali, tức là phái Theravada có tính cách chính thống và bảo thủ, đã đưa vào Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) của họ 550 câu chuyện tiền thân của Phật (Jatakas = Kinh Bản Sanh) nói về những kiếp trước của Phật Thích Ca và việc ngài thành tựu mười Ba La Mật, tức là họ đưa thêm vào sáu Ba La Mật nói trên thêm bốn hạnh nữa, đó là (7) phương tiện thiện xảo (pháp tu tập để đạt Phật quả); (8) trí (sự hiểu biết về Đạo pháp), (9) nguyện (thệ nguyện đắc quả Phật và (10) lực ( có sức mạnh để tu tập đắc Phật quả). Việc phái Theravada đưa các Ba La Mật vào truyện tiền thân Đức Phật cho thấy họ không phải là không chịu ảnh hưởng của Đại Thừa Giáo. Nhưng tất nhiên việc này chỉ xảy ra rất lâu về sau. Tóm lại, quan điểm của phái Thuyết Xuất Thế Bộ nói trên báo trước sự xuất hiện của Đại Thừa Phật giáo.

(còn tiếp, sẽ đăng toàn bài sau)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/11/2013(Xem: 50855)
"Đức Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Của Tôi" là một tập tự truyện của Mẫu Thân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một tập sách hấp dẫn do Cụ bà Diki Tsering, Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại những chi tiết sinh động trong cuộc đời của mình, từ một phụ nữ nông thôn bình thường, bỗng chốc đã trở thành một người đàn bà có địa vị cao nhất trong xã hội, làm Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người lãnh đạo quốc gia Tây Tạng.
22/10/2013(Xem: 19200)
Là người Việt Nam, bất luận bình dân hay trí thức, chúng ta đều thấy có trọng trách tìm hiểu những gì liên hệ với dân tộc và đất nước thân yêu của mình. Sự tìm hiểu ấy giúp cho chúng ta có nhận thức chính xác về tư tưởng, tánh tình đồng bào ta. Nếu là người trí thức Việt Nam mà không biết gì về truyền thống của dân tộc thì không xứng đáng là trí thức. Thế nên, sự nghiên cứu những mối liên quan với dân tộc, thực là điều kiện tối thiểu của những người yêu dân tộc, quê hương xứ sở.
09/10/2013(Xem: 12445)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18 tháng 9 năm 2013, trong mục Địa Lý và Chính Trị và qua một bài viết của ký giả Frédéric Robin đặc phái viên ở New Delhi, đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni (Lumbini). Dưới đây là phần chuyển ngữ.
19/09/2013(Xem: 27714)
Không biết tự khi nào, tôi đã lớn lên trong tiếng chuông chùa làng, cùng lời kinh nhịp mõ. Chùa An Dưỡng (xem tiểu sử), ngôi chùa làng, chỉ cách nhà tôi chừng 5 phút đi bộ. Nghe Sư phụ kể lại, chùa được xây dựng vào khoảng từ 1690 đến năm 1708, do công khai sơn của Hòa Thượng Thiệt Phú, người Tàu sang Việt Nam truyền giáo cùng với các thiền sư khác. Trong chuyến đi hoằng pháp vào đàng trong, Ngài đã xây dựng ngôi chùa này. Chùa nằm trên một khu đất cao nhất làng, quanh năm bao phủ một màu xanh biếc của những khóm dừa, những lũy tre làng thân thương.
05/06/2013(Xem: 4911)
Vào khoảng 4giờ chiều của ngày 10 tháng 09 năm 2003, chuẩn bị đi tụng kinh thì điện thoại lại reo. Nhấc phone để nghe và vừa niệm A Di Đà Phật, thì đầu dây vọng lại cho hay ...
01/06/2013(Xem: 21282)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
27/05/2013(Xem: 6530)
Bài này tìm học rõ ngày sinh của đức Phật. Trên thế giới ngày nay có năm tôn giáo lớn: đạo Cơ Đốc, đạo Hồi, đạo Ấn Độ, đạo Do Thái và đạo Phật. Hai tôn giáo có tính cách cục bộ là đạo Ấn Độ (Hinduism) và đạo Do Thái (Judaism). Đạo Ấn Độ vào đầu thiên niên kỷ Ba đếm 700 triệu tín đồ, tức là 13% dân số thế giới. Đạo Do Thái rất ít tín đồ, 18 triệu người trên dân số thế giới gần 7 tỉ, thế nhưng ảnh hưởng bao la trên lịch sử, chính trị và kinh tế thế giới.
25/05/2013(Xem: 10416)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
15/05/2013(Xem: 3497)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận śūnyatāvāda) và Du-già hành tông (Yogācāra) hay trường phái Duy thức (Vijñānavāda). Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến triết học Trung quán (Madhyamaka Philosophy) hay triết học Tánh không (śūnyatā). Nói chung, đương thời có ba tên gọi dành cho Tiểu thừa và Đại thừa. Ba tên gọi dành cho Tiểu thừa là Phật giáo Nam truyền (Southern Buddhism), Phật giáo Nguyên thuỷ (Original Buddhism), và Phật giáo Tiểu thừa (Hīnayāna). Ba tên gọi dành cho Đại thừa là Phật giáo Bắc truyền (Northern Buddhism), Phật giáo Phát triển (Developed Buddhism), và Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna). Hai danh xưng đầu là do các học giả Châu Âu. Bắc truyền và Nam truyền là dựa trên yếu tố địa lý. Các học giả Châu Âu cho rằng đạo Phật được truyền bá sang các quốc gia phía Bắc Ấn Độ như Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa , Nhật Bản, v.v... là Phật giáo Bắc truyền, và Phật giáo Nam truyền là đạo Phật được truyền bá đến các quốc gia
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]