Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Xứng Đôi ( do HT. Thích Thiện Châu giảng giải, Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202307:56(Xem: 2018)
Kinh Xứng Đôi ( do HT. Thích Thiện Châu giảng giải, Phật tử Diệu Danh diễn đọc)


sen tuyet (4)
KINH XỨNG ĐÔI

Giảng giải: HT Thích Thiện Châu

Phật tử Diệu Danh diễn đọc



 

 

   

          GIỚI THIỆU

 

          Bản kinh này được trích dịch từ Tăng Chi Bộ (Anguttarannikâya) tập II trang 61-62 Pâli Text Society xuất bản. Nội dung kinh thật là dễ hiểu: Phật đến thăm gia đình cha mẹ Nakula. Cha mẹ Nakula đón tiếp Phật và trình bày sự yêu thương chung thủy với nhau trong niềm mong ước được sống bên nhau mãi mãi, không những trong đời này mà cả đời sau. Phật ca ngợi và khuyên dạy ông bà cùng hướng thiện và tu dưỡng để có thể thực hiện được điều mong ước đó.

          Theo Phật và đạo lý nhân duyên, nhân quả và tái sinh thì sự yêu kính chung thủy của hai vợ chồng chưa đủ để có thể gặp nhau, gần nhau trong hạnh phúc chân thật lâu dài, nhất là tái ngộ trong đời sau, mà phải cùng nhau sống có lý tưởng cao thượng bằng cách đặt niềm tin vào ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng, tu dưỡng bản thân theo giới hạnh (2), làm lợi ích cho mọi người, và trau dồi khả năng nhận thức sự thật để được giác ngộ. Hai vợ chồng đều phải hướng thiện và tiến bộ như nhau thì mới có thể gần nhau  mãi mãi trong chân lý và tình thương. Nếu chỉ một mình chồng hay vợ hướng thiện và tiến bộ thì ắt không thể có được một cuộc sống chung hạnh phúc hòa hài ngay trong hiện tại chứ đừng nói đến tương lai. Dù có cố gắng sống chung với nhau trong sự đối nghịch giữa vợ và chồng trong hiện tại thì cuộc sống chung ấy không thể tạo thêm phước duyên gì cho đời sau. Trong đời này, vợ chồng đã không cùng có những nghiệp giống nhau thì trong kiếp sau hai người không thể cùng tái sinh trong một loài, một cõi được. Ví dụ: vợ với nghiệp người có trí tuệ từ bi, tái sinh làm người, trong khi đó chồng với nghiệp quỷ, nhiều mê lầm và ích kỷ, tái sinh làm quỷ thì không có thể thấy nhau và sống với nhau được.

          Cũng theo ý Phật thì cuộc sống vợ chồng là cuộc sống của hai người khác phái, muốn sống chung với nhau, do đó hai người, ngoài tình yêu thương nhau, phải biết áp dụng nghệ thuật sống chung như trong kinh Sigâlovâda thuộc Trường Bộ nêu rõ:

          Là chồng thì nên:

1.    Đối đãi và nói năng hòa nhã với vợ

2.    Không khinh miệt và phản bội vợ trong mọi trường hợp

3.    Thủy chung với vợ

4.    Giao trọn quyền nội trợ cho vợ

5.    Mua sắm áo quần, nữ trang cho vợ.

Là vợ thì nên:

1.    Tích cực điều khiển việc nhà

2.    Yêu chuộng bà con của nhà chồng

3.    Tiết hạnh với chồng

4.    Giữ gìn tài sản nhà chồng

5.    Khéo léo trong công việc gia đình

Như vậy, muốn cho cuộc sống vợ chồng được bền lâu, hạnh phúc thì cả hai người phải biết nâng cao và chuyển hóa không những chỉ là tình yêu thương chồng vợ mà thêm cả nghĩa quí trọng bạn đời, bạn đạo, chung sống với nhau một lý tưởng cao thượng.

Cũng qua ý kinh này chúng ta thấy rõ đạo Phật không khuyến khích tất cả mọi người rời bỏ cuộc đời hay xem nhẹ hạnh phúc gia đình, xã hội. Lẽ dĩ nhiên Phật có khuyến khích những người có đủ khả năng"độ mình, độ người" xuất gia tu hành, song số tu sĩ xuất gia, ngay trong lúc Phật còn ở đời, chỉ là số ít, trong khi đó cư sĩ tại gia là phần đông, cho nên trong ba tạng kinh điển có rất nhiều kinh dạy cho cư sĩ tại gia là phần đông, cho nên trong ba tạng kinh điển có rất nhiều kinh dạy cho cư sĩ tại gia những phương pháp "cư trần lạc đạo". Phật hóa gia đình xã hội.

Mặc dù đạo Phật là đạo hướng dẫn con người thoát khỏi bể trầm luân, song đối với những người chưa có khả năng giải thoát ngay được thì đạo Phật lại hướng dẫn họ tiến hóa để được thụ hưởng hạnh phúc trong các cõi người, cõi trời, trong khi còn phải sống chết, chết sống trong luân hồi. Nói cách khác, lý thuyết tái sinh theo đạo Phật không phải là điều gì khắc nghiệt, đày đọa chúng sinh mà là một đạo lý nói rõ sự biến chuyển thăng trầm đau khổ của chúng sinh với mục đích giúp đỡ con người tiến hóa và giải thoát.

 

BẢN DỊCH KINH XỨNG ĐÔI

 

Một thời Thế Tôn sống giữa những người Bhagga trên núi Sumsumâra, tại vườn nai trong rừng Bhesakalâ. Vào một buổi sáng Thế Tôn đắp y, cầm bình bát và đi đến nhà của gia chủ Nakula (3). Sau khi Thế Tôn đến ngồi vào chỗ đã soạn sẵn, gia chủ cha Nakula và nữ gia chủ mẹ Nakula (4) đến gần đảnh lễ ngài rồi ngồi xuống một bên. Đoạn gia chủ cha Nakula bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, từ khi nữ gia chủ mẹ Nakula còn trẻ được cưới về cho con cũng còn trẻ (5) con chưa hề làm điều gì quấy đối với mẹ gia chủ Nakula, ngay trong tâm ý chứ đừng nói đến hành động, bởi vì, bạch Thế Tôn, chúng con muốn thấy nhau trong đời này và thấy nhau trong đời sau nữa.

Nữ gia chủ mẹ Nakula cũng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, từ khi con còn trẻ được cưới về cho gia chủ cha Nakula cũng còn trẻ, con không hề làm gì quấy đối với gia chủ cha Nakula, ngay trong tâm ý chứ đừng nói đến hành động, bởi vì bạch Thế Tôn, chúng con muốn thấy nhau trong đời này và thấy nhau trong đời sau nữa.

Bây giờ Thế Tôn nói như sau:

- Này gia chủ, nếu hai vợ chồng muốn thấy nhau trong đời này và thấy nhau trong đời sau và cả hai đều có niềm tin như nhau, giới hạnh như nhau, bố thí như nhau (6), trí tuệ như nhau (7) thì các người được thấy nhau trong đời sau.

 

CHÚ THÍCH SƠ LƯỢC

(1) Đề kinh dịch là Xứng đôi theo bản dịch của T.T. Minh Châu, Tăng Chi Bộ Kinh, tập A II, Tủ thư Phật học Vạn Hạnh, 1978, trang 67.

(2) Giới hạnh: sống theo năm giới của người tại gia

(3) (4) Cha Nakula, mẹ Nakula: lối xưng lấy tên con làm chủ. Con tên là Nakula nên gọi cha là cha Nakula và mẹ là mẹ Nakula

(6) Bố thí: san sẻ, chia sớt, hy sinh

(7) Trí tuệ: học tập, suy nghĩ, và thực nghiệm (văn, tu, tư) những điều phù hợp với sự thật về con người và vũ trụ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/01/2025(Xem: 636)
Khi lên 11 tuổi, Hòa Thượng được Ngài Thích Nguyên Thần, hiệu Tịnh Thông (vốn là người cậu trong gia đình) dẫn đến Tu Viện Nguyên Thiều, Thôn Đại Lễ, Xã Phước Hiệp, Huyện Tuy Phước, Tỉnh Bình Định để xuất gia tu học. Ngày 15 tháng 4 năm 1970 : Cố Hòa Thượng Thích Đồng Thiện, Đệ Nhất Trụ Trì Tu Viện Nguyên Thiều, làm Lễ Xuất Gia chính thức, thế phát cho Hòa Thượng, đặt Pháp Danh là Thị Anh (Hồng Anh), là đệ tử của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Vị Trưởng Ban Sáng Lập và là Giám Viện của Tu Viện Nguyên Thiều.
15/12/2024(Xem: 958)
Lễ Tưởng Nguyện Cố Hòa Thượng Thích Giải Quảng tại Tu Viện Từ Ân, Melbourne, Úc Châu (14/12/2024)
06/11/2024(Xem: 1182)
Vào lúc 08h30 sáng nay, ngày 05/11/2024 (nhằm mồng 5 tháng 10 Giáp Thìn), môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm tổ chức đại lễ Tưởng niệm huý nhật lần thứ 3 (2019-2024) Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Như Ý, huý Trừng Huệ, hiệu Ấn Bảo, nguyên Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng minh, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, khai sơn các chùa Linh Sơn Pháp Bảo (X.Vĩnh Ngọc, TP. Nha Trang), Linh Sơn Pháp Ấn (X. Suối Cát, Cam Lâm) và chùa Linh Sơn Phước Điền (X. Phước Đồng, TP. Nha Trang).
30/10/2024(Xem: 819)
Hòa thượng họ Trần, húy Văn Vinh, pháp danh Chơn Phú, tự Chánh Hữu, hiệu Thích Bích Lâm. Ngài sinh ngày 24 tháng 11 năm Giáp Tý (1924) tại phường Đệ Nhị- Nha Trang- Khánh Hòa, thân phụ là cụ Trần Đức Tựu, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Đủ. Sớm có nhân duyên với Phật pháp, Ngài được Hòa thượng Thích Phước Huệ, chùa Sắc Tứ Hải Đức cho quy y ngày 19 tháng 2 năm Nhâm Thân (1932), pháp danh Chơn Phú. Đến ngày 15 tháng 10 năm Kỷ Mão (1939), Ngài được Hòa thượng cho thế độ, phú pháp tự là Chánh Hữu, hiệu Bích Lâm. Năm 1945, Ngài thọ Tam đàn Cụ Túc tại chùa Sắc Tứ Hải Đức do Hòa thượng Phước Huệ tái thí, truyền trao giới pháp. Năm 1946 Ngài được đề cử trụ trì Tổ đình Nghĩa Phương.
22/10/2024(Xem: 823)
Hòa Thượng thế danh Lê Đình Nam, sinh năm Mậu Thân (1908) trong một gia đình trung nông, có truyền thống Nho học. ở làng Đại An, xã Kỳ Long (nay là xã Tam Thái, huyện Phú Ninh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Lê Văn Thơ, Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mới. Những năm đầu của thập niên 40, Ngài mới có nhân duyên gặp Phật Pháp và cũng trong thời gian này Ngài cùng với người anh là Lê Trọng Hoàng, em là Lê Tấn Phước cùng với Phật tử Nguyễn Quế phát tâm sáng lập chùa Đại An tại quê nhà vào năm 1944.
21/10/2024(Xem: 735)
Trong đêm dài vô minh, với nổi khổ vô biên của chúng sanh, Chư Phật, Chư Tổ sư, liệt vị Tăng-già đã truyền thắp cho nhau ngọn đèn vô tận để soi sáng cung ma, biến uế độ thành tịnh độ. Trong sự tiếp nối chí nguyện thù thắng đó, Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Đệ lục Tăng thống GHPGVNTN đã đem bi tâm phổ hóa quần sanh, thắp đèn tuệ dẫn người ra khỏi rừng tà, vận đức dũng giữ nền đạo thống, dựng đứng dậy những gì đã sụp đổ, mang lý tưởng Bồ-tát đạo dưỡng nuôi chánh tín trong lòng tứ chúng.
20/10/2024(Xem: 1086)
Để tưởng niệm, ngày giáp năm của một bậc Tôn Túc mà suốt đời đã phụng hiến cho Đạo Pháp, dân tộc và nhân loại; đã hiến dâng con đường giáo dục tri thức cho nhiều thế hệ hôm nay và mai sau; đã phát nguyện cho công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh được sớm thành tựu viên mãn: “Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng.” Dù Hòa Thượng đã chích lý Tây quy, nhưng hình hài và âm hưởng vẫn luôn tồn tại sâu xa trong tâm khảm của mỗi chúng ta, hàng tứ chúng đệ tử Phật. Do vậy, Ban Tổ Chức, nhất tâm đảnh lễ và kính thỉnh chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni từ bi hoan hỷ quang lâm chứng minh, tham dự buổi lễ được tổ chức tại: Địa Điểm: Chùa Kim Quang tại số: 3119 Alta Arden Expy, Sacramento, CA 95825 Thời Gian: 10:00 sáng – 1:00 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 17/11/2024 (nhằm ngày 17 tháng 10 năm Giáp Thìn) Số điện thoại liên lạc: Phó Trưởng BTC HT. Thích Từ Lực số: (510) 331-6899 (tiếng Việt) và phụ tá Thư ký: HTr. Tâm Thường Định: (916) 607-4066 (tiếng Anh)
20/10/2024(Xem: 1122)
Thầy đi rồi cơ nghiệp vẫn còn đây Đại tạng kinh in dấu ấn sâu dày Khúc dương cầm, những áng văn trác tuyệt Tấm lòng son đầy nhiệt huyết quan hoài
10/10/2024(Xem: 2045)
Đây là lần thứ hai tôi đến Tu Viện Gaden Shartse Thubten Dhargye Ling (còn được gọi là Chùa TDL) tại Thành Phố Long Beach, Miền Nam California, Hoa Kỳ. Lần đầu tôi đến đây cách nay vài năm để làm phóng sự cho pháp sự kiến tạo Mạn Đà La do chư Tăng từ Tu Viện Gaden Shartse Monastery tại Ấn Độ sang thực hiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]