Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Những Con Thiêu Thân (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202307:45(Xem: 1801)
Kinh Những Con Thiêu Thân (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

con thieu than
KINH NHỮNG CON THIÊU THÂN

HT. Thích Thiện Châu giảng giải

Phật tử Diệu Danh diễn đọc

I/ Giới thiệu

 

Đây là những bài kinh ngắn được rút ra từ tập "Phật tự thuyết" (Udâna) (2) phẩm thứ 6 trang 72 (Pali texet Society) thuộc tiểu bộ kinh (Khuddaka Nikâya) gồm 15 quyển.

Nội dung kinh nói về: Một hôm  Phật đang ngồi giữa trời, trong đêm tối, bên cạnh dĩa đèn dầu cháy sáng. Sau khi thấy những con kiến cánh, mối bay, dế mèm v.v… tiếp tục rơi vào những dĩa đèn dầu và chết một cách thảm thương, Phật liền nói lên bài kệ mà đại ý như sau:

Trong thế gian có nhiều người giàu lý tưởng, có quyết tâm, đầy thiện chí, luôn luôn muốn mang hết sức cố gắng vượt qua những phiền phức, khó khăn, nhiều khi phải hy sinh cả mạng sống để tìm cầu và thực hiện Chân Thiện Mỹ. Song rất ít người thành tựu được ước nguyện. Nguyên nhân vì đâu? Theo Phật thì bởi vì người đời thiếu trí tuệ  sáng suốt để phân biệt được phải trái, lành ác, chơn giả v.v… hoặc bởi vì không có bạn tốt, thầy sáng dắt dìu chia sẻ kinh nghiệm đứng đắn nên dễ dàng chấp nhận những điều thấy nghe sai lạc của mình hay tin tưởng những lời dạy kinh sách tà vạy, phương pháp tu dưỡng nguy hiểm của kẻ khác mà phải rơi vào vực thẳm tà kiến, vọng tưởng, mê lầm; cuối cùng phải mang lấy tai ương đau khổ. Chúng ta phải chịu đọa đày đau khổ  vì bị rơi vào tà đạo, điều ấy là tất nhiên. Tuy nhiên dù có gặp chánh đạo mà cố chấp nghi lễ, văn tự, tạo thêm những điều ràng buộc phi lý, vô ích gây thêm nhiều phiền não cho mình, cho người và không tự nhận chân lý nơi thực tế thì chúng ta vẫn bị giam hãm trong ngục tù vọng tưởng hay chơi vơi  trên mấy lý luận nói bàn để cười đùa cho vui mà không đem lại thật lợi ích.

Bài học đạo lý của Phật về những con thiêu thân quả thật là giản dị, nhưng chí lý và ích lợi cho những ai muốn trông thấy và được sống trong ánh sáng ấm áp tươi đẹp của mặt trời.

 

 II/ Chánh kinh

 

Tôi nghe như vầy. Một thời Thế Tôn ở tại  Savatthi trong vườn ông Anathapindika và rừng cây Jeta (3). Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi giữa trời , trong đêm tối đen nghịt, với những dĩa đèn dầu cháy sáng. Khi ấy nhiều côn trùng có cánh (4) tiếp tục rơi vào những dĩa đèn dầu ấy, gặp phải tai họa, phải bị hủy diệt, gặp tai họa và bị hủy diệt.

Thế Tôn khi đã thấy những côn trùng có cánh tiếp tục rơi vào những dĩa đèn dầu cháy sáng, gặp phải tai họa, phải bị hủy diệt, gặp tai họa và bị hủy diệt, và sau khi Thế Tôn hiểu được ý nghĩa này, liền nói lên lời cảm hứng này : „chúng chạy gấp, song không tới nơi chân thật, lại làm tăng thêm điều ràng buộc mới mẻ. Những người cố chấp vào những điều thấy nghe giống như những côn trùng rơi vào lửa đèn“

 

III/ Chú thích sơ lược

 

1-    Tựa này do dịch giả đặt ra theo ý nghĩa của kinh.

2-    Phật tự thuyết- Đây là quyển thứ ba trong 15 quyển thuộc tiểu bộ kinh (Kuddaka Nikâya).  L. Woodward dịch ra Anh ngữ; Pâli text society ấn hành 1935. Thượng Tọa Thích Minh Châu đã dịch ra Việt ngữ, tủ thư Phật học Vạn Hạnh ấn tống 1978.

3-    Vườn ông Anathapindika và rừng cây Jeta: ông Anathapindika cảm mộ Phật nên lấy vàng lát đất để mua vườn cho Phật ở (nhưng không lót vàng được những chỗ có cây). Còn thái tử Jeta vì cảm mến lòng thành của ông Anathapindika đối với Phật nên dâng cúng rừng cây cho Phật; do đó mới có danh từ này.

4-    Những côn trùng có cánh như kiến cánh, mối bay, dế mèn, phù du v.v…

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 9538)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hưng ( Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.
09/04/2013(Xem: 8233)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 12334)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 7769)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 7224)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 9079)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 7723)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 7351)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 6830)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 6751)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]