Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Bố Thí (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202307:27(Xem: 1317)
Kinh Bố Thí (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

phat thuyet phap

KINH BỐ THÍ

HT Thích Thiện Châu giảng giải

Phật tử Diệu Danh diễn đọc

 

 

 

I.CHÁNH KINH

Các Tỳ Kheo, có hai loại bố thí: tài thí và pháp thí; các Tỳ Kheo, trong hai loại bố thí này, pháp thí là cao nhất. Các Tỳ Kheo, có hai loại phân phát: phân phát của cải và phân phát đạo pháp; các Tỳ Kheo, trong hai sự phân phát này, phân phát đạo pháp là cao nhất. Các Tỳ Kheo, có hai cách giúp đỡ (nhiêu ích-anuggaha): giúp đỡ của cải và giúp đỡ đạo pháp; trong hai cách giúp đỡ này, giúp đỡ đạo pháp là cao nhất.

„ Bố thí là thù thắng cao nhất,

Là sự phân phát Thế Tôn khen.

Ruộng phước tốt nhất (1) với lòng tin,

Người trí biết, ai (mà) chẳng cúng dường (2)

Ai nói và nghe cả hai điều (3)

Với lòng tin trong đạo Thiện Thệ (4)

Và tinh tấn trong đạo Thiện Thệ

Được thanh tịnh  mục đích cao nhất”

 

II.CHÚ THÍCH SƠ LƯỢC

(1,2) - Ruộng phước tốt nhất: những người tiếp nhận sự bố thí, cúng dường, nhất là những người tu hành, là ruộng phước để người bố thí gieo giống. Nếu nghĩ như vậy thì người bố thí sẽ không có thái độ khinh miệt, hất hủi trong lúc san sẻ cho người.

(3) – Ai nói và nghe cả hai điều: có nghĩa là giảng dạy và thực hành cả hai điều: tài thí và pháp thí.

(4) – Thiện thệ (Sugata): một trong 10 danh hiệu của Phật: (khéo sống trong thế gian)

 

III.BÌNH LUẬN:

Kinh này rút ra từ tập Ittivuttaka (Phật thuyết như vậy) số 98 trang 98 (Pâli Text Society). Nội dung là Phật dạy hai thứ bố thí: tài thí và pháp thí.

a) – Tài thí: cho của cải như đồ ăn, thức uống, áo quần, thuốc men, nhà ở, tiền bạc hay phục vụ bằng công sức v.v… với mục đích giúp người khỏi thiếu thốn vật chất.

b) – Pháp thí : cho lời hay, lẽ phải, cách sống, phương pháp tu dưỡng phù hợp với chơn lý nhằm mục đích giúp người phát triển trí tuệ và đạt được an vui lâu dài.

Trong hai thứ bố thí này, pháp thí là cao nhất vì nó có thể giúp người giác ngộ chơn lý và giải thoát khổ đau. Tuy so sánh như vậy song Phật vẫn khuyến khích chúng ta thực hiện cả hai, tài thí và pháp thí. Một cách tổng quát, đối với người tu sĩ thì tài thí dễ hơn; còn người xuất gia thì pháp thí dễ hơn. Tuy nhiên, người cư sĩ vẫn có thể san sẻ đạo pháp cho người khác, nhiều khi còn thuận tiện hơn. Và ngay trong sự cúng dường vật chất cho người xuất gia, người cư sĩ vẫn góp phần pháp thí qua sự hoằng hóa của người xuất gia trong mục đích đem lại an vui lâu dài cho mọi người.

Bố thí là phương pháp tu dưỡng đầu tiên của Phật tử. Vì chưa biết cho tức là không có từ bi hỷ xả. Mà thiếu từ bi hỷ xả thì khó mà tiến xa trên đường đạo. Đã là một phép tu, bố thí cần được thực hiện dưới ánh sáng trí tuệ, nghĩa là phải biết cách cho: “cách cho hơn của đem cho. Người biết cách cho là hơn của đem cho. Người biết cách cho là người “trước khi cho thì có niềm vui trong lòng, trong khi cho thì hài hòa và sau khi cho thì hoan hỷ” (xem An.III,336). Người biết cho còn phải biết rõ lợi ích của vật đem cho và kết quả của việc sử dụng chúng. Do đó, về vật chất ta chỉ nên cho những gì có thể thăng hoa sự sống mà không nên cho những gì phá hoại cho sự sống như rượu, thuốc độc, khí giới giết người, v.v… và về đạo pháp, lẽ dĩ nhiên chúng ta chỉ nên cho chánh pháp, những lời giảng dạy hay kinh sách khế lý khế cơ có khả năng giúp người giác ngộ giải thoát  mà không nên truyền bá những lý thuyết (giảng dạy cũng như sách báo) tà vạy, mê tín, dị đoan, gây thêm mê lầm và sợ hãi cho người. Hiện tượng ấn tống các “kinh sách” nhảm nhí như Hồi dương nhân quả, Địa ngục du ký, Sấm giảng núi Sam, Dị lạc chơn kinh, v.v… là ví dụ điển hình. Thật ra, những người ấn tống kinh sách một cách bừa bãi, chỉ nghĩ đến việc cầu phúc lợi cho mình hơn là nghĩ đến việc giúp người khác giác ngộ giải thoát.

Người biết cách cho là người cho với tinh thần hướng về và thực hiện giác ngộ giải thoát cho mình cho người.

Bố thí là một phương pháp tu dưỡng chớ không phải là một lý thuyết cho nên kết quả tốt đẹp của nó chỉ những người biết cách cho và thường hay cho mới gặt hái được.

Thiện Châu dịch và giới thiệu

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8155)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 12188)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 7684)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 7138)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 8981)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 7611)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 7254)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 6735)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 6658)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
09/04/2013(Xem: 30408)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]