Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Hoài Niệm Cúng Dường Ân Sư

17/04/201606:44(Xem: 6188)
Những Hoài Niệm Cúng Dường Ân Sư


2-HT-NhuHue

Những Hoài Niệm

Cung Kính Cúng Dường Ân Sư




Sau buổi lễ mừng thượng thọ của Thầy về, chú thiếm Thanh (Kim Châu) có nói với con là Thượng tọa Thích Nguyên Tạng có kêu gọi Phật tử ở Adelaide nên viết bài cảm niệm để Thầy cho vào Kỷ Yếu tán dương công đức của Hòa thượng.  Chú thiếm nói: “Anh là người thường gần gũi với Hòa thượng, anh nên thay mặt cho chúng em cố gắng viết bài cảm niệm cúng dường Sư phụ đi nhé”. Con chỉ mỉm cười & nói: “ anh sẽ cố gắng “, nhưng thật ra trong tâm của con đang buồn vì Thầy vừa từ nhà thương về sau hơn 10 ngày điều trị cơn bạo bệnh. Qua hôm sau là thứ Bảy 02/04/2016 tứ chúng đệ tử tổ chức mừng Lễ Sinh Nhật Thầy rất trọng thể, hằng trăm Phật tử về chùa để chúc thọ, tất cả đều muốn làm mọi việc sao cho Thầy được vui để mau phục hồi sức khỏe. Chúng con thấy Thầy rất vui, tuy trong đạo từ có lúc Thầy trải lòng tâm tình với chúng đệ tử làm cho nhiều đệ tử chúng con vì quá thương mến Thầy mà không cầm được nước mắt.

Ngày hôm nay, Phật tử chúng con  có được ngôi Chùa Pháp Hoa đẹp đẽ và khang trang là do công đức của Thầy gầy dựng từ hơn 30 năm qua. Nhớ lại ngày Thầy vừa từ Nhật đến Adelaide năm 1982, phái đoàn Phật tử chúng con thuê xe Bus đi đón Thầy ở phi trường, khi Thầy vừa ra phi trường thấy đông người Việt quá Thầy đi nhanh lại chỗ anh HVD đang cầm cây cờ vàng 3 sọc đỏ Thầy đứng tại đó để tiếp chuyện Phật tử, sau này con có hỏi thì Thầy nói: “Mới tới không biết ai là ai nên Thầy lại đứng gần cây cờ Quốc gia là an toàn nhất “.  Lúc đó chùa Pháp Hoa là 1 căn nhà nhỏ (cải gia vi tự) trên đường Adision road, đến năm 1984 chánh phủ chấp thuận bán giá đặc biệt cho 1 miếng đất ở Pennington để cất chùa, các Bác trong Ban trị sự bàn tính nên mua 2000 mét vuông thôi cũng dư sức xây chùa , nhưng Thầy có viễn kiến nhìn xa hiểu rộng, thấy rằng tương lai Phật tử sẽ đông nên Thầy quyết định xin mua 5000 mét vuông đất, các Bác khuyên Thầy suy nghĩ lại vì quỹ không có đủ tiền để mua đâu. Thầy nhất quyết phải mua cho bằng được 5000 mét vuông đất, vì đây là cơ hội duy nhất chánh phủ cho chúng ta được quyết định. Sau đó, Thầy vận động các nơi, cuối cùng Thầy thực hiện được ước nguyện có đủ số tiền mua đất, đến năm 1985 làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công cất chùa, đến năm 1989 là Đại lễ Khánh Thành  ngôi Chùa Pháp Hoa trang nghiêm và uy nghi, mang nét đặc thù của một ngôi chùa hoàn toàn theo văn hóa Việt Nam.    


HT Nhu Hue 1986

Hình tác giả với Sư Phụ Như Huệ năm 1986
HT Nhu Hue -1989

Hình tác giả với Sư Phụ Như Huệ
cùng Chư Tôn Đức năm 1989

Hình tác giả với Sư Phụ Như Huệ
cùng HT Tắc Phước năm 1989





Thắm thoát đã 34 năm (1982-2016), Thầy đã giáo hóa chúng đệ tử và Phật tử tại Nam Úc nói riêng và toàn Úc Châu nói chung, chúng con cung kính Thầy như cha của mình, ngược lại Thầy cũng coi chúng con như con trong một đại gia đình. Chúng con có bất cứ chuyện gì dù vui hay buồn cũng chạy vào Chùa nhờ Thầy giúp, nhà có ai đau bệnh hay mọi sự quan hôn tang tế cũng vào Chùa níu áo Thầy. Lúc nào Thầy cũng hoan hỷ sẵn sàng giúp đỡ bằng những lời khuyên bảo, hay Thầy tụng kinh, trì chú, cầu an, cầu siêu, tình Thầy trò đầm ấm thắm thiết biết bao.

Thầy thường nói: “Ước nguyện từ khi mới đặt chân tới Úc là phải cất cho kỳ được một ngôi chùa đủ lớn cho đồng hương Phật tử có chỗ để lễ lạy, sau đó là xây dựng ngôi Bảo tháp". Nay ước nguyện của Thầy đã thành tựu, khi Chùa Pháp Hoa xây dựng hoàn tất thì những chướng duyên cũng bắt đầu đổ đến, chúng con nhớ trong kinh có nói là khi đức Phật còn trụ thế có Ma Ba Tuần đến bạch Phật là khi nào Ngài nhập diệt? Phật trả lời là khi nào Ta có được 2500 tỳ kheo đệ tử đạt A La Hán quả thì ta sẽ nhập diệt. Sau 49 năm hóa đạo, một hôm Ma Ba Tuần đến gặp Phật  nhắc lại lời Phật đã nói, nay Phật đã có hơn 2500 Tỳ Kheo đệ tử đạt A La Hán quả vậy thì khi nào đức Phật nhập diệt? Phật quay qua hỏi ông A Nan: “Nay Ta đã có hơn 2500 đệ tử Tỳ kheo đạt A La Hán quả, vậy theo ông Ta có nên nhập diệt không? Ông A Nan lúc đó đang thiền định không nghe, Phật hỏi đến lần thứ hai mà không thấy ông A Nan nói gì, nên Ngài trả lời Ma Ba Tuần là 3 tháng nữa Ta sẽ nhập diệt! Qua câu chuyện trên, chúng con không dám nghĩ hay ví Thầy với đức Phật, nhưng chúng con nhận thấy có đôi điều trùng hợp với Thầy, điểm quan trọng đó là ước nguyện của Thầy thành tựu, thì Ma quân cũng hiện lên đánh phá, cũng muốn cướp lấy sinh mạng của Thầy, nhưng chúng đều thất bại vì luôn luôn lúc nào Thầy cũng có tứ chúng đệ tử kề bên săn sóc. Những hành động của ma quân biểu hiện như:

1/ Bọn ma quân sai khiến 1 thanh niên dùng ma túy, xông vào chánh điện đập phá hết các tượng Phật, đập bể trống lớn và phá nát hết các Phật cụ trong Chánh điện. Thầy lại chạy đôn chạy đáo khắp thế giới kêu gọi và vận động gây quỹ tái thiết Chùa, phải mất hơn hai năm mới khánh thành trở lại được.

2/ Một lần trước khi đi Pháp dự giới đàn của chùa Khánh Anh, BS Phước khuyên Thầy nên đi khám mắt, BS khám mắt khuyên Thầy nên đi khám tim gấp. Cuối cùng BS về tim phát hiện ra là Thầy bị một cục máu đông to bằng đầu ngón tay, đang chận ở động mạch chủ trên cổ, phải vô nhà thương giải phẩu khẩn cấp. Thời may là BS đã phát hiện kịp thời, nếu không thì Thầy đã mất mạng trên chuyến bay đi Pháp. 

3/ Sau hai lần hãm hại Thầy không được, lần này bọn Ma quân tổ chức qui mô hơn, chúng dùng đến hai cơ quan truyền thông (1 của tiểu bang và 1 của liên bang), hằng tuần trong suốt 4 năm trời liên tục mạ lỵ - vu khống – chửi rủa, hô hào dụ dỗ một số ít bà con Phật tử nhẹ dạ, nghe theo lời chúng chuẩn bị sẵn sàng để chiếm chùa, gây hoang mang cho Phật tử. Với tinh thần Bi Trí Dũng, Thầy đã quyết định nhờ đến công lý can thiệp, cuối cùng công lý sáng tỏ phục hồi uy tín, danh dự cho Thầy nói riêng và cũng là chung cho đạo pháp - Chánh luôn thắng Tà. 

4/ Sau ba lần thất bại, lần thứ tư này bọn Ma quân chuẩn bị kỹ càng và thâm độc hơn, lợi dụng lúc này  tuổi hạc của Thầy đã cao nên thần lực có phần suy yếu, chúng tấn công vào cơ thể Thầy chủ yếu là bộ phận Gan, làm cho Thầy phải vào nhà thương điều trị mất hai tuần, nay Thầy về dưỡng bệnh tại Chùa.

 

Qua câu chuyện của đức Phật và Ma Ba Tuần kể trên, chúng con luôn ghi nhớ coi đó là một bài học quí giá, nên mỗi khi Thầy đau bệnh là tứ chúng đệ tử luân phiên túc trực 24 trên 24 bên Thầy, quyết không để cho bọn Ma quân hãm hại. Thầy thường an ủi chúng con mà nói rằng, theo truyền thống trong gia đình của Thầy, thì mấy anh em ai cũng thọ trên 90 tuổi, Thầy bảo chúng con đừng có lo âu cho Thầy vì Thầy còn thọ ít nhất cũng là 10 năm nữa.

 

Kính bạch Thầy, lần này chúng con rất lo lắng cho bệnh trạng của Thầy, nhưng chúng con tin vào lời nói của Thầy là Thầy còn thọ ít nhất 10 năm nữa. Nhân dịp chúc mừng Đại thọ và lễ tán dương những công đức mà Thầy đã đóng góp cho Giáo Hội, chúng con thành tâm cầu nguyện cho Thầy tật bệnh tiêu trừ, pháp thể được khang an, hầu trụ thế được dài lâu, để tiếp tục giáo hóa chúng con, đồng thời cũng là một đại thụ cho chúng con có nơi nương dựa.

 

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Adelaide ngày 15-4-2016

Đệ tử Thiện Tâm Thái minh                                     

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6630)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6925)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 934)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33924)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4725)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4678)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4631)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4592)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4919)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4633)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567