Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành Trạng của HT Như Huệ

09/03/201617:40(Xem: 8117)
Hành Trạng của HT Như Huệ



htnhuhue

 

HÀNH TRẠNG

CỦA HT THÍCH NHƯ HUỆ
Một trong “Quảng Nam Phật Pháp Tứ Trụ”

 

 

Đất Quảng Nam “Địa linh, nhân kiệt”
Người Quảng Nam “Bất khuất, hiên ngang”
“Tề phi ngũ phụng” thi tràng
“Phật pháp tứ trụ” huy hoàng, lưu danh.

Quảng Nam là vùng đất trung tâm, điểm giao thoa văn hóa và thời tiết, giữa hai miền Nam Bắc, nên phải gánh chịu nặng nề những nghiệp quả của nhân sinh, và chia sẻ sâu rộng những thịnh suy của dân tộc. Có Núi Chúa, Quế Sơn sừng sững uy nghiêm và Hàm Rồng, Trà Kiệu trầm hùng oai dũng, Quảng Nam là đất “phát quan” tạo anh hùng cho đất nước. Theo truyền thuyết, Thầy Địa Cao Biền của Tàu ( TQ ) khi đi xem địa lý, thấy Quảng Nam có nhiều linh huyệt, sinh nhân tài, nên đã đặt niêm ấn trên đỉnh Núi Chúa (hiện nay vẫn còn, phía vách đứng, bên cạnh huyện Quế Sơn ngó lên) và nơi Hàm Rồng ở Huyện Duy Xuyên, để phá linh huyệt không cho Đất Quảng có nhân tài lãnh đạo quốc gia, chống lại Tàu như thời Quang Trung Nguyễn Huệ. Mất long huyệt “Quốc vương” nên Quảng Nam chỉ còn lại những tích tụ hưng khí bất khuất, để sản sinh ra những con người chỉ biết làm “Cách Mạng”, hầu xây dựng quê hương, chứ không màng đến con đường danh lợi, như: Hoàng Diệu, Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Duy Hiệu, Nhất Linh - Nguyễn Tường Tam, Tâm Minh - Lê Đình Thám…

Tiếp tục hưng khí “Văn hóa cách mạng” ấy, cho nên ở Quảng Nam vào thời phong kiến cận đại thì có “Ngũ phụng tề phi”, vào thập niên 60 và 70 cũng có nhiều thân hào nhân sĩ trí thức có tài đức ở cả đời lẫn đạo, bài này người viết muốn nói đến trong Phật Pháp tại Quảng Nam lúc bấy giờ thì có Tứ Trụ, đó là: “Vạn - Trí – Phát - Huệ” (1)

HT Nhu Van HT Như VạnHT Long Tri

HT Long Trí

HT Chan Phat
HT Chân Phát

HT Nhu Hue
HT Như Huệ


* Thạch trụ thứ 1: Ngài Thích Như Vạn, Phó Đại Diện, kiêm Đặc ủy Cư sĩ GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam, Trụ Trì Tổ đình Phước Lâm, đệ tử xuất gia có HT Thích Hạnh Tuấn, đang bảo vệ luận án Tiến sĩ (mới viên tịch ở Chicago Mỹ quốc) và các vị khác đang phục vụ Đạo trong và ngoài nước.

* Thạch trụ thứ 2: Ngài Thích Long Trí, nguyên Phó Nội Vụ, kiêm Đặc ủy Thanh Niên Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Quảng Nam, Trụ Trì chùa Viên Giác. Sau 1975, Ngài cộng tác với Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Ngài Thích Quảng Độ lo phục hoạt GHPGVNTN trong gian khó. Đệ tử của Ngài có HT Thích Tâm Thanh (đã viên tịch) và HT Thích Như Điển cùng các vị khác đang duy trì và kế tục sự nghiệp, phát triển rất vững mạnh về cơ sở chùa viện và đào tạo Tăng tài ở hải ngoại.

Thạch Trụ thứ 3: Ngài Thích Chân Phát, nguyên Đặc ủy Tăng Sự GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam, Trụ Trì chùa Long Tuyền một thắng cảnh của Phố cổ Hội An và Giám đốc một Phật Học Viện đầu tiên của Quảng Nam trước 1975. Ngài Chân Phát đã viên tịch (trước HT Như Huệ 2 tháng) vào ngày 22/4/Bính Thân (2016) thọ thế 86 tuổi và 60 hạ lạp.

Đặc biệt Thạch Trụ thứ 4: Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ, với mùi hương như hoa huệ, hài hòa lan tỏa, làm thắm đượm đạo đời, Ngài Như Huệ đã lãnh đạo GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam với chức danh Chánh Đại Diện, Giám Đốc Trường Bồ Đề Hội An và xây dựng thành công nhiều công trình cho Phật giáo tỉnh nhà.

 Ngài đã làm Giảng sư và tham gia điều hành Phật sự khi chưa tròn 25 tuổi. Với sức trẻ đầy hăng say và cống hiến, Ngài đã phục vụ khắp các miền đất nước, từ vùng Cao nguyên đất đỏ, đến đồng bằng phía Nam phì nhiêu, hay miền Duyên hải yên lành, Ngài đều có mặt, làm hấp dẫn biết bao nhiêu người hướng theo Phật Pháp, có nhiều vị đã theo quy y làm đệ tử xuất gia, hoặc tại gia.                   Với quân hàm Đại úy, Tuyên úy Tiểu khu Quảng Nam, Đặc khu Quảng Đà, và trong quá trình lãnh đạo Phật Giáo Quảng Nam, nhất là trong công cuộc đấu tranh đòi nền Dân chủ cho đất nước vào năm 1966, 1967 (biến động miền Trung), Ngài đã liên hệ mật thiết với các Tướng, Tá Quân Đoàn 1 và các quân binh chủng khác thuộc QLVNCH, với một thời huy hoàng lừng lẫy.

 

Ngài đã xây dựng để lại cho Đạo và Đời tại Hội An, Quảng Nam một ngôi trường Bồ Đề (Trung tâm Văn hóa Xã hội Phật Giáo Quảng Nam) cao 3 tầng với 15 phòng học (nay là Trường Nguyễn Duy Hiệu). Một giảng đường tại chùa Pháp Bảo Hội An, (hiện tại HT. Thích Hạnh Niệm đã đại trùng tu).

 Từ 1963 đến 1975 với hơn 10 năm huy hoàng, Ngài đã lãnh đạo GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam phát triển vững mạnh, cùng khắp từ thành thị đến thôn quê, nhiều ngôi Chùa, Trường Bồ Đề, các Khuôn hội được xây dựng lên, các Đoàn thể Phật tử được thành lập, sinh hoạt của Phật Giáo lúc bấy giờ rất có sinh khí, phát triển cùng khắp, đưa hoặc ủng hộ những Phật tử ra ứng cử Thượng, Hạ Nghị Viện và Hội Đồng Tỉnh đều được số phiếu dẫn đầu, nên tất cả các Tỉnh Trưởng, Các Trưởng Ty hay những vị chức sắc quan trọng khác, mỗi khi đổi đến hoặc thuyên chuyển đi nơi khác đều đến chào ra mắt và thỉnh thị ý kiến.

Sau 1975, đồng cảm với sự biến chuyển của đồng bào và dân tộc, Ngài đã đi theo đoàn người tìm tự do, lưu lạc sang Nhật, cuối cùng Ngài đã đến Nam Úc định cư, tham gia thành lập GHPGVNTN UĐL- TTL, xây dựng Chùa Pháp Hoa và chỉ đạo điều hợp chứng minh huấn thị các Đạo tràng Tu học khác trên khắp nước Úc.

 Ngài là người đã trải qua nhiều thăng trầm, vinh nhục và lắm đắng cay trong cuộc đời. Từ đó Ngài đã rút ra được nhiều bài học, miên mật sám hối và trì tụng Mật tông, phát nhiều điều nguyện, cộng với phước báu nhiều đời nên mọi điều đã thành tựu mỹ mãn.

 Với đức nhẫn nhục và cuộc sống hài hòa, nhiều chịu đựng, Ngài tạo được sự hòa hiệp trong Tăng già, trầm tĩnh, sáng suốt giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng, nên Ngài đã được chư Tôn Đức khắp Úc Châu bầu Ngài lên làm Hội Chủ GHPGVNTHN UĐL-TTL từ năm 1999, được toàn Giáo Hội tín nhiệm 4 nhiệm kỳ với 16 năm lãnh đạo. Đến năm 2015 vì sức khỏe yếu, nên Ngài đã xin từ chức Hội Chủ, lui về tịnh dưỡng tại Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc và làm Chứng Minh Đạo Sư cho Giáo Hội, Ngài làm Viện Chủ hai ngôi chùa Pháp Hoa và Tăng Xá Bắc Linh tại Nam Úc. Chúng đệ tử của Ngài, có những vị danh tiếng (1) và còn có nhiều vị đang chuyên tu, hành đạo, phục vụ Giáo hội nhiều địa phương, cũng như Trụ Trì nhiều ngôi chùa tại quê hương cũng như hải ngoại.

 Trong “Quảng Nam Phật Pháp Tứ Trụ” thì có Ngài Như Huệ, Ngài Như Vạn và Ngài Long Trí, khi làm việc, thường xuyên bàn bạc, trao đổi, kết hợp với nhau, vui buồn, vinh nhục có nhau, cùng nhau chia sẻ những thăng trầm, thịnh suy của Giáo Hội, để rút ra được những bài học mà áp dụng vào Phật sự, phụng sự tốt cho đạo, giúp ích cho đời, từ đó mọi Phật sự đều được hanh thông, với kết quả thành công tốt đẹp, nên rất thiết thân và cũng để lại cho nhau nhiều kỷ niệm.

Với Quảng Nam Phật Pháp Tứ Trụ, quý Ngài, đặc biệt là Ngài Thích Như Huệ đã lãnh đạo Giáo Hội tỉnh nhà đấu tranh, tổ chức xây dựng nhiều hệ thống hoằng dương Phật Giáo, không những tại Quảng Nam một thời phát triển huy hoàng, mà còn vươn vai phát triển ra tận hải ngoại,

 Ngài Như Huệ cũng đã tham gia, thành lập và lãnh đạo GHPGVNTNHN UĐL-TTL suốt 40 năm qua, làm Trưởng Môn Phái Lâm Tế Chúc Thánh Hải Ngoại. Năm 2008 trước sự đánh phá quyết liệt của ma quân, Ngài là người đầu tiên khởi lên ý niệm Tổng Hợp GHPGVNTN Liên Châu thành một khối vững mạnh (nay là Ban Điều Hợp GHPGVNTN Liên Châu), để bảo vệ GHPGVNTN tại Hải Ngoại được trường tồn cho đến ngày nay.  Ngài đã linh hoạt trong lãnh đạo Giáo hội, và hài hòa trong mọi quan hệ, nên trong quá trình công tác Phật sự tại Quảng Nam cũng như Hải Ngoại và Úc Châu đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.

 Với 20 năm tại quốc nội và gần 40 năm tại hải ngoại, phục vụ cho GHPGVNTN, Ngài Như Huệ đã đóng góp và hy hiến cho Đạo cho Giáo Hội và cho Môn Phái cũng đã quá nhiều rồi, giờ nầy Ngài cần tịnh dưỡng, tuy đã nghỉ chức Hội Chủ nhưng vẫn luôn thao thức cho tiền đồ của Giáo Hội và Tăng Già, Ngài luôn trăn trở làm sao có được một Tu Viện cho Phật Giáo Việt Nam tại Úc để cho Tăng Ni, không muốn có chùa riêng hay những vị đã quá mệt mỏi vì Phật sự, hoặc những vị “muốn có của rồi mới đi cho, đạo lực mạnh rồi mới lo hoằng pháp” có được một Viện Chuyên Tu để miên mật tu hành, hầu lấy lại hoặc tạo được năng lượng, đạo lực dồi dào và một Tăng Đoàn Vững Mạnh hơn mà phục vụ lâu dài cho Đạo và thăng tiến trên con đường Giải Thoát, Giác ngộ.

 Trong quá trình hành Phật sự, Ngài cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm: Hãy “diệt trừ ngã chấp” mới bảo toàn công đức và tiến tu đạo nghiệp, và luôn “phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” cũng như “thâm tín chư Phật giai sung mãn” đấy là Chánh Kiến rất cần thiết, hãy sống “đơn giản, tùy duyên, ít muốn, biết đủ, khiêm cung, chia sẻ” sẽ có được nhiều an lạc và Ngài cũng .đã hiểu được tâm nguyện của Phật tử “quá ngán ngẫm vì sự bon chen theo vật chất với sự đời, nên rất mong có được một nơi yên tĩnh, cũng như pháp tu hành thích hợp và liên tục để tìm được chút yên tĩnh cho tâm hồn và tu thoát khổ” vậy Chư Tôn Đức “hãy lo chuyên tu, chư Phật sẽ gia hộ” và hãy là chỗ “tựa vững chắc, là vị Thầy mô phạm cho hàng Phật tử và tứ chúng nương theo, chắc chắn sẽ có được nhiều sự  yểm trợ hộ trì” 

 Ngài luôn quan tâm các hoạt động của GHPGVNTNHN tại UĐL-TTL, nên cũng rất mong quý Ngài trong HĐGP và HĐĐH của Giáo Hội cũng như toàn thể Tăng Tín Đồ hãy giữ vững Bản Thể Tăng Già mà luôn Thanh Tịnh, Hòa Hợp và sống “đúng với đạo như thật”, hầu lèo lái con thuyền Giáo Hội và đưa Tăng Tín Đồ đến được bến bờ Giác ngộ. Hãy hoàn thành tốt nhiệm vụ của mỗi người, tấn tu đạo nghiệp, đấy cũng chính là một cách đền ơn cụ thể và thiết thực nhất.

 Hy vọng qua bài viết tuy chưa đầy đủ nầy, nhưng cũng sẽ giúp cho những lớp hậu duệ, biết được thêm về những hành trạng và tâm nguyện của các bậc tiền bối mà kế thừa và phát huy, để Phật Giáo Việt Nam tại Úc Đại Lợi, mỗi ngày một hòa nhập vươn lên, để cho quê hương xứ Quảng vẫn mãi là nơi “địa linh nhân kiệt” tiếp tục sản sinh ra những người con “bất khuất kiên cường”, góp phần xây dựng Phật Giáo và đất nước Việt Nam phát triển vững mạnh về cả hai mặt: Tinh Thần và Vật Chất.

 Phụ chú (1) Đệ tử xuất gia của Ngài Như Huệ:

- HT Thích Hạnh Đức khi làm Trụ Trì chùa Sơn Linh, Bà Rịa Vũng Tàu, với gần ba chục đệ tử xuất gia. Nhưng vì ủng hộ cho việc phục hoạt GHPGVNTN nên bị chướng duyên, khiến chúng đệ tử phải tản mát khắp nơi và nguyện lực không thành. Nay HT đã tạm thời quay về lại quê hương Quế Sơn để cất thất tịnh tu. Nhưng cũng thường Bắc Nam xuôi ngược để độ cho những chúng sanh có duyên

- HT Thích Hạnh Thiện hiện đang tu hành tại Chùa Bửu Đà, Sài Gòn

- HT Thích Hạnh Niệm hiện đang kế tục Trụ Trì chùa Pháp Bảo Hội An, Phó Thường Trực, Ban Trị Sự Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Quảng Nam (Nhờ có thực tu và chịu khó miệt mài học tập, Hòa Thượng đã tham gia lãnh đạo Giáo Hội, Hòa Thượng cũng đã đào tạo được các đệ tử có tài đức đang Trụ Trì các tự viện trong và ngoài nước, tại hải ngoại có Thầy Thích Viên Tịnh ở Melbourne, Úc Châu và Thầy Thích Thông Viên ở Chicago, Mỹ quốc).

- Thầy Thích Hạnh Ngộ, đang tu tập tại Chùa Bửu Đà, Sài Gòn.

- Thầy Thích Viên Thành (Hạnh Trung) đang tu tập tại Chùa Pháp Hoa, Nam Úc.

- Thầy Thích Hạnh Quang (Thị Duyên) đang tu tập tại Rừng Thiền Viên Không, Bà Rịa Vũng Tàu.

- Thầy Thích Hạnh Không (Thị Hạnh) (mới viên tịch).

- Thầy Thích Hạnh Châu, Trụ Trì Chùa A Di Đà, Nam Úc.

- Ni Sư Thích Nữ Khiết Minh, (Thị Minh) Trụ Trì chùa Kim Liên Quận 4 Sàigòn, Kiều Đàm Di Viện, Phước Hải, BRVT, xây dựng và khánh thành chùa Kiều Đàm Di Việt Nam cùng Đại Tháp với tầm cỡ quốc tế, để thờ chư Phật và chư Tổ Ni đầu tiên tại Tỳ Xá Ly (Vesali) và một cơ sở mới tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), Ấn Độ.

- Ni Sư Thích Nữ Huệ An (Hạnh Khương) Trụ Trì Chùa Bửu Đàm, Quận Tân Bình, Sài Gòn.

- Ni Sư Thích Nữ Hạnh Tịnh, Trụ Trì Chùa Lộc Uyển, Quận Tân Bình, Sài Gòn

- Ni Sư Thích Nữ Hạnh Ngọc, Trụ Trì Chùa Huệ Ân, TP Quảng Ngãi

- Ni Sư Thích Nữ Hạnh Phước, hiện đang Phó Trụ Trì Thiền Viện Viên Chiếu, Long Thành, Đồng Nai.

- Sư Cô Thích Nữ Hạnh Nguyên, đang tu tập tại Chùa Pháp Hoa, Adelaide, SA

Và các đệ tử y chỉ:

- Đại Đức Thích Viên Trí, Trụ Trì Chùa Pháp Hoa, Adelaide, SA

- Đại Đức Thích Viên Tịnh, Trụ Trì Chùa Bảo Minh, Melbourne, VIC

- Đại Đức Thích Thông Hiếu, Trụ Trì Chùa Huệ Quang, Melbourne, VIC

- Đại Đức Thích Viên Từ, Tăng chúng Chùa Pháp Hoa, Adelaide, SA

- Ni Sư Thích Nữ Viên Thông, Trụ Trì Quan Âm Ni Tự, Adelaide, SA

- Ni Sư Thích Nữ Viên Thường, Ni chúng Chùa Pháp Hoa, Adelaide, SA

Ngoài ra còn có một số vị sau một thời gian nhập thế, ‘dùng đời để thực hành Đạo và dùng Đạo để hướng dẫn đời’ cũng đã quay lại với con đường giải thoát, giác ngộ và một số vị đã tìm cách lui về ẩn tu ở một số địa phương trong và ngoài nước.

 

An Lạc thất, Adelaide - Nam Úc, Mạnh Xuân - Bính Thân (2016)

Đệ tử Thích Viên Thành  (Hạnh Trung) kính sơ lược và khể thủ Khánh tuế




HT Nhu Hue Cam niem ve Bon su- Thich Vien Thanh-1HT Nhu Hue Cam niem ve Bon su- Thich Vien Thanh-2

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6632)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6931)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 948)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33945)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4730)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4678)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4632)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4593)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4922)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4648)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567