Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm Từ Bi

24/03/201614:41(Xem: 6133)
Tâm Từ Bi

HT Nhu Hue (8)

TỪ BI TÂM

Kính dâng Hòa Thượng Chứng Minh Đạo Sư

 

 


Con chính thức về Tu Viện Quảng Đức sinh hoạt vào đầu năm 2001. Và tại đây, sau vài năm, con dần dần biết được Đạo hiệu, cũng như được diện kiến tôn nhan của Chư Tôn Đức thuộc GHPGVNTNHN UĐL-TTL, nhân lúc quý Ngài quy tụ về Tu Viện QĐ trong những ngày lễ lớn hoặc trong những sự kiện Phật sự liên quan đến Giáo Hội. Hòa Thượng Như Huệ là vị Tôn Túc đầu tiên từ tiểu bang khác đến Melbourne mà con được trực tiếp đảnh lễ. Con nhớ hầu như những lần có Phật sự tại TVQĐ, Hòa Thượng đều đến trước một vài hôm để nghỉ ngơi hoặc thăm viếng đồng đạo và nhờ đó mà con mới có dịp đảnh lễ Ngài. Chỉ là đảnh lễ thôi chứ không dám thưa thỉnh gì vì trước đó con chưa được biết Ngài.

Thế rồi một hôm, sau khi thời cơm chiều xong, HT Như Huệ lưu lại phòng Trai đường để nói chuyện với Sư Cô Hạnh Nguyên, Cô là đệ tử xuất gia của HT, hôm đó con cũng đang dọn thức ăn ở gần bên. Khi nghe Cô Hạnh Nguyên nhắc con nhớ đóng Chuông buổi chiều, Hòa Thượng nhìn con và nói: “Kệ chuông phải tập ngâm cho hay để cho người âm họ nghe”, nói rồi Hòa Thượng cất tiếng ngâm:

Ba nghiệp lắng thanh tịnh
Gửi lòng theo tiếng chuông
Nguyện người nghe tỉnh thức
Vượt thoát nẻo đau buồn
Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe…
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.
Nguyện tiếng chuông này vang khắp giới
Khắp nơi u tối mọi loài nghe
Siêu nhiên vượt thoát vòng sanh tử.
Giác ngộ tâm tư một hướng về…

Giọng của Hòa Thượng thật ấm, ngân nga, luyến láy lúc trầm, lúc bổng nghe sao mà thấy dạ bồi hồi. Bỗng dưng con thấy như là đã thân quen với Hòa Thượng, con xin Hòa Thượng ngâm mấy câu đó thêm một lần nữa và Hòa Thượng lại cất cao giọng…Con thật cảm động! Và đồng thời câu nhắn nhủ của HT cũng để lại trong con một ấn tượng khó quên về tâm Từ của Ngài, không phải chỉ với người dương thế, mà đối với người âm Hòa Thượng cũng quan tâm. Con cảm kích về điều này, do vậy mà hơn mười năm nay, con luôn dành cho mình một buổi chiều trong tuần để về chùa thỉnh chuông Đại Hồng, những mong có được những phút giây lắng đọng tâm tư trong âm thanh vang vọng, thánh thót của tiếng chuông và cũng mong cho những ai trong cõi vô hình nghe được tiếng chuông mà tỉnh thức, vơi bớt lòng sân hận si mê, sớm được xa lìa cõi u minh tăm tối.

Và khởi đầu từ lần đó, sau này mỗi lần có dịp gặp được Hòa Thượng, con mới dám có lời thăm hỏi thỉnh an Hòa Thượng và Ngài luôn luôn đáp lại bằng nụ cười thật từ ái.

Bao nhiêu năm nay con chỉ được biết Hòa Thượng là người khai sơn Pháp Hoa tự và là Hội Chủ của GHPGVNTHHN UĐL-TTL, ngoài ra con không biết gì thêm về Ngài. Cho đến hôm nay được đọc bài nói về hành trạng của Hòa Thượng, con vô vàn ngưỡng phục, kính thương Ngài, con hình dung ra được bao nhiêu khó khăn gian khổ mà HT đã trải qua trong suốt khoảng thời gian 60 năm hành đạo, để lèo lái đưa con thuyền Chánh Pháp vượt qua bao sóng gió, từ quê nhà cho đến hải ngoại. Gầy dựng bao nhiêu cơ sở Phật giáo cho hậu thế và đã có bao nhiêu hàng hậu học được tiếp thu những tri kiến về sự uyên thâm của giáo Pháp từ Ngài. Ân đức của Ngài thật vô cùng!

Thời gian gần đây sức khỏe của Hòa Thượng hơi yếu, có lẽ là hệ quả của những gian lao khổ nhọc mà Hòa Thượng đã trải qua, nhưng ý chí, nguyện lực phụng sự tốt cho Đạo, giúp ích cho Đời vẫn luôn tồn tại trong tâm tư Ngài. Điều này con có thể thấy được qua những lần Hòa Thượng ban Đạo Từ hay trong những buổi Khai Thị, dù trước đó Hòa Thượng đi đứng chậm rãi, phải có người nâng đỡ, nhưng khi Ngài nói thì từng câu, từng chữ rõ ràng mạch lạc, âm thanh dõng dạc tác động đến tâm tư người nghe, và luôn có những lời khuyến tấn, nhắn nhủ quý báu mà hàng hậu học Tăng Ni, Phật tử cần phải trân quý và thực hành để hoàn thành sứ mạng giữ gìn Chánh Pháp và tu tập; và điều thú vị nhất là lúc nào Hòa Thượng cũng lồng vào những câu thơ, bài kệ rất hay, chứng tỏ trí nhớ của Ngài không hề mai một. Phong nghi là một trong “Quảng Nam Tứ Trụ” của Ngài vẫn còn tồn tại.

Hôm nay mừng thượng thọ Hòa Thượng 83 tuổi, nhìn lại quá trình hơn 60 năm của Hòa thượng, Ngài đã vì Đạo, vì Đời mà cống hiến bao nhiêu công sức cả từ thể chất đến tinh thần, để ngày nay trên quê mẹ cũng như quê người, từng thế hệ nối tiếp nhau được thừa hưởng những di sản do Ngài tạo dựng, là nơi để cho mọi người có thể an trú, vun bồi đời sống tâm linh.

Chúng con hàng hậu học còn sơ cơ yếu kém, chỉ mong có chút duyên lành để được noi gương Hòa Thượng mà bước từng bước vững chãi trên đường học Đạo, ngõ hầu không phụ tấm lòng Từ Bi của Ngài luôn hy sinh chịu gian khổ, nhẫn nại để đạt được thành tựu lợi ích cho Đạo và Đời.
Ngưỡng nguyện mười phương chư Phật gia hộ Hòa Thượng Pháp thể khinh an, Bách niên trường thọ và luôn là cây cao bóng cả để cho hàng hậu học Tăng Ni, Phật tử chúng con được nương nhờ hôm nay và mãi mãi.

 

 

Nam Mô A Di Đà Phật,
Melbourne, Xuân Bính Thân 2016
Đệ tử Thanh Phi

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2010(Xem: 7057)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 6659)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6954)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 1043)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 34019)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4769)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4694)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4657)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4601)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567