Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thành kính tri ân Hòa Thượng Chứng Minh Đạo Sư của Giáo Hội.

11/04/201612:20(Xem: 6572)
Thành kính tri ân Hòa Thượng Chứng Minh Đạo Sư của Giáo Hội.
HT Nhu Hue

Thành kính tri ân
Hòa Thượng Chứng Minh Đạo Sư của Giáo Hội.


 

Ngài sinh ra mang cung mệnh lãnh đạo

Ngài sinh ra với sứ mệnh chỉ huy

Ngài sinh ra là vì sao sáng tỏa

Phụng hiến đạo đời giáo pháp từ bi

Ngài sinh ra để làm người đi đầu

Suốt cuộc đời nắm cương vị dẫn đầu

Bao thăng trầm vững tư thế đứng đầu

Vượt bão táp trước thế thời nghiêng ngửa

Thế danh Kim Huệ

Pháp danh Như Huệ

Pháp tự Giải Trí

Pháp hiệu Trí Thông

Đã Kim Huệ vốn tựu thành Như Huệ

Đã Như Huệ, Giải Trí biện vô nghì

Nên Trí Thông tự tại lẽ huyền vi

Mỗi xuất xử hợp thời cơ khế lý

Mới tám tuổi vào chùa để học Phật

Mười hai tuổi nguyện thế phát xuất gia

Xuất tức nhập để gánh vác Phật gia

Kế nghiệp Tổ rạng Tông môn Pháp phái

Hơn hai mươi đã là Như Lai Sứ Giả

Hai mươi lăm, Giảng sư các tỉnh miền Trung

Từ Khánh Hòa, Tuyên Đức đến Kon Tum

Nơi đâu cũng ghi dấu chân hóa độ

Năm 1963, Phật Giáo đang hồi thống khổ

Lá cờ Phật Giáo bị hạ

Xương máu Phật Giáo bị rơi

Tăng Tín đồ Phật Giáo ngục tối rã rời

Ba mươi tuổi, làm Chủ Tịch Ủy Ban Tranh Đấu

Tỉnh Quảng Nam, một trong các tỉnh cái nôi Phật Giáo

Cho người miền Trung luyện tâm lực sắt son

Làm đẹp đạo sáng tỏa ánh đạo vàng

Xây dựng đời an lành chân thiện mỹ

Bởi sỏi đá khô cày luyện tôi như thế ấy

Bởi đèo heo hút gió lộng sơn khê

Người miền Trung trí dũng lực có thừa

Càng Lò Cừ càng nêu cao chí khí

Ba mươi mốt tuổi, Ngài đã giữ cương vị

Chánh Đại Diện Phật Giáo tỉnh Quảng Nam

Hơn mười năm biết bao việc đã làm

Tam thập nhi lập, cho bình sinh phỉ chí

Dấu mốc 75, dấu mốc sinh tử

Vận Nước, Vận Dân, Vận Đạo, Vận Đời

Bồng bềnh Vận Nước nổi trôi

Bọt tan đáy biển bèo trồi bến mê

Vận Dân, cả nước ê chề

Phủ màu sắc đỏ não nề nhiễu nhương

Vận Đạo, mục thị vô thường

Khỉ reo vượn hú vẽ tuồng múa may

Vận Đời, cát bụi mù bay

Còn chi mà đắng với cay cuộc đời

Sinh với tử, chỉ một đường độc đạo

Tử với sinh, chỉ một lối mà thôi

Khi đã chọn, đâu cần nói nửa lời

Không còn thấy thì tự dưng sẽ biết

Dù có chết cũng tìm đường vượt tuyến

Dù có chết cũng phiêu bạt hành trình

Đời tỵ nạn đã tự gắn với mình

Kiếp tha phương bao đoạn đành thống nổi

Người đã chết, hoặc chôn vùi đáy biển

Nếu không thì, phơi xác giữa núi rừng

Bặt âm, vô tín, trả lại thỉ chung

Xin thương tiếc cả triệu người bất hạnh

Người còn sống, đã đến nơi đất sống

Hai bàn tay, làm lại khởi từ đầu

Đêm nằm gác bóng trăng thâu

Tâm can non nỉ cơ cầu ô hay

Nhưng đã xác định

Nếu chết thì thôi

Còn sống phải làm

Tâm còn đây

Lực còn đây

Quê hương còn đó

Đạo Pháp còn đó

Cùng bắt tay nhau

Cùng nương tựa nhau

Cùng thiết lập, xây dựng cho nhau

Và cùng cưu mang, gồng gánh cho nhau

Ngài lại tiếp tục là một trong những vị

Đi đầu, đứng đầu, cầm đầu, chỉ huy và lãnh đạo

34 năm, nói riêng Úc Châu, nói chung Hải Ngoại

Ngài là bậc đạo cao đức trọng

Ngài là bậc trưởng thượng khiêm cung

Uy như thị nhiếp, đức như thị hương

Như Huệ đường đường khả tôn khả kính

Cả cuộc đời phụng hiến làm sao để tính

Cả cuộc đời dấn thân biết sao luận bàn

Với Tông môn Pháp phái

Ngài giữ cương vị Trưởng Môn phái Chúc Thánh

Với cơ đồ Giáo Hội

Ngài giữ cương vị Hội Chủ, rồi Chứng Minh Đạo Sư

Đời Ngài kiệt xuất thế ư

Gắn trên vũ trụ thái hư một tòa

Một tòa sen quý thơm hoa

Đóa hoa bất tuyệt thắm tô Đạo Vàng.

 

Chùa Pháp Quang

Ngày 11-4-2016

Thích Nhật Tân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6631)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6931)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 943)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33934)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4729)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4678)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4631)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4593)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4920)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4644)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567