Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 457: Phẩm Kiên Cố Chẳng Kiên Cố 02, Phẩm Thật Ngữ 01

21/07/201511:53(Xem: 13562)
Quyển 457: Phẩm Kiên Cố Chẳng Kiên Cố 02, Phẩm Thật Ngữ 01

Tập 09

 Quyển 457

 Phẩm Kiên Cố Chẳng Kiên Cố 02
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 

 

Chư thiên nên biết: Các sắc viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; thọ, tưởng, hành, thức viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến sắc viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; thọ, tưởng, hành, thức viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các nhãn xứ viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến nhãn xứ viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các sắc xứ viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến sắc xứ viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các nhãn giới viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến nhãn giới viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các sắc giới viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến sắc giới viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các nhãn thức giới viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến nhãn thức giới viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các nhãn xúc viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến nhãn xúc viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các thọ do nhãn xúc viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến các thọ do nhãn xúc viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các địa giới viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; thủy, hỏa, phong, không, thức giới viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến địa giới viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; thủy, hỏa, phong, không, thức giới viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các nhân duyên viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến nhân duyên viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các vô minh viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; hành cho đến lão tử viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến vô minh viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; hành cho đến lão tử viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Bố thí Ba-la-mật-đa tức là nội Không, cho đến vô tính tự tính Không viễn ly; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly tức là nội Không, cho đến vô tính tự tính Không viễn ly. Như vậy cho đến bố thí Ba-la-mật-đa viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Pháp nội Không viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; pháp ngoại Không, cho đến vô tính tự tính Không viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến pháp nội Không viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; pháp ngoại Không cho đến vô tính tự tính Không viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các chơn như viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến chơn như viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các Thánh đế khổ viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; Thánh đế tập, diệt, đạo viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến Thánh đế khổ viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; Thánh đế tập, diệt, đạo viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các bốn niệm trụ viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; bốn chánh đoạn, cho đến tám chi thánh đạo viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến bốn niệm trụ viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các bốn tịnh lự viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; bốn vô lượng, bốn định vô sắc viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến bốn tịnh lự viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; bốn vô lượng, bốn định vô sắc viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các tám giải thoát viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến tám giải thoát viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các pháp môn giải thoát không viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến pháp môn giải thoát không viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các Tịnh quán địa viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; Chủng tánh địa cho đến Như Lai địa viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến Tịnh quán địa viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; Chủng tánh địa cho đến Như Lai địa viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các Cực hỷ địa viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến Cực hỷ địa viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Pháp môn Đà-la-ni viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; pháp môn Tam-ma-địa viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến pháp môn Đà-la-ni viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; pháp môn Tam-ma-địa viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Năm loại mắt viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; sáu phép thần thông viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến năm loại mắt viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; sáu phép thần thông viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Mười lực Như Lai viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến mười lực Như Lai viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Ba mươi hai tướng Đại sĩ viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; tám mươi vẻ đẹp viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến ba mươi hai tướng Đại sĩ viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; tám mươi vẻ đẹp viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Pháp không quên mất viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; tánh luôn luôn xả viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến pháp không quên mất viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; tánh luôn luôn xả viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Trí nhất thiết viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến trí nhất thiết viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Quả Dự lưu viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly; quả Nhất lai cho đến Độc giác Bồ-đề viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến quả Dự lưu viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly; quả Nhất lai cho đến Độc giác Bồ-đề viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Các hạnh của Đại Bồ-tát viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến các hạnh của Đại Bồ-tát viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật viễn ly tức là trí nhất thiết trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Trí nhất thiết trí viễn ly tức là bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly. Như vậy cho đến trí nhất thiết trí viễn ly tức là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật viễn ly.

Chư thiên nên biết: Đại Bồ-tát nào nghe nói các pháp đều xa lìa mà không kinh sợ, run rẩy, không buồn rầu, hối hận, không hoang mang, không thối lui thì nên biết đó là Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Do đâu mà các Đại Bồ-tát không bị hoang mang, không thối lui đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì tất cả các pháp đều chẳng có, đều xa lìa, đều vắng lặng, đều không sở hữu, không sanh diệt nên các vị Đại Bồ-tát không bị hoang mang, không thối lui đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì các lý do như vậy nên các vị Đại Bồ-tát không bị hoang mang, không thối lui đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì đối với tất cả các pháp hoặc là pháp gây hoang mang, thối lui, hoặc là pháp bị hoang mang, thối lui, hoặc nơi hoang mang, thối lui, hoặc người hoang mang, thối lui, hoặc lý do hoang mang, thối lui, các vị Đại Bồ-tát đều không thể nắm bắt, do tất cả các pháp đều không thể nắm bắt.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy mà tâm không kinh sợ, run rẩy, không buồn rầu, hối hận, không hoang mang, không thối lui thì nên biết đó là Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này quán tất cả các pháp đều không thể nắm bắt và không thể tạo dựng, không thấy đâu là pháp gây hoang mang, thối lui, đâu là pháp bị hoang mang, thối lui, đâu là lúc hoang mang, thối lui, đâu là nơi hoang mang, thối lui, đâu là người hoang mang, thối lui. Vì lý do này nên khi nghe nói như vậy, các vị Đại Bồ-tát không kinh sợ, run rẩy, không buồn rầu, hối hận, không hoang mang, không thối lui.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì thường được chư Thiên, Đế Thích, Đại Phạm thiên vương, chúa tể của chúng sanh cùng nhau kính lễ.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì chẳng những thường được chư Thiên, Đế Thích, Đại Phạm thiên vương, chúa tể của chúng sanh cùng nhau kính lễ, mà còn hơn thế nữa: Trời Cực Quang Tịnh, hoặc trời Biến Tịnh, hoặc trời Quảng Quả, hoặc trời Tịnh Cư và chư Thiên khác thường cùng nhau kính lễ vị ấy. Đại Bồ-tát này cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp ở mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới luôn luôn cùng nhau hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Do Đại Bồ-tát này có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy nên khiến cho bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn; cũng làm cho nội Không, cho đến vô tính tự tính Không mau được viên mãn; cũng làm cho chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì mau được viên mãn; cũng làm cho Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mau được viên mãn; cũng làm cho bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo mau được viên mãn; cũng làm cho bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc mau được viên mãn; cũng làm cho tám giải thoát cho đến mười biến xứ mau được viên mãn; cũng làm cho pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mau được viên mãn; cũng làm cho Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa mau được viên mãn; cũng làm cho tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa mau được viên mãn; cũng làm cho năm loại mắt, sáu phép thần thông mau được viên mãn; cũng làm cho mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mau được viên mãn; cũng làm cho pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mau được viên mãn; cũng làm cho trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mau được viên mãn; cũng làm cho tất cả hạnh của Đại Bồ-tát mau được viên mãn; cũng làm cho quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật mau được viên mãn; cũng làm cho trí nhất thiết trí mau được viên mãn.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát nào có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì thường được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các vị Đại Bồ-tát cùng nhau hộ niệm và có thể mau chóng viên mãn tất cả công đức. Đại Bồ-tát này sẽ biết đi ở nơi chư Phật cần đi và tu hành đúng theo các hạnh mà chư Phật thực hành. Đại Bồ-tát này giống như Phật Thế Tôn.

Thiện Hiện nên biết! Tâm hạnh của Đại Bồ-tát này rất kiên cố. Giả sử tất cả hữu tình ở các thế giới chư Phật khắp mười phương nhiều như số cát sông Hằng đều là ác ma; mỗi mỗi ác ma lại hóa ra vô số ác ma; các ác ma này đều có vô lượng, vô biên thần lực và tất cả thần lực của các ác ma này cũng không thể làm chướng ngại việc thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và việc chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Đại Bồ-tát ấy.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã đạt được phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, thông đạt sự bất khả đắc của tất cả các pháp.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu hai pháp sau thì tất cả ác ma không thể làm chướng ngại việc thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và việc chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Hai pháp đó là: Một là quán các pháp đều hoàn toàn không; hai là không xả bỏ tất cả hữu tình.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu hai pháp sau thì tất cả ác ma không thể chướng ngại việc thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và việc chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Hai pháp đó là: Một là có thể làm được tất cả như lời nói; hai là thường được chư Phật hộ niệm.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì các trời, thần… thường đến lễ lạy, thân cận, cúng dường, thưa hỏi, khuyến khích và nói: Lành thay Đại sĩ! Muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải siêng năng trụ ở pháp không, vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Đại sĩ! Vì Đại Bồ-tát nào siêng năng trụ nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện thì làm nơi trông cậy cho tất cả hữu tình không chỗ trông cậy, làm nơi quay về nương tựa cho tất cả hữu tình không nơi quay về nương tựa, hay cứu giúp người không được ai cứu giúp, làm nơi hướng đến cho người không nơi hướng đến, làm hải đảo cho người không có hải đảo, làm nhà cửa cho người không có nhà cửa, làm ánh sáng cho người tối tăm, làm tai mắt cho người đui điếc. Vì sao? Đại sĩ! Vì việc trụ ở pháp không, vô tướng, vô nguyện như vậy tức là an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Người nào có thể an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào có thể an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì liền được vô lượng, vô số, vô biên chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong đời hiện tại ở mười phương, lúc nói chánh pháp ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng ca ngợi, nêu tên họ và công đức của Đại Bồ-tát này, đó là công đức vi diệu của việc an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Giống như hôm nay ta vì đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, ở trước đại chúng tự nhiên hoan hỷ ca ngợi tán thán tên họ và công đức của các Đại Bồ-tát như Đại Bồ-tát Bảo Tràng, Đại Bồ-tát Đảnh Kế vì ở chỗ Phật Bất Động khác trong hiện tại họ tu phạm hạnh trong sạch, an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đó là tên họ và công đức vi diệu của Đại Bồ-tát; vì an trụ vào công đức vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên ngay khi đó tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở các thế giới chư Phật phương Đông nhiều như số cát sông Hằng cũng vì chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nơi đó cũng có các Đại Bồ-tát tu phạm hạnh thanh tịnh, an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy đều ở trước chúng, tự nhiên hoan hỷ ca ngợi tán thán tên họ và các công đức của Đại Bồ-tát ấy. Đó là công đức vi diệu của việc an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở các thế giới chư Phật nhiều như số cát sông Hằng thuộc phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên dưới đều vì đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Ở nơi ấy cũng có các Đại Bồ-tát tu phạm hạnh thanh tịnh, an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy đều ở trước chúng, tự nhiên hoan hỷ ca ngợi tán dương tên họ và công đức của các Đại Bồ-tát ấy. Đó là công đức vi diệu của việc an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Có các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, dần dần viên mãn đại Bồ-đề đạo, dần dần viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đến sẽ đạt được trí nhất thiết trí, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở các thế giới chư Phật nhiều như số cát sông Hằng thuộc mười phương ở trước chúng tự nhiên hoan hỷ ca ngợi tán thán tên họ và các công đức của Đại Bồ-tát này, đó là công đức vi diệu của việc tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này có thể làm việc khó làm, không đoạn mất giống Phật, làm lợi ích hữu tình.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lúc các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói chánh pháp ở trước đại chúng, những Đại Bồ-tát nào được các Ngài tự nhiên hoan hỷ ca ngợi tán thán tên, dòng họ và công đức, đó là những vị đã đạt được địa vị bất thối chuyển hay những vị chưa đạt được?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có Đại Bồ-tát trụ nơi địa vị bất thối chuyển, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, được chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên vui mừng ca ngợi tán thán tên, dòng họ và các công đức của họ khi các Ngài nói chánh pháp ở trước đại chúng. Lại có Đại Bồ-tát tuy chưa được thọ ký nhưng thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì cũng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên vui mừng ca ngợi tán thán tên, dòng họ và các công đức của họ khi các Ngài nói chánh pháp ở trước đại chúng.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Điều ngài vừa nói là chỉ những Bồ-tát nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có Đại Bồ-tát học theo những việc của Phật Bất Động đã làm khi ngài còn là Bồ-tát và đạt được an trụ vào địa vị bất thối chuyển thì được các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên ca ngợi tán thán tên, dòng họ và các công đức khi các Ngài nói chánh pháp ở trước đại chúng. Lại có Đại Bồ-tát học theo các việc làm của Đại Bồ-tát Bảo Tràng, Đại Bồ-tát Đảnh Kế Đại Bồ-tát này tuy chưa được thọ ký nhưng nhờ siêng năng thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên cũng được các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên vui mừng ca ngợi tán thán tên, dòng họ và các công đức khi các Ngài nói chánh pháp ở trước đại chúng.

Lại nữa Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, tuy tin hiểu sâu sắc đối với tánh vô sanh của tất cả các pháp nhưng chưa chứng đắc vô sanh pháp nhẫn, tuy tin hiểu sâu sắc đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nhưng chưa đạt được vô sanh pháp nhẫn, tuy tin hiểu sâu sắc tính rốt ráo không của tất cả các pháp nhưng chưa chứng đắc vô sanh pháp nhẫn, tuy tin hiểu sâu sắc đối với tánh hoàn toàn vắng lặng của tất cả các pháp nhưng chưa đạt được vô sanh pháp nhẫn, tuy tin hiểu sâu sắc đối với tánh xa lìa của tất cả các pháp nhưng cũng chưa đạt được vô sanh pháp nhẫn, tuy tin hiểu sâu sắc đối với tánh hư vọng của tất cả các pháp nhưng chưa đạt được vô sanh pháp nhẫn, tuy tin hiểu sâu sắc tánh của tất cả các pháp đều là không nhưng cũng chưa đạt được vô sanh pháp nhẫn, tuy tin hiểu sâu sắc đối với tánh không sở hữu của tất cả các pháp nhưng chưa đạt được vô sanh pháp nhẫn, tuy tin hiểu sâu sắc đối với tánh tự tại của tất cả các pháp nhưng chưa đạt được vô sanh pháp nhẫn, tuy tin hiểu sâu sắc đối với tánh không chắc thật của tất cả các pháp nhưng chưa đạt được vô sanh pháp nhẫn. Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát như vậy cũng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên vui mừng ca ngợi tán thán tên, dòng họ, các công đức khi các Ngài nói chánh pháp trước đại chúng.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên hoan hỷ ca ngợi tán thán tên, dòng họ và các công đức khi các Ngài thuyết chánh pháp ở trước đại chúng thì Đại Bồ-tát đó vượt địa vị Thanh văn, Độc giác và chắc chắn đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa được các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên vui mừng ca ngợi tán thán tên, dòng họ và các công đức khi các Ngài thuyết pháp trước đại chúng thì Đại Bồ-tát đó chắc chắn sẽ an trụ ở địa vị bất thối chuyển. Sau khi đã an trụ ở địa vị đó họ sẽ mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa Thiện Hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào thuộc Bồ-tát thừa nghe nói các nghĩa lý của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghi, không ngờ, không mê, không lầm mà chỉ nghĩ: Như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa Phật đã dạy, lý ấy tất nhiên chắc chắn không trái ngược thì nhờ sanh lòng tin trong sạch khi nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy dần dần sẽ được nghe giảng rộng về Bát-nhã ba-la-mật-đa ở chỗ Phật Bất Động, chỗ các vị Đại Bồ-tát và tin hiểu sâu sắc đối với nghĩa lý của nó. Sau khi đã tin hiểu, họ sẽ được trụ ở địa vị bất thối chuyển. Trụ ở địa vị này rồi họ sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn thuộc Bồ-tát thừa chỉ nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này không nghi, không ngờ, không mê, không lầm, tin hiểu sâu sắc, không sanh phỉ báng còn đạt được vô số thiện căn vi diệu huống gì có thể thọ trì đọc tụng thông suốt, buộc niệm tư duy theo lý chơn như, an trụ vào chơn như siêng năng tu học thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn này sẽ mau an trụ vào địa vị bất thối chuyển và mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật tánh của các pháp trọn không thể nắm bắt thì vì sao có thể nói các Đại Bồ-tát an trụ chơn như siêng năng tu học sẽ mau an trụ vào địa vị bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như việc Phật hóa hiện an trụ vào chơn như tu hạnh Bồ-tát thì sẽ mau an trụ vào địa vị bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình; cũng lại như vậy các Đại Bồ-tát an trụ vào chơn như, tu hạnh Bồ-tát thì sẽ mau an trụ vào địa vị bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: 

- Việc hóa hiện của Như Lai đều vô sở hữu, pháp lìa chơn như cũng bất khả đắc, vậy ai trụ ở chơn như tu Bồ-tát hạnh, ai sẽ an trụ vào địa vị bất thối chuyển, ai chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ai chuyển pháp luân nói những pháp gì, cứu độ những chúng sanh gì? Bạch Thế Tôn! Chơn như còn không thể nắm bắt huống gì là việc an trụ chơn như, tu Bồ-tát hạnh sẽ mau an trụ ở địa vị bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình thì điều này chắc chắn không thể có được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng vậy. Như lời ông nói! Việc hóa hiện của Như Lai đều vô sở hữu, pháp lìa chơn như cũng bất khả đắc, thì ai trụ chơn như tu Bồ-tát hạnh, ai sẽ an trụ ở địa vị bất thối chuyển, ai chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ai chuyển pháp luân nói những pháp gì và độ chúng sanh gì?

Thiện Hiện! Chơn như còn bất khả đắc huống gì việc an trụ vào chơn như tu Bồ-tát hạnh để mau an trụ vào địa vị bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình thì điều này chắc chắn không thể có được. Vì sao?

 Thiện Hiện! Dù chư Phật có ra đời hay không ra đời thì các pháp vẫn như vậy, không lìa chơn như nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Thiện Hiện! Chắc chắn không có việc an trụ chơn như tu Bồ-tát hạnh nói rộng cho đến độ các hữu tình. Vì sao?

Thiện Hiện! Chơn như của các pháp không sanh không diệt cũng không trụ nơi khác, không thể nắm bắt được một phần nhỏ. Thiện Hiện! Nếu pháp không sanh không diệt cũng không trụ nơi khác, không thể nắm bắt được một phần nhỏ, vậy thì ai trụ trong đó tu Bồ-tát hạnh, ai sẽ an trụ ở địa vị bất thối chuyển, ai chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ai chuyển pháp luân, nói những pháp gì, cứu độ chúng sanh nào. Ở trong đó tất cả đều vô sở hữu. Sự việc như vậy thì chắc chắn là không có. Chỉ vì dựa vào thế tục mà giả bày ra là có.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất là sâu xa, khó tin, khó hiểu. Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa tuy biết các pháp đều bất khả đắc nhưng vẫn cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và muốn giảng bày chánh pháp cho các hữu tình là việc rất khó làm. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Chắc chắn không có việc an trụ chơn như tu Bồ-tát hạnh chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và nói chánh pháp cho các hữu tình nhưng các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán tất cả các pháp đều vô sở hữu, không kinh sợ, run rẩy, nghi ngờ ngăn trệ, hoang mang thối lui, cũng không mê muội buồn bực đối với pháp tánh sâu xa, các việc như vậy rất là hiếm có.

Bấy giờ Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Như lời ông nói. Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa quán tất cả các pháp đều vô sở hữu, không kinh sợ, run rẩy, không nghi ngờ ngăn trệ, không hoang mang thối lui, cũng không mê muội buồn bực đối với pháp tánh sâu xa. Các việc như vậy rất là hiếm có.

Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa quán thấy bản tánh các pháp đều là không, ở trong pháp không này mọi thứ đều vô sở hữu, vậy thì ai có thể kinh sợ cho đến mê muội buồn bực. Vì vậy việc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không kinh sợ, run rẩy, không nghi ngờ ngăn trệ, không hoang mang thối lui, không mê muội buồn bực đối với pháp tánh sâu xa cũng chưa phải là hiếm có.

Lúc đó, trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:

- Theo lời đại đức nói tất cả đều dựa vào pháp không vì vậy lời nói thường không ngăn ngại. Giống như dùng tên bắn vào hư không hoặc xa hoặc gần đều không ngăn ngại, lời đại đức nói cũng giống như vậy, ai có thể ở trong đó mà dám chống đối.

 

Tập 09

Quyển 457

Phẩm Thật Ngữ 01

 

 

Bấy giờ trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tôi nói như vậy, khen như vậy, thọ ký như vậy là thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Thế Tôn, đối với pháp, tùy theo pháp có phải là thọ ký chân chánh không?

Lúc ấy Phật bảo:

- Kiều-thi-ca! Ông nói như vậy, khen như vậy, thọ ký như vậy, thật là thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Thế Tôn, đối với pháp, tùy theo pháp đó thật là sự thọ ký chân chánh.

Lúc ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:

- Thật hiếm có thưa Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiện có nói điều gì cũng đều dựa vào pháp không, vô tướng, vô nguyện, dựa vào bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, cũng dựa vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, dựa vào tám giải thoát cho đến mười biến xứ, cũng dựa vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, dựa vào bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng dựa vào nội Không cho đến vô tính tự tính Không, dựa vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng dựa vào địa vị Đại Bồ-tát, dựa vào pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, cũng dựa vào năm loại mắt, sáu phép thần thông, dựa vào mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng dựa vào pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, dựa vào trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng dựa vào tất cả hạnh của Đại Bồ-tát, dựa vào quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Cụ thọ Thiện Hiện trụ ở pháp không, quán bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa còn bất khả đắc huống gì người thực hành bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa làm sao có thể nắm bắt, quán bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo còn bất khả đắc, huống gì người tu tập bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo làm sao có thể nắm bắt; quán bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn bất khả đắc huống gì người tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc làm sao có thể nắm bắt, quán tám giải thoát cho đến mười biến xứ còn bất khả đắc, huống gì người tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ làm sao có thể nắm bắt; quán Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo còn không thể nắm bắt huống gì người trụ nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo làm sao có thể nắm bắt; quán nội Không cho đến vô tính tự tính Không còn bất khả đắc huống gì người trụ ở nội Không cho đến vô tính tự tính Không làm sao có thể nắm bắt; quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì còn bất khả đắc, huống gì người trụ ở chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì làm sao có thể nắm bắt; quán pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện còn bất khả đắc, huống gì người tu pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện làm sao có thể nắm bắt; quán Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa làm sao có thể nắm bắt; quán pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa còn bất khả đắc huống gì người tu pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa làm sao có thể nắm bắt; quán năm loại mắt, sáu phép thần thông còn bất khả đắc huống là người làm phát sanh năm loại mắt, sáu phép thần thông làm sao có thể nắm bắt; quán mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng còn bất khả đắc huống gì người làm phát sanh mười lực Như Lai, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng làm sao có thể nắm bắt; quán pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả còn bất khả đắc huống gì người làm phát sanh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả làm sao có thể nắm bắt; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng còn bất khả đắc huống gì người làm phát sanh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng làm sao có thể nắm bắt; quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát còn bất khả đắc, huống gì người có thể thực hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát làm sao có thể nắm bắt; quán quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật còn bất khả đắc huống gì người có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật làm sao có thể nắm bắt; quán trí nhất thiết trí còn bất khả đắc huống gì người có thể đạt được trí nhất thiết trí làm sao có thể nắm bắt; quán bánh xe chánh pháp còn bất khả đắc huống gì người có thể vận chuyển bánh xe chánh pháp làm sao có thể nắm bắt; quán ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp còn bất khả đắc, huống gì người dùng tướng hảo này để trang nghiêm thân làm sao có thể nắm bắt; quán pháp không sanh, không diệt còn bất khả đắc huống gì người có thể chứng pháp không sanh, không diệt làm sao có thể nắm bắt. Vì sao?

Kiều-thi-ca! Đối với tất cả các pháp, cụ thọ Thiện Hiện trụ ở chỗ viễn ly, trụ ở chỗ vắng lặng, trụ ở chỗ vô sở hữu, trụ ở chỗ vô sở đắc, trụ ở chỗ rỗng không, trụ ở nơi vô tướng, trụ ở nơi vô nguyện. Kiều-thi-ca! Đối với tất cả các pháp, cụ thọ Thiện Hiện trụ ở những nơi rất thù thắng như vậy. Kiều-thi-ca! Việc trụ ở nơi rất thù thắng của Thiện Hiện so với chỗ trụ của Đại Bồ-tát đã thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, cho đến không bằng một phần rất nhỏ. Vì sao?

Kiều-thi-ca! Trừ chỗ trụ của Như Lai, đối với chỗ trụ của Thanh văn và Độc giác thì chỗ trụ vào việc thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Đại Bồ-tát là hơn hết, là thù thắng, là tôn quý, là cao cả, là diệu, là vi diệu, là ở trên, là vô thượng, là không gì sánh bằng. Vì sao?

Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào muốn đứng trên tất cả hữu tình thì nên đứng ở chỗ thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao?

Kiều-thi-ca! Các vị Đại Bồ-tát trụ ở chỗ này thì hơn hẳn địa vị Thanh văn, Độc giác, chứng nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, có thể mau viên mãn tất cả Phật pháp, vĩnh viễn đoạn trừ sự nối tiếp của tập khí phiền não có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí, được gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường làm lợi lạc tất cả hữu tình.

Bấy giờ trong chúng có vô lượng vô số trời Tam thập tam nghe lời Phật dạy sanh vui mừng cực độ. Mỗi vị cầm hoa thơm vi diệu ở cõi trời rải dâng lên Như Lai và các Bí-sô.

Lúc ấy sáu trăm Bí-sô ở trong chúng từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật, che kín vai trái, quỳ gối phải sát đất, khom người cung kính chấp tay hướng Phật chiêm ngưỡng dung nhan của đức Thế Tôn không chớp mắt. Nhờ thần lực của Phật, trong lòng bàn tay của mỗi vị tự nhiên tràn đầy hoa thơm vi diệu. Các vị Bí-sô vui mừng cực độ vì gặp việc chưa từng có. Họ đều đem hoa này rải lên dâng Phật và các Bồ-tát.

Sau khi đã rải hoa, họ đều phát nguyện: Chúng con xin nhờ sức thiện căn thù thắng này để được thường an trụ vào việc thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là chỗ mà Thanh văn, Độc giác không thể trụ được và mau đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vượt hẳn địa vị Thanh văn, Độc giác.

Bấy giờ, biết ý tăng thượng muốn đạt đến đại Bồ-đề quyết không thối lui của các Bí-sô, đức Thế Tôn liền mỉm cười. Như thường pháp của chư Phật, từ miệng ngài phóng ra đủ loại ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tím, bích, lục, vàng, bạc, pha lê chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Ánh sáng đó thu dần và nhiễu quanh thân Phật ba vòng rồi chui vào trên đảnh.

Sau khi thấy điềm lành này, Khánh Hỷ vui mừng cực độ rời khỏi chỗ ngồi đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:

Bạch đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà ngài mỉm cười, chư Phật mỉm cười chẳng phải là không có lý do, cúi xin Như Lai thương xót nói cho con biết.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Trong kiếp Tinh Dụ ở đời vị lai, các Bí-sô này sẽ được làm Phật có cùng hiệu là Tán Hoa Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Minh Hạnh Viên Mãn Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Trượng Phu Điều Ngự Sĩ Thiên Nhơn Sư Phật Thế Tôn Bạt-già-phạm. Họ có tuổi thọ, chỗ ở, quốc độ và các đệ tử Bí-sô tất cả đều giống nhau.

Các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này từ lúc mới sanh đi xuất gia cho đến sau khi thành Phật dù ở chỗ nào, dù ngày hay đêm cũng thường có mưa hoa thơm vi diệu năm màu. Vì lý do này ta mỉm cười. Vì vậy, này Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào muốn trụ ở nơi tối thắng thì phải thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát nào muốn đứng ở chỗ của Như Lai thì phải thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết, thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy vào đời trước hoặc từ trong loài người qua đời mà sanh trở lại nơi đây, hoặc từ cõi trời Đỗ-xử-đa qua đời, sanh vào loài người. Vào đời trước, hoặc ở trong loài người, hoặc ở trên trời, do đã từng nghe giảng rộng Bát-nhã ba-la-mật-đa nên vào đời này người ấy có thể siêng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Khánh Hỷ nên biết! Như Lai thấy thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào có thể siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không đoái hoài thân mạng, tài sản thì đúng là Đại Bồ-tát.

 

 

  

 

   Quyển thứ 457

Hết

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2018(Xem: 17266)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
23/08/2018(Xem: 6193)
Tôi thật may mắn được biết đến và là học trò của Hòa thượng Thích Minh Châu. Tôi có may mắn lớn này là nhờ bác Vũ Chầm, Chủ tịch VinaGiày, một tấm gương sáng về tu tập và phụng sự. Thế rồi mỗi lần từ Hà Nội vào Sài Gòn là tôi thường tìm mọi cách đến thăm Thầy. Mỗi lần được bên Thầy là một cơ hội được học hỏi, được dạy dỗ và chỉ bảo, được nhận năng lượng và bình an.
23/08/2018(Xem: 8320)
Thường trực BTS GHPFVN tỉnh Khánh Hòa vừa ký Cáo phó kính tiếc báo tin HT.Thích Đức Lưu, Ủy viên Ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, Trưởng BTS GHPGVN huyện Cam Lâm, Ủy viên Ban Tăng sự Phật giáo tỉnh, trụ trì chùa Pháp Vân tân viên tịch. Theo cáo phó, HT.Thích Đức Lưu do bệnh duyên.đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 18 giờ, ngày 21-8-2018 (11-7-Mậu Tuất) tại chùa Pháp Vân, xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa . Trụ thế 64 năm, hạ lạp 42 năm. Lễ nhập kim quan lúc 15g, ngày 22-8-2018 ( 12-7-Mậu Tuất), kim quan được tôn trí tại chùa Pháp Vân Lễ viếng bắt đầu từ 8 g, ngày 23-8-2018. Lễ tưởng niệm vào lúc 14g, ngày 25-8-2018 (nhằm 15-7-Mậu Tuất), sau đó 15g phụng tống kim quan nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Pháp Vân, Cam Lâm.
23/08/2018(Xem: 11680)
Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời phỏng vấn tiếng anh chia sẻ với Phật tử thế giới
18/08/2018(Xem: 5733)
Lễ Huý Nhật Lần thứ 1 Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu tại Chùa Phật Quang, Victoria, Úc Châu. Thứ Bảy, 18-8-2018 Chương Trình Lễ Huý Nhật: - Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm - Cung An Chức Sự (NS Thích Nữ Chân Kim) - Nghi cúng tiến Giác Linh Đức Trưởng lão Hòa Thượng - Lễ Chào Phật Giáo Kỳ và một phút nhập Từ Bi Quán - Tuyên bố lý do và giới thiệu chư Tôn Đức tham dự ( MC TT Thích Nguyên Tạng) - Cung tuyên Tiểu Sử Cố Trưởng Lão Hòa Thượng ( TT Thích Tâm Phương - Lời Đạo Tình của Trưởng Lão HT Thích Huyền Tôn, Phó Thượng Thủ GHPGVNTTG, Tăng Giáo Trưởng GHPGTNHNUĐLTTL Viện Chủ Chùa Bảo Vương - Lời tưởng niệm về Đức Trưởng Lão HT Thích Tâm Châu ( HT Thích Tịnh Đạo) - Dâng hoa cúng dường Giác Linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng - Ngâm thơ của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Truy niệm Giác Linh. (Phật tử Tuệ Minh) - Cảm Tạ của ban tổ chức. (ĐĐ Thích Chân Phong) - Cúng Dường Trai Tăng và hoàn mãn.
15/08/2018(Xem: 7687)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 6803)
Cách đây hơn một tuần, trong khi tìm kiếm tài liệu để viết lại tiểu sử tóm tắt của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương với các chi tiết chọn lọc, cần thiết, đã được cập nhật,theo ý của chúng tôi. Chúng tôi mới bỗng nhớ ra rằng: Năm 1978, lúc Ni Sư mới 15 tuổi, Ni Sư xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm (Đại Ninh - Việt Nam). Như vậy, tính đến năm 2018 này, là năm kỷ niệm 40 NĂM XUẤT GIA CỦA NI SƯ THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG. Tuy mới biết và được hầu chuyện Ni Sư chỉ năm mười phút ngắn ngủi tại Chùa Hương Sen, rồi sau đó đọc một số tác phẩm, những bài pháp luận, thuyết trình… của Ni Sư. Chỉ ngần ấy thôi, nhưng chúng tôi vẫn luôn lưu giữ cái cảm nhận rất chân thành và nghiêm túc này: Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là người rất mực khiêm cung, suy nghĩ cẩn mật. Rằng Ni Sư là người kiên tâm trì chí tu học và hành Đạo suốt 40 năm ấy; Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là “Người gieo duyên Phật pháp, gieo duyên Đạo”* không ngừng nghỉ và không biết mỏi mệt. Và rất nhiều đức khác mà chúng tôi kính trọng, ngưỡng vọng
11/08/2018(Xem: 7740)
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn: Chúc thọ Đức Đại Thụ Tăng Thống Thích Quảng Độ. Cung Kính Chúc Thọ Đại Thụ Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ Trí Lực câu viên Đạo Lực Tu Di ! Úc Châu Tiểu đệ HT Thích Huyền Tôn (91 tuổi).
03/08/2018(Xem: 24829)
Hòa Thượng Thích Minh Tuyền vừa viên tịch tại Nhật Bản, Hòa Thượng THÍCH MINH TUYỀN thế danh LÊ MINH TUYỀN sanh ngày 08 tháng 09 năm 1938 (Mậu Dần), tại thôn Bình Hội, thị trấn Chợ Lầu, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Xuất gia năm 7 tuổi (Năm Ất Dậu (1945) tại Chùa Bửu Tích thuộc thôn Bình Liêm, xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Năm 1970, HT đến du học tại Nhật Bản và lưu trú đến ngày nay. Vì tuổi cao sức yếu, Nài đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 3giờ 35 phút sáng ngày 22 tháng 08 năm 2017 (nhằm ngày 01 tháng 07 nhuần năm Đinh Dậu), trụ thế 80 năm, 60 hạ lạp. Chương trình Tang Lễ của Hòa Thượng Tân Viên Tịch sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất. Ngưỡng mong Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và Quý Đồng Hương Phật Tử gần xa nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Tân Viên Tịch Thích Minh Tuyền Cao Đăng Phật Quốc.
01/08/2018(Xem: 10265)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ cùng Môn Đồ Pháp Quyến thành kính báo tin: Tỳ Kheo Thích Nguyên Kim, Pháp tự Toàn Hiệp, Pháp hiệu Tâm Không, Nguyên Thành viên GHPGVNTNHK, Giáo Thọ Sư Chùa Cổ Lâm, Seattle, WA, Hoa Kỳ, và Chứng minh Đạo Sư Đạo Tràng Nhân Quả, Garden Grove do tuổi già sức yếu đã thuận thế vô thường viên tịch lúc 10:30 sáng Thứ Hai, ngày 30 tháng 7 năm 2018 tại bệnh viện Tri - City Medical Center Thành Phố Oceanside. Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843; Phone: (714) 251-9067. Lễ Tưởng Niệm sẽ được cử hành vào lúc 6:30 sáng Chủ Nhật, ngày 5 tháng 8 tại Chùa Bát Nhã, 4717 W. First St., Santa Ana, CA 92703, Tel. (714) 571-0473. Kính mong chư Tôn Đức Tăng Ni cùng quý Đồng Hương Phật Tử nhất tâm hộ niệm Giác Linh Tỳ Kheo tân viên tịch Thích Nguyên Kim cao đăng Phật Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]