Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 425: Phẩm Đế Thích 01

21/07/201509:58(Xem: 13783)
Quyển 425: Phẩm Đế Thích 01

Tập 08

Quyển 425

 Phẩm Đế Thích 01

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

 

 

Bấy giờ, ở ba ngàn đại thiên thế giới thế giới Kham Nhẫn này có trời Tứ đại vương cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi (ức) các Thiên tử cõi trời Tứ đại vương đều đến hội hợp; có vua trời Thiên Đế cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các Thiên tử cõi trời Ba mươi ba đều đến hội hợp; có vua trời Tô-dạ-ma cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các Thiên tử cõi trời Dạ-ma đều đến hội hợp; có vua trời San-đổ-sử-đa cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các Thiên tử cõi trời Đổ-sử-đa đều đến hội hợp; có vua trời Diệu biến hóa cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các Thiên tử cõi trời Lạc biến hóa đều đến hội hợp; có vua trời Tự tại cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các Thiên tử cõi trời Tha hóa tự tại đều đến hội hợp; có vua trời Đại phạm cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi các thiên chúng trời Đại phạm đều đến hội hợp; có trời Cực quang tịnh cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi thiên chúng đắc tịnh lự thứ hai đều đến hội hợp; có trời Biến tịnh cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi thiên chúng đắc tịnh lự thứ ba đều đến hội hợp; có trời Quảng quả cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi thiên chúng đắc tịnh lự thứ tư đều đến hội hợp; có trời Sắc cứu cánh cùng với vô lượng trăm ngàn Câu-chi thiên chúng trời Tịnh cư đều đến hội hợp. Thiên chúng cõi trời Tứ đại vương, cho đến thiên chúng trời Tịnh cư có nghiệp dị thục thanh tịnh thân có ánh sáng, so với ánh sáng thường hiện của thân Như Lai không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, không bằng một phần Câu-chi, không bằng một phần trăm Câu-chi, không bằng một phần ngàn Câu-chi, không bằng một phần trăm ngàn Câu-chi, như vậy, cho đến số phần, toán phần, kế phần, dụ phần, cho đến cũng không bằng một phần cực số. Vì sao? Vì ánh sáng thường hiện của thân Như Lai rất rực rỡ, trong các ánh sáng là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, vô tỷ, vô đẳng, vô thượng, đệ nhất, che ánh sáng chư Thiên làm cho bị ẩn mất, giống như đốm lửa tim đèn đối với vàng Thiệm-bộ.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch cụ thọ Thiện Hiện:

- Hôm nay, ba ngàn đại thiên thế giới này có chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Tịnh cư đều đến hội hợp, muốn nghe Tôn giả thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nguyện xin Tôn giả biết thời giảng cho.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát? Đại Bồ-tát trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào? Đại Bồ-tát học Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào?

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca và các thiên chúng! Hãy lắng nghe, lắng nghe và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ nương thần lực của Phật, theo ý Như Lai, thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát có thể ở trong đó nên trụ như vậy, học như vậy.

Này Kiều-thi-ca và các Thiên chúng! Vị nào chưa phát tâm Vô Thượng Bồ-đề nay đều nên phát.

Này Kiều-thi-ca! Các vị nào đã nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc giác rồi thì không thể phát tâm đại Bồ-đề nữa. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì những vị ấy đã chấm dứt việc sanh tử. Trong đây, nếu vị nào có thể phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì những vị thù thắng nên cầu pháp thù thắng; tôi hoàn toàn không làm trở ngại phẩm thiện thắng của họ.

Này Kiều-thi-ca! Theo ông hỏi thế nào là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát. Các ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói cho. Này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy sắc cho đến thức hoặc vô thường, hoặc khổ, hoặc vô ngã, hoặc không, hoặc như bệnh, hoặc như ung nhọt, hoặc như mũi tên, hoặc mụt ghẻ, hoặc nóng nảy, hoặc bức bách, hoặc hư hoại, hoặc mục nát, hoặc lay chuyển, hoặc mau diệt, hoặc đáng sợ, hoặc đáng nhàm chán, hoặc có tai ách, hoặc có oan ức, hoặc có bệnh dịch, hoặc có bệnh hủi, hoặc không an ổn, hoặc không thể tín nhiệm. Tư duy nhãn xứ cho đến ý xứ. Tư duy sắc xứ cho đến pháp xứ. Tư duy nhãn giới cho đến ý giới. Tư duy sắc giới cho đến pháp giới. Tư duy nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Tư duy nhãn xúc cho đến ý xúc. Tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Tư duy địa giới cho đến thức giới cũng như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy sắc cho đến thức hoặc tịch tịnh, hoặc viễn ly, hoặc vô sanh, hoặc vô diệt, hoặc vô nhiễm, hoặc vô tịnh, hoặc vô tác, hoặc vô vi. Tư duy nhãn xứ cho đến ý xứ. Tư duy sắc xứ cho đến pháp xứ. Tư duy nhãn giới cho đến ý giới. Tư duy sắc giới cho đến pháp giới. Tư duy nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Tư duy nhãn xúc cho đến ý xúc. Tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Tư duy địa giới cho đến thức giới cũng như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử cho đến tập hợp hoàn toàn khổ lớn. Đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lão tử diệt cho đến tập hợp hoàn toàn khổ lớn cũng diệt.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, an trụ pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh. An trụ chơn như, pháp giới, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v...

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu hành pháp môn giải thoát không, cho đến pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Tu hành mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành tất cả môn Tam-ma-địa, môn Đà-la-ni. Tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, quán như vầy: Chỉ có các pháp bồi bổ lẫn nhau, tăng trưởng lẫn nhau, viên mãn lẫn nhau. Tư duy suy tính không ngã, ngã sở. Lại quán như vầy: Tâm hồi hướng của các Đại Bồ-tát không hòa hợp với tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề cũng không hòa hợp với tâm hồi hướng. Nghĩa là tâm hồi hướng của Đại Bồ-tát trong tâm Bồ-đề vô sở hữu bất khả đắc. Tâm Bồ-đề trong tâm hồi hướng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát tuy như thật quán sát các pháp nhưng đối với các pháp hoàn toàn không có sự thấy.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Thế nào là tâm hồi hướng của Đại Bồ-tát không hòa hợp với tâm Bồ-đề, tâm Bồ-đề cũng không hòa hợp với tâm hồi hướng?

Thế nào là tâm hồi hướng của Đại Bồ-tát trong tâm Bồ-đề vô sở hữu bất khả đắc, tâm Bồ-đề trong tâm hồi hướng cũng vô sở hữu bất khả đắc?

Thiện Hiện đáp:

- Này Kiều-thi-ca! Tâm hồi hướng của các Đại Bồ-tát là chẳng phải tâm, tâm Bồ-đề cũng chẳng phải tâm. Không thể nào chẳng phải tâm hồi hướng chẳng phải tâm? Tâm cũng không thể nào hồi hướng chẳng phải tâm? Chẳng phải tâm không thể nào hồi hướng đến tâm? Tâm cũng không thể nào hồi hướng đến tâm? Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì chẳng phải tâm tức là bất khả tư nghì, bất khả tư nghì tức là chẳng phải tâm, hai pháp này đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có nghĩa hồi hướng.

Này Kiều-thi-ca! Tâm không có tự tánh. Tánh của tâm là không nên tâm sở cũng không. Tâm và tâm sở đã không có tự tánh, nên tâm cũng không có nghĩa tâm hồi hướng.

Này Kiều-thi-ca! Nếu quán như vậy, gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông khéo thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát, cũng khéo khuyên bảo các Đại Bồ-tát làm cho hoan hỷ, khuyên tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con đã biết ân rồi không thể nào không báo ân. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử đời quá khứ đã thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát, thị hiện dạy bảo, khen ngợi, sách tấn, vui mừng, an ủi, hướng dẫn làm cho đắc cứu cánh. Khi đó, Thế Tôn cũng học pháp này nên nay chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe diệu pháp làm lợi lạc cho chúng con. Nay chúng con nên theo lời Phật dạy, thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát thị hiện dạy bảo, khen ngợi, sách tấn, vui mừng, an ủi, hướng dẫn làm cho đắc cứu cánh, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như vậy gọi là báo đáp ân đức kia.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Ông hỏi Đại Bồ-tát trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào. Các ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói. Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ vào chỗ cần phải trụ, không nên trụ tướng.

Này Kiều-thi-ca! Sắc, sắc không; thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức không; Bồ-tát, Bồ-tát không; hoặc sắc không, hoặc thọ, tưởng, hành, thức không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai phần.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Nhãn xứ, nhãn xứ không, cho đến ý xứ, ý xứ không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc nhãn xứ không, cho đến hoặc ý xứ không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Sắc xứ, sắc xứ không, cho đến pháp xứ, pháp xứ không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc sắc xứ không, cho đến hoặc pháp xứ không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Nhãn giới, nhãn giới không, cho đến ý giới, ý giới không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc nhãn giới không, cho đến hoặc ý giới không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Sắc giới, sắc giới không, cho đến pháp giới, pháp giới không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc sắc giới không, cho đến hoặc pháp giới không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Nhãn thức giới, nhãn thức giới không, cho đến ý thức giới, ý thức giới không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc nhãn thức giới không, cho đến hoặc ý thức giới không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Nhãn xúc, nhãn xúc không, cho đến ý xúc, ý xúc không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc nhãn xúc không, cho đến hoặc ý xúc không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không, cho đến hoặc các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Địa giới, địa giới không, cho đến thức giới, thức giới không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc địa giới không, cho đến hoặc thức giới không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Vô minh, vô minh không, cho đến lão tử, lão tử không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc vô minh không, cho đến hoặc lão tử không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Vô minh diệt, vô minh diệt không, cho đến lão tử diệt, lão tử diệt không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc vô minh diệt không, cho đến hoặc lão tử diệt không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Bố thí Ba-la-mật-đa, bố thí Ba-la-mật-đa không, cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc bố thí Ba-la-mật-đa không, cho đến hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Pháp không nội, pháp không nội không, cho đến pháp không vô tánh tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc pháp không nội không, cho đến hoặc pháp không vô tánh tự tánh không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Bốn niệm trụ, bốn niệm trụ không, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mười tám pháp Phật bất cộng không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc bốn niệm trụ không, cho đến hoặc mười tám pháp Phật bất cộng không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Tam-ma-địa không; tất cả môn Đà-la-ni, tất cả môn Đà-la-ni không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc tất cả môn Tam-ma-địa không, hoặc tất cả môn Đà-la-ni không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Thanh văn thừa, Thanh văn thừa không; Độc giác thừa, Vô thượng thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc Thanh văn thừa không; hoặc Độc giác thừa, Vô thượng thừa không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Dự lưu, Dự lưu không, cho đến Như Lai, Như Lai không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc Dự lưu không, cho đến hoặc Như Lai không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Trí nhất thiết, trí nhất thiết không; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không; Bồ-tát, Bồ-tát không. Hoặc trí nhất thiết không; hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không, hoặc Bồ-tát không. Như vậy tất cả đều không hai, không hai chỗ.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ như vậy.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Vì sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ bất cứ pháp nào?

Thiện Hiện đáp:

- Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ sắc; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ nhãn xứ, cho đến không nên trụ ý xứ. Không nên trụ sắc xứ, cho đến không nên trụ pháp xứ. Không nên trụ nhãn giới, cho đến không nên trụ ý giới. Không nên trụ sắc giới, cho đến không nên trụ pháp giới. Không nên trụ nhãn thức giới, cho đến không nên trụ ý thức giới. Không nên trụ nhãn xúc, cho đến không nên trụ ý xúc. Không nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến chẳng trụ các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Không nên trụ địa giới, cho đến không nên trụ thức giới. Không nên trụ vô minh, cho đến không nên trụ lão tử. Không nên trụ vô minh diệt, cho đến không nên trụ lão tử diệt. Không nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến không nên trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không nên trụ pháp không nội, cho đến không nên trụ pháp không vô tánh tự tánh. Không nên trụ bốn niệm trụ, cho đến không nên trụ mười tám pháp Phật bất cộng. Không nên trụ tất cả môn Tam-ma-địa; không nên trụ tất cả môn Đà-la-ni. Không nên trụ Thanh văn thừa; không nên trụ Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Không nên trụ Dự lưu cho đến không nên trụ Như Lai. Không nên trụ trí nhất thiết; không nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ đây là sắc cho đến đây là thức. Không nên trụ đây là nhãn xứ cho đến đây là ý xứ. Không nên trụ đây là sắc xứ cho đến đây là pháp xứ. Không nên trụ đây là nhãn giới cho đến đây là ý giới. Không nên trụ đây là sắc giới cho đến đây là pháp giới. Không nên trụ đây là nhãn thức giới cho đến đây là ý thức giới. Không nên trụ đây là nhãn xúc cho đến đây là ý xúc. Không nên trụ đây là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến đây là các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Không nên trụ đây là địa giới cho đến đây là thức giới. Không nên trụ đây là vô minh cho đến đây là lão tử. Không nên trụ đây là vô minh diệt cho đến đây là lão tử diệt. Không nên trụ đây là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến đây là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không nên trụ đây là pháp không nội cho đến đây là pháp không vô tánh tự tánh. Không nên trụ đây là bốn niệm trụ cho đến đây là mười tám pháp Phật bất cộng. Không nên trụ đây là tất cả môn Tam-ma-địa, đây là tất cả môn Đà-la-ni. Không nên trụ đây là Thanh văn thừa, đây là Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Không nên trụ đây là Dự lưu cho đến đây là Như Lai. Không nên trụ đây là trí nhất thiết, đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ sắc cho đến thức hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc không, hoặc bất không, hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ nhãn xứ cho đến ý xứ hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ sắc xứ cho đến pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ nhãn giới cho đến ý giới hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ sắc giới cho đến pháp giới hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ nhãn thức giới cho đến ý thức giới hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ địa giới cho đến thức giới hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ vô minh cho đến lão tử hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ vô minh diệt cho đến lão tử diệt hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ Dự lưu cho đến Như Lai hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Không nên trụ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ quả Dự lưu hoặc hiển thị hữu vi, hoặc hiển thị vô vi. Không nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-đề, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật hoặc hiển thị hữu vi, hoặc hiển thị vô vi. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ Dự lưu là phước điền. Không nên trụ Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, như Lai là phước điền. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ sơ địa cho đến không nên trụ thập địa. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc. Vì sao? Vì trụ như vậy là có động chuyển.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ mới phát tâm rồi liền nghĩ như vầy: Tôi sẽ viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không nên trụ mới phát tâm rồi liền nghĩ như vầy: Tôi  sẽ tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Không nên trụ mới phát tâm rồi liền nghĩ như vầy: Tôi sẽ tu hành ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi tu giai đoạn đầu đã viên mãn sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi đã được nhập Chánh tánh ly sanh, sẽ trụ bậc Bất thối chuyển của Bồ-tát. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ viên mãn ngũ thông của Bồ-tát. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ trụ viên mãn ngũ thông của Bồ-tát, thường đến vô lượng, vô số cõi Phật, kính lễ chiêm ngưỡng, cúng dường phụng sự chư Phật Thế Tôn, lắng nghe chánh pháp, tư duy đúng lý, thuyết giảng cho người nghe. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ làm trang nghiêm tịnh độ như cõi Phật trong mười phương. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ biến hóa tịnh độ như cõi Phật trong mười phương. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ giáo hóa các loại hữu tình làm cho chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc vào Niết-bàn, hoặc an vui cõi trời, người. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ đến vô lượng, vô số cõi nước chư Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi chư Phật Thế Tôn. Lại đem cúng dường vô biên hoa hương, anh lạc, tràng phan, bảo cái, y phục, đồ nằm, ngồi, thức ăn, uống, đèn sáng, trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa (ngàn ức) các thứ nhạc trời, và vô lượng châu báu tốt đẹp. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ hướng dẫn vô lượng, vô biên, vô số hữu tình, làm cho họ không thối chuyển quả Vô Thượng Bồ-đề. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn thanh tịnh. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu các môn đẳng trì, đối với các đẳng trì được tự tại an trụ. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu các môn tổng trì, đối với các môn tổng trì đều được tự tại. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, làm cho các hữu tình trông thấy đều vui vẻ, xem không nhàm chán. Do đây chứng đắc lợi ích an lạc. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên trụ đây là Bổ-đặc-già-la thứ tám, đây là tùy tín hành, đây là tùy pháp hành. Không nên trụ đây là Dự lưu còn tối đa bảy lần sanh trở lại, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn. Không nên trụ đây là Bổ-đặc-già-la đứng đầu, đến khi mạng sống hết, phiền não mới hết. Không nên trụ đây là Dự lưu quyết định không đọa pháp, đây là Nhất lai đến thế gian này được dứt hết khổ. Không nên trụ đây là Bất hoàn hướng, đây là Bất hoàn quả, đến đó mới đắc Niết-bàn. Không nên trụ đây là A-la-hán chấm dứt đời sau, hiện tại chắc chắn nhập Vô dư Niết-bàn. Không nên trụ đây là Độc giác. Không nên trụ đây là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi đã vượt qua địa Thanh văn, Độc giác, trụ địa Bồ-tát. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ đầy đủ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đã hiểu tất cả pháp, tất cả tướng đoạn hẳn tất cả tập khí tương tục của phiền não trói buộc. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã mong cầu, được thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chuyển bánh xe diệu pháp, làm các Phật sự, độ thoát vô lượng, vô số hữu tình, làm cho đắc Niết-bàn rốt ráo an lạc. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ khéo tu bốn thần túc, đã an trụ đẳng trì (định) thù thắng như vậy. Do đẳng trì (định) này tăng thêm thế lực, làm cho tuổi thọ của tôi đến hằng hà sa số thế giới đại kiếp. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ được tuổi thọ vô lượng, vô biên. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu ba mươi hai tướng, mỗi mỗi tướng này trăm phước trang nghiêm. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ thành tựu tám mươi vẻ đẹp, mỗi mỗi vẻ đẹp này có vô lượng, vô số điều hy hữu thù thắng. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ an trụ cõi tịnh độ trang nghiêm, cõi ấy rộng lớn như bề mặt hằng hà sa số thế giới trong mười phương. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ an tọa trên tòa kim cương, tòa ấy rộng lớn bằng ba ngàn đại thiên thế giới. Không nên trụ nghĩ như vầy: Tôi sẽ nghỉ ở dưới cội cây Bồ-đề, cây ấy cao rộng được trang nghiêm bằng các châu báu, phát ra hương thơm vi diệu, hữu tình ngửi được, tâm tham, sân, si v.v... mau được tiêu trừ, vô lượng, vô biên bệnh của thân cũng được lành mạnh. Người nào ngửi được mùi hương cây Bồ-đề này xa lìa tác ý các Thanh văn, Độc giác, chắc chắn được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Không nên trụ nghĩ như vầy: Nguyện cho tôi sẽ được cõi Phật nghiêm tịnh. Cõi ấy thanh tịnh không nghe tên sắc uẩn; không nghe tên thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Không nghe tên nhãn xứ; không nghe tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Không nghe tên sắc xứ; không nghe tên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Không nghe tên nhãn giới; không nghe tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Không nghe tên sắc giới; không nghe tên thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Không nghe tên nhãn thức giới; không nghe tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Không nghe tên nhãn xúc; không nghe tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Không nghe tên các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; không nghe tên các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Không nghe tên địa giới; không nghe tên thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Không nghe tên vô minh; không nghe tên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Chỉ có nghe tên bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến chỉ nghe tên Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Chỉ có nghe tên pháp không nội, cho đến chỉ có nghe tên pháp không vô tánh tự tánh. Chỉ có nghe tên chơn như, cho đến chỉ có nghe tên cảnh giới bất tư nghì. Chỉ có nghe tên bốn niệm trụ, nói rộng cho đến chỉ có nghe tên mười tám pháp Phật bất cộng. Trong đó hoàn toàn không nghe tên Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Phàm phu v.v... Chỉ có nghe tên Đại Bồ-tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác v.v... Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trụ như vậy là có sở đắc. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hiểu tất cả pháp đều vô sở hữu. Tất cả chúng Đại Bồ-tát khi trụ bậc Bất thối chuyển cũng thấy các pháp đều vô sở hữu.

Này Kiều-thi-ca! Đó gọi là Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên trụ vào chỗ cần phải trụ, không nên trụ tướng.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, tùy theo chỗ nên trụ, không nên trụ tướng, đem vô sở đắc làm phương tiện nên học như vậy.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử nghĩ như vầy: nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không nên trụ thì tại sao trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm Xá-lợi Tử liền nói:

- Ý ông thế nào? Tâm các Như Lai trụ ở nơi nào?

Xá-lợi Tử đáp:

- Tâm các Như Lai hoàn toàn không có chỗ trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tâm Như Lai không trụ sắc, không trụ thọ, tưởng, hành, thức. Không trụ nhãn xứ; không trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Không trụ sắc xứ; không trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Không trụ nhãn giới; không trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Không trụ sắc giới; không trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Không trụ nhãn thức giới; không trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Không trụ nhãn xúc; không trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Không trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; không trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Không trụ hữu vi giới; không trụ vô vi giới. Không trụ bốn niệm trụ, nói rộng cho đến không trụ mười tám pháp Phật bất cộng. Không trụ trí nhất thiết; không trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tất cả pháp bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Tâm Như Lai đối với tất cả pháp hoàn toàn không có chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng như vậy; tuy trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng đồng với Như Lai đối với tất cả pháp hoàn toàn không có chỗ trụ cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tuy trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng đối với sắc chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ, cho đến đối với trí nhất thiết tướng cũng chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì các pháp sắc v.v... không có hai tướng.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, tùy theo tướng chẳng trụ chẳng phải không trụ này, đem vô sở đắc làm phương tiện nên học như vậy.

Bấy giờ, trong hội có các Thiên tử thầm nghĩ: Câu thần chú của Dược-xoa v.v... tuy là bí mật mà chúng ta còn có thể hiểu được. Tôn giả Thiện Hiện với Bát-nhã Ba-la-mật-đa này, tuy dùng các lời nói chỉ bày nhưng chúng ta hoàn toàn không hiểu được.

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của các Thiên tử, liền bảo họ:

- Này các Thiên tử! Các ông không thể hiểu được các lời ta nói sao?

Các Thiên tử đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Cụ thọ Thiện Hiện lại bảo các Thiên tử:

- Tôi từng ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này không nói một chữ, các ông cũng không nghe thì hiểu chỗ nào? Vì sao? Này các Thiên tử! Trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, văn tự lời nói đều xa lìa. Do đó, người nói, người nghe và người có thể hiểu trong đây đều bất khả đắc. Việc chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thâm sâu, vi diệu của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng như vậy.

Này các Thiên tử! Như việc hóa thân của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hóa thân làm bốn chúng đều đến hội hợp mà thuyết pháp. Ý các ông thế nào? Trong đây có thật có người nói, người nghe, người có thể hiểu không?

Các Thiên tử đáp:

- Bạch Đại đức! Không!

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy! Các Thiên tử! Tất cả pháp đều như biến hóa. Nay ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này người nói, người nghe và người có thể hiểu đều bất khả đắc.

Này các Thiên tử! Như người trong mộng, thấy có Phật thuyết giảng chánh pháp cho các đại chúng. Ý các ông thế nào? Trong đây có thật có người nói, người nghe, người có thể hiểu không?

Các Thiên tử thưa:

- Bạch Đại đức! Không!

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như mộng. Nay ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này, người nói, người nghe và người có thể hiểu đều bất khả đắc.

Này các Thiên tử! Như có hai người ở trong một hang núi, mỗi người đứng một phía, cùng phát ra tiếng khen ngợi Phật, Pháp, Tăng. Ý các ông thế nào? Hai tiếng vang này có thể nghe lẫn nhau và biết lẫn nhau không?

Các Thiên tử đáp:

- Bạch Đại đức! Không!

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như tiếng vang. Nay ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này, người nói, người nghe và người có thể hiểu đều bất khả đắc.

Này các Thiên tử! Như nhà ảo thuật tài giỏi hoặc đệ tử người ấy, ở ngã tư đường ảo thuật làm bốn chúng và đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do ảo thuật biến hóa, thuyết giảng chánh pháp cho bốn chúng do ảo thuật biến hóa. Ý các ông thế nào? Trong đây có thật có người nói, người nghe và người có thể hiểu không?

Các Thiên tử đáp:

- Bạch Đại đức! Không!

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như huyễn. Nay ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này, người nói, người nghe và người có thể hiểu đều bất khả đắc.

Này các Thiên tử! Do nhân duyên này, tôi từng ở trong nghĩa tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này không nói một chữ. Các ông cũng không nghe thì hiểu chỗ nào?

 

Quyển thứ 425

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2018(Xem: 17266)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
23/08/2018(Xem: 6193)
Tôi thật may mắn được biết đến và là học trò của Hòa thượng Thích Minh Châu. Tôi có may mắn lớn này là nhờ bác Vũ Chầm, Chủ tịch VinaGiày, một tấm gương sáng về tu tập và phụng sự. Thế rồi mỗi lần từ Hà Nội vào Sài Gòn là tôi thường tìm mọi cách đến thăm Thầy. Mỗi lần được bên Thầy là một cơ hội được học hỏi, được dạy dỗ và chỉ bảo, được nhận năng lượng và bình an.
23/08/2018(Xem: 8320)
Thường trực BTS GHPFVN tỉnh Khánh Hòa vừa ký Cáo phó kính tiếc báo tin HT.Thích Đức Lưu, Ủy viên Ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, Trưởng BTS GHPGVN huyện Cam Lâm, Ủy viên Ban Tăng sự Phật giáo tỉnh, trụ trì chùa Pháp Vân tân viên tịch. Theo cáo phó, HT.Thích Đức Lưu do bệnh duyên.đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 18 giờ, ngày 21-8-2018 (11-7-Mậu Tuất) tại chùa Pháp Vân, xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa . Trụ thế 64 năm, hạ lạp 42 năm. Lễ nhập kim quan lúc 15g, ngày 22-8-2018 ( 12-7-Mậu Tuất), kim quan được tôn trí tại chùa Pháp Vân Lễ viếng bắt đầu từ 8 g, ngày 23-8-2018. Lễ tưởng niệm vào lúc 14g, ngày 25-8-2018 (nhằm 15-7-Mậu Tuất), sau đó 15g phụng tống kim quan nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Pháp Vân, Cam Lâm.
23/08/2018(Xem: 11680)
Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời phỏng vấn tiếng anh chia sẻ với Phật tử thế giới
18/08/2018(Xem: 5733)
Lễ Huý Nhật Lần thứ 1 Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu tại Chùa Phật Quang, Victoria, Úc Châu. Thứ Bảy, 18-8-2018 Chương Trình Lễ Huý Nhật: - Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm - Cung An Chức Sự (NS Thích Nữ Chân Kim) - Nghi cúng tiến Giác Linh Đức Trưởng lão Hòa Thượng - Lễ Chào Phật Giáo Kỳ và một phút nhập Từ Bi Quán - Tuyên bố lý do và giới thiệu chư Tôn Đức tham dự ( MC TT Thích Nguyên Tạng) - Cung tuyên Tiểu Sử Cố Trưởng Lão Hòa Thượng ( TT Thích Tâm Phương - Lời Đạo Tình của Trưởng Lão HT Thích Huyền Tôn, Phó Thượng Thủ GHPGVNTTG, Tăng Giáo Trưởng GHPGTNHNUĐLTTL Viện Chủ Chùa Bảo Vương - Lời tưởng niệm về Đức Trưởng Lão HT Thích Tâm Châu ( HT Thích Tịnh Đạo) - Dâng hoa cúng dường Giác Linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng - Ngâm thơ của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Truy niệm Giác Linh. (Phật tử Tuệ Minh) - Cảm Tạ của ban tổ chức. (ĐĐ Thích Chân Phong) - Cúng Dường Trai Tăng và hoàn mãn.
15/08/2018(Xem: 7687)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 6803)
Cách đây hơn một tuần, trong khi tìm kiếm tài liệu để viết lại tiểu sử tóm tắt của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương với các chi tiết chọn lọc, cần thiết, đã được cập nhật,theo ý của chúng tôi. Chúng tôi mới bỗng nhớ ra rằng: Năm 1978, lúc Ni Sư mới 15 tuổi, Ni Sư xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm (Đại Ninh - Việt Nam). Như vậy, tính đến năm 2018 này, là năm kỷ niệm 40 NĂM XUẤT GIA CỦA NI SƯ THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG. Tuy mới biết và được hầu chuyện Ni Sư chỉ năm mười phút ngắn ngủi tại Chùa Hương Sen, rồi sau đó đọc một số tác phẩm, những bài pháp luận, thuyết trình… của Ni Sư. Chỉ ngần ấy thôi, nhưng chúng tôi vẫn luôn lưu giữ cái cảm nhận rất chân thành và nghiêm túc này: Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là người rất mực khiêm cung, suy nghĩ cẩn mật. Rằng Ni Sư là người kiên tâm trì chí tu học và hành Đạo suốt 40 năm ấy; Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là “Người gieo duyên Phật pháp, gieo duyên Đạo”* không ngừng nghỉ và không biết mỏi mệt. Và rất nhiều đức khác mà chúng tôi kính trọng, ngưỡng vọng
11/08/2018(Xem: 7740)
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn: Chúc thọ Đức Đại Thụ Tăng Thống Thích Quảng Độ. Cung Kính Chúc Thọ Đại Thụ Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ Trí Lực câu viên Đạo Lực Tu Di ! Úc Châu Tiểu đệ HT Thích Huyền Tôn (91 tuổi).
03/08/2018(Xem: 24829)
Hòa Thượng Thích Minh Tuyền vừa viên tịch tại Nhật Bản, Hòa Thượng THÍCH MINH TUYỀN thế danh LÊ MINH TUYỀN sanh ngày 08 tháng 09 năm 1938 (Mậu Dần), tại thôn Bình Hội, thị trấn Chợ Lầu, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Xuất gia năm 7 tuổi (Năm Ất Dậu (1945) tại Chùa Bửu Tích thuộc thôn Bình Liêm, xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Năm 1970, HT đến du học tại Nhật Bản và lưu trú đến ngày nay. Vì tuổi cao sức yếu, Nài đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 3giờ 35 phút sáng ngày 22 tháng 08 năm 2017 (nhằm ngày 01 tháng 07 nhuần năm Đinh Dậu), trụ thế 80 năm, 60 hạ lạp. Chương trình Tang Lễ của Hòa Thượng Tân Viên Tịch sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất. Ngưỡng mong Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và Quý Đồng Hương Phật Tử gần xa nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Tân Viên Tịch Thích Minh Tuyền Cao Đăng Phật Quốc.
01/08/2018(Xem: 10265)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ cùng Môn Đồ Pháp Quyến thành kính báo tin: Tỳ Kheo Thích Nguyên Kim, Pháp tự Toàn Hiệp, Pháp hiệu Tâm Không, Nguyên Thành viên GHPGVNTNHK, Giáo Thọ Sư Chùa Cổ Lâm, Seattle, WA, Hoa Kỳ, và Chứng minh Đạo Sư Đạo Tràng Nhân Quả, Garden Grove do tuổi già sức yếu đã thuận thế vô thường viên tịch lúc 10:30 sáng Thứ Hai, ngày 30 tháng 7 năm 2018 tại bệnh viện Tri - City Medical Center Thành Phố Oceanside. Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843; Phone: (714) 251-9067. Lễ Tưởng Niệm sẽ được cử hành vào lúc 6:30 sáng Chủ Nhật, ngày 5 tháng 8 tại Chùa Bát Nhã, 4717 W. First St., Santa Ana, CA 92703, Tel. (714) 571-0473. Kính mong chư Tôn Đức Tăng Ni cùng quý Đồng Hương Phật Tử nhất tâm hộ niệm Giác Linh Tỳ Kheo tân viên tịch Thích Nguyên Kim cao đăng Phật Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]