Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 102: Phẩm Nhiếp Thọ 4

07/07/201517:03(Xem: 14041)
Quyển 102: Phẩm Nhiếp Thọ 4

Tập 02
Quyển 102
Phẩm Nhiếp Thọ 4
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp không quên mất, dạy người khác tu pháp không quên mất, khen ngợi pháp không quên mất, vui vẻ khen ngợi người tu pháp không quên mất. Tự tu pháp tánh luôn luôn xả, dạy người khác tu pháp tánh luôn luôn xả, khen ngợi pháp tánh luôn luôn xả, vui vẻ khen ngợi người tu tánh luôn luôn xả.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát ấy tự tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, dạy người tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, khen ngợi tất cả pháp môn Đà-la-ni, vui vẻ khen ngợi người tu tất cả pháp môn Đà-la-ni. Tự tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, dạy người khác tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, khen ngợi tất cả pháp môn Tam-ma-địa, vui vẻ khen ngợi người tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát ấy tự tu pháp trí nhất thiết, dạy người khác tu pháp trí nhất thiết, khen ngợi pháp trí nhất thiết, vui vẻ khen ngợi người tu pháp trí nhất thiết. Tự tu pháp trí đạo tướng, dạy người khác tu pháp trí đạo tướng, khen ngợi pháp trí đạo tướng, vui vẻ khen ngợi người tu pháp trí đạo tướng. Tự tu pháp trí nhất thiết tướng, dạy người khác tu pháp trí nhất thiết tướng, khen ngợi pháp trí nhất thiết tướng, vui vẻ khen ngợi người tu pháp trí nhất thiết tướng.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát ấy tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, khi hành bố thí Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi giữ tịnh giới Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi khởi tinh tấn Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi nhập tịnh lự Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi học Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thường nghĩ thế này:

Nếu ta chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa thì sẽ sanh vào nhà bần cùng, không thế lực, lấy gì thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc trí nhất thiết trí.

Nếu ta chẳng bảo hộ tịnh giới Ba-la-mật-đa thì sẽ sanh các đường ác, còn chẳng thể được thân người hạ tiện, lấy gì thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc trí nhất thiết trí.

Nếu ta chẳng tu an nhẫn Ba-la-mật-đa thì sanh ra các căn sẽ tàn tật khiếm khuyết, dung mạo xấu xí, chẳng đầy đủ sắc thân viên mãn của Bồ-tát; nếu được sắc thân viên mãn của Bồ-tát, hành hạnh Bồ-tát, hữu tình nào thấy thì chắc chắn đạt được quả vị giác ngộ cao tột; nếu chẳng được sắc thân viên mãn này thì chẳng có thể thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc trí nhất thiết trí.

Nếu ta lười biếng, chẳng khởi tinh tấn Ba-la-mật-đa, thì đạo thù thắng của Bồ-tát còn chẳng có khả năng đạt được, lấy gì thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc trí nhất thiết trí.

Nếu ta loạn tâm, chẳng nhập tịnh lự Ba-la-mật-đa, thì định thù thắng của Bồ-tát còn chẳng thể khởi được, lấy gì thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc trí nhất thiết trí.

Nếu ta không có trí tuệ, chẳng học Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì trí tuệ phương tiện thiện xảo còn chẳng thể đạt được, lấy gì vượt bậc Nhị thừa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc trí nhất thiết trí.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát ấy học sáu phép Ba-la-mật-đa, thường nghĩ thế này: Ta chẳng nên chạy theo thế lực xan tham, vì nếu chạy theo thế lực ấy, thì bố thí Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà việc bố thí Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí nhất thiết trí.

Ta chẳng nên buông theo thế lực phá giới, vì nếu buông theo thế lực ấy thì tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà nếu tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí nhất thiết trí.

Ta chẳng nên buông theo thế lực phẫn nhuế, vì nếu buông theo thế lực ấy thì an nhẫn Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà nếu an nhẫn Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí nhất thiết trí.

Ta chẳng nên buông theo thế lực lười biếng, vì nếu buông theo thế lực ấy thì tinh tấn Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà nếu tinh tấn Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí nhất thiết trí.

Ta chẳng nên buông theo thế lực của tâm loạn, vì nếu buông theo thế lực ấy thì tịnh lự Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà nếu tịnh lự Ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí nhất thiết trí.

Ta chẳng nên buông theo thế lực vô trí, vì nếu buông theo thế lực ấy thì Bát-nhã-ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn, mà nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa của ta chẳng được viên mãn thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu trí nhất thiết trí.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát ấy chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi, thì sẽ đạt được công đức thắng lợi như thế trong hiện tại và về sau.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế thật là hy hữu, điều phục Bồ-tát, làm cho chẳng sanh tâm tự cao mà lại có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Thế nào là Bát-nhã-ba-la-mật-đa điều phục Bồ-tát làm cho chẳng sanh tâm tự cao mà lại có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành bố thí Ba-la-mật-đa ở thế gian, nếu đối với Phật thực hành bố thí, mà nghĩ thế này: Ta có khả năng bố thí cho Phật; nếu đối với Bồ-tát, Độc-giác, Thanh-văn, những kẻ cô độc, bần cùng, già cả, bệnh tật, lỡ đường, xin ăn, hành bố thí, mà nghĩ: Ta có khả năng bố thí cho Bồ-tát, Độc-giác, Thanh-văn, những kẻ cô độc, bần cùng, già cả, bệnh tật, lỡ đường, xin ăn thì đại Bồ-tát ấy, vì không có phương tiện thiện xảo để hành bố thí, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa ở thế gian, liền nghĩ: Ta có khả năng tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, ta có khả năng viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa, vì đại Bồ-tát ấy không có phương tiện thiện xảo tu hành tịnh giới, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa ở thế gian, bèn nghĩ: Ta có khả năng tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, ta có khả năng viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa, vì đại Bồ-tát ấy không có phương tiện thiện xảo tu hành an nhẫn, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa ở thế gian, liền nghĩ: Ta có khả năng tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, ta có khả năng viên mãn tinh tấn Ba-la-mật-đa, vì đại Bồ-tát ấy không có phương tiện thiện xảo tu hành tinh tấn, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa ở thế gian, liền nghĩ: Ta có khả năng tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, ta có khả năng viên mãn tịnh lự Ba-la-mật-đa, vì đại Bồ-tát ấy không có phương tiện thiện xảo tu hành tịnh lự, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa ở thế gian, liền nghĩ: Ta có khả năng tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, ta có khả năng viên mãn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì đại Bồ-tát này không có phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi an trụ cái không nội, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ cái không nội thì đại Bồ-tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ cái không nội, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi an trụ cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi an trụ chơn như, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ chơn như thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ chơn như, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi an trụ Thánh đế khổ, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ Thánh đế khổ thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ Thánh đế khổ, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành bốn tịnh lự, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành bốn tịnh lự thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành bốn tịnh lự, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành tám giải thoát, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành tám giải thoát thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành tám giải thoát, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành bốn niệm trụ, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành bốn niệm trụ, đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành bốn niệm trụ, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đảng giác, tám chi thánh đạo, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành pháp môn giải thoát không, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành pháp môn giải thoát không thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành pháp môn giải thoát không, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành năm loại mắt, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành năm loại mắt thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành năm loại mắt, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành sáu phép thần thông, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành sáu phép thần thông thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành sáu phép thần thông, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành mười lực của Phật, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành mười lực của Phật thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành mười lực của Phật, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu pháp không quên mất, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành pháp không quên mất thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành pháp không quên mất, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành tánh luôn luôn xả, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành tánh luôn luôn xả thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành tánh luôn luôn xả, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy khi tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành trí nhất thiết, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành trí nhất thiết thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành trí nhất thiết, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nếu nghĩ: Ta có khả năng tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì đại Bồ-tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

BạchThế Tôn! Đại Bồ-tát khi thành thục hữu tình, nếu nghĩ: Ta có khả năng thành thục hữu tình thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự thành thục hữu tình, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát khi nghiêm tịnh cõi Phật, nếu nghĩ: Ta có khả năng nghiêm tịnh cõi Phật thì đại Bồ-tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự nghiêm tịnh cõi Phật, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát như vậy, là theo tâm thế gian mà tu các thiện pháp, vì không có phương tiện thiện xảo tu hành bố thí v.v... vì sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn tâm, vì tuy tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà chưa đạt được, nên chẳng có khả năng như thật điều phục tâm tự cao, cũng chẳng có khả năng như thật hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa nên chẳng thấy có người bố thí, chẳng thấy có kẻ nhận, chẳng thấy có vật bố thí là vì đại Bồ-tát ấy y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà hành bố thí Ba-la-mật-đa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tịnh giới, chẳng thấy có người đầy đủ tịnh giới là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có an nhẫn, chẳng thấy có người đầy đủ an nhẫn; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu đại Bồ-tát khi tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tinh tấn, chẳng thấy có người có đầy đủ tinh tấn; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tịnh lự, chẳng thấy có người đầy đủ tịnh lự; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa xuất thế gian, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có bát nhã, chẳng thấy có người đầy đủ bát nhã, cũng chẳng thấy có tất cả pháp; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi an trụ không nội, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có cái không nội, chẳng thấy có người an trụ không nội; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà an trụ không nội, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi an trụ không ngoại, không nội ngoại, không không không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bản tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh; vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, chẳng thấy có người an trụ không ngoại cho đến không không tánh tự tánh; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà an trụ không ngoại cho đến không không tánh tự tánh, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi an trụ chơn như, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có chơn như, chẳng thấy có người an trụ chơn như; là vì đại Bồ-tát ấy y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà an trụ chơn như, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, chẳng thấy có người an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi an trụ Thánh đế khổ vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có Thánh đế khổ, chẳng thấy có người an trụ Thánh đế khổ; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà an trụ Thánh đế khổ, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát khi an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thấy có người an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tu hành bốn tịnh lự, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có bốn tịnh lự, chẳng thấy có người tu bốn tịnh lự; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành bốn tịnh lự, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu đại Bồ-tát khi tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng thấy có người tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tu hành tám giải thoát, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tám giải thoát, chẳng thấy có người tu tám giải thoát; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành tám giải thoát, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu đại Bồ-tát khi tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng thấy có người tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa, mà tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tu hành bốn niệm trụ, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có bốn niệm trụ, chẳng thấy có người tu bốn niệm trụ; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành bốn niệm trụ, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu đại Bồ-tát khi tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng thấy có người tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tu hành pháp môn giải thoát không, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có pháp môn giải thoát không, chẳng thấy có người tu pháp môn giải thoát không; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành pháp môn giải thoát không, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu đại Bồ-tát khi tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng thấy có người tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành năm loại mắt, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có năm loại mắt, chẳng thấy có người tu năm loại mắt; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành năm loại mắt, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu Bồ-tát khi tu hành sáu phép thần thông, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có sáu phép thần thông, chẳng thấy có người tu sáu phép thần thông; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành sáu phép thần thông, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành mười lực của Phật, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có mười lực của Phật, chẳng thấy có người tu mười lực của Phật; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành mười lực của Phật, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu đại Bồ-tát khi tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng thấy có người tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tu hành pháp không quên mất, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có pháp không quên mất, chẳng thấy có người tu pháp không quên mất; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành pháp không quên mất, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu đại Bồ-tát khi tu hành tánh luôn luôn xả, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tánh luôn luôn xả, chẳng thấy có người tu tánh luôn luôn xả; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành tánh luôn luôn xả, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thấy có người tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu đại Bồ-tát khi tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thấy có người tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tu hành trí nhất thiết, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có trí nhất thiết, chẳng thấy có người tu trí nhất thiết; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành trí nhất thiết, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu đại Bồ-tát khi tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng thấy có người tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi thành thục hữu tình, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có sự thành thục hữu tình, chẳng thấy có người thành thục hữu tình; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà thành thục hữu tình, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Nếu đại Bồ-tát khi nghiêm tịnh cõi Phật, vì khéo tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên chẳng thấy có sự nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng thấy có người nghiêm tịnh cõi Phật; là vì đại Bồ-tát ấy đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà nghiêm tịnh cõi Phật, nên có khả năng điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát như thế, vì đã y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa xuất thế gian mà tu thiện pháp nên có khả năng như thật điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng như thật hồi hướng trí nhất thiết trí, vì vậy nên ta nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế thật là hy hữu, điều phục Bồ-tát làm cho chẳng khởi tâm tự cao, có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn luôn luôn đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như vậy, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy thân thường an ổn, tâm thường vui vẻ, chẳng bị tất cả tai họa xâm phạm, não hại.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, thọ trì, đọc tụng, thân cận cúng dường, như lý tư duy, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy nếu khi theo quân lính ra trận, mà chí tâm tụng niệm Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, thì chẳng bị đao trượng làm tổn hại, kẻ oán địch đều khởi từ tâm, dù sắp bị trúng thương tự nhiên tránh được, chẳng bao giờ có chuyện mất mạng ở chiến trường. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, luôn luôn tu tập sáu phép Ba-la-mật-đa, tự từ bỏ đao trượng tham dục, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng tham dục, tự từ bỏ đao trượng sân nhuế, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng sân nhuế, tự từ bỏ đao trượng ngu si, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng ngu si, tự từ bỏ đao trượng ác kiến, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng ác kiến, tự từ bỏ đao trượng triền cấu, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng triền cấu, tự từ bỏ đao trượng tùy miên, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng tùy miên, tự từ bỏ đao trượng ác nghiệp, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng ác nghiệp.

Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này nên thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy dù nhập quân trận, chẳng bị đao trượng làm tổn thương, kẻ đối địch đều khởi từ tâm, dù sắp bị trúng thương tự nhiên tránh được, chẳng bao giờ có chuyện bỏ mạng ở chiến trường.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thường đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà chí tâm lắng nghe, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, tinh cần tu học, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy không bị tất cả thuốc độc, trùng độc, quỷ mị, trù yểm, chú thuật có thể làm tổn hại, không thể chìm trong nước, chẳng bị lửa làm cháy; đao trượng, ác thú, oán tặc, ác thần, các tà vọng lượng, chẳng thể làm hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là chú đại thần; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là chú đại minh, Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là chú vô thượng, Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là chú vô thượng thượng, Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là chú vô đẳng đẳng, Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là vua của tất cả thần chú tối thượng, tối diệu, không gì có thể sánh bằng, đầy đủ oai lực lớn, có khả năng hàng phục tất cả, chẳng bị tất cả hàng phục. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tinh cần tu học chú vương này, chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy học Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, hiểu rõ tự và tha, cả hai đều chẳng thể nắm bắt được.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có ngã, chẳng thấy có hữu tình, chẳng thấy có dòng sanh mạng, chẳng thấy có sự sanh, chẳng thấy có sự dưỡng, chẳng thấy có sự trưởng thành, chẳng thấy có chủ thể luân hồi, chẳng thấy có người do người sanh, chẳng thấy có ngã tối thắng, chẳng thấy có khả năng làm việc, chẳng thấy có sự tự thọ quả báo, chẳng thấy có cái biết, chẳng thấy có cái thấy. Do đối với ngã v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có sắc, chẳng thấy có thọ, tưởng, hành, thức; vì đối với sắc uẩn v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học chú đại vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có nhãn xứ, chẳng thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; vì đối với nhãn xứ v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có sắc xứ, chẳng thấy có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; vì đối với sắc xứ v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có nhãn giới, chẳng thấy có sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; vì đối với nhãn giới v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có nhĩ giới, chẳng thấy có thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; vì đối với nhĩ giới v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có tỷ giới, chẳng thấy có hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; vì đối với tỷ giới v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có thiệt giới, chẳng thấy có vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; vì đối với thiệt giới v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có thân giới, chẳng thấy có xúc giới, thân thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; vì đối với thân giới v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có ý giới, chẳng thấy có pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; vì đối với ý giới v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có địa giới, chẳng thấy có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; vì đối với địa giới v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có Thánh đế khổ, chẳng thấy có Thánh đế tập, diệt, đạo; vì đối với Thánh đế khổ v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có vô minh, chẳng thấy có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; vì đối với vô minh v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có cái không nội, chẳng thấy có cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; vì đối với cái không nội v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, khi học đại chú vương Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chẳng thấy có chơn như, chẳng thấy có pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vì đối với chơn như v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

 

Quyển thứ 102

Hết

 

Ý kiến bạn đọc
20/09/201615:39
Khách
Các quyển 52,69,76,89,90,91,93,94,95,96,97,98,99,100,101,102,103 của tập 2 chưa link file mp3
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2018(Xem: 17266)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
23/08/2018(Xem: 6193)
Tôi thật may mắn được biết đến và là học trò của Hòa thượng Thích Minh Châu. Tôi có may mắn lớn này là nhờ bác Vũ Chầm, Chủ tịch VinaGiày, một tấm gương sáng về tu tập và phụng sự. Thế rồi mỗi lần từ Hà Nội vào Sài Gòn là tôi thường tìm mọi cách đến thăm Thầy. Mỗi lần được bên Thầy là một cơ hội được học hỏi, được dạy dỗ và chỉ bảo, được nhận năng lượng và bình an.
23/08/2018(Xem: 8320)
Thường trực BTS GHPFVN tỉnh Khánh Hòa vừa ký Cáo phó kính tiếc báo tin HT.Thích Đức Lưu, Ủy viên Ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, Trưởng BTS GHPGVN huyện Cam Lâm, Ủy viên Ban Tăng sự Phật giáo tỉnh, trụ trì chùa Pháp Vân tân viên tịch. Theo cáo phó, HT.Thích Đức Lưu do bệnh duyên.đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 18 giờ, ngày 21-8-2018 (11-7-Mậu Tuất) tại chùa Pháp Vân, xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa . Trụ thế 64 năm, hạ lạp 42 năm. Lễ nhập kim quan lúc 15g, ngày 22-8-2018 ( 12-7-Mậu Tuất), kim quan được tôn trí tại chùa Pháp Vân Lễ viếng bắt đầu từ 8 g, ngày 23-8-2018. Lễ tưởng niệm vào lúc 14g, ngày 25-8-2018 (nhằm 15-7-Mậu Tuất), sau đó 15g phụng tống kim quan nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Pháp Vân, Cam Lâm.
23/08/2018(Xem: 11680)
Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời phỏng vấn tiếng anh chia sẻ với Phật tử thế giới
18/08/2018(Xem: 5733)
Lễ Huý Nhật Lần thứ 1 Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu tại Chùa Phật Quang, Victoria, Úc Châu. Thứ Bảy, 18-8-2018 Chương Trình Lễ Huý Nhật: - Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm - Cung An Chức Sự (NS Thích Nữ Chân Kim) - Nghi cúng tiến Giác Linh Đức Trưởng lão Hòa Thượng - Lễ Chào Phật Giáo Kỳ và một phút nhập Từ Bi Quán - Tuyên bố lý do và giới thiệu chư Tôn Đức tham dự ( MC TT Thích Nguyên Tạng) - Cung tuyên Tiểu Sử Cố Trưởng Lão Hòa Thượng ( TT Thích Tâm Phương - Lời Đạo Tình của Trưởng Lão HT Thích Huyền Tôn, Phó Thượng Thủ GHPGVNTTG, Tăng Giáo Trưởng GHPGTNHNUĐLTTL Viện Chủ Chùa Bảo Vương - Lời tưởng niệm về Đức Trưởng Lão HT Thích Tâm Châu ( HT Thích Tịnh Đạo) - Dâng hoa cúng dường Giác Linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng - Ngâm thơ của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Truy niệm Giác Linh. (Phật tử Tuệ Minh) - Cảm Tạ của ban tổ chức. (ĐĐ Thích Chân Phong) - Cúng Dường Trai Tăng và hoàn mãn.
15/08/2018(Xem: 7687)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 6803)
Cách đây hơn một tuần, trong khi tìm kiếm tài liệu để viết lại tiểu sử tóm tắt của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương với các chi tiết chọn lọc, cần thiết, đã được cập nhật,theo ý của chúng tôi. Chúng tôi mới bỗng nhớ ra rằng: Năm 1978, lúc Ni Sư mới 15 tuổi, Ni Sư xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm (Đại Ninh - Việt Nam). Như vậy, tính đến năm 2018 này, là năm kỷ niệm 40 NĂM XUẤT GIA CỦA NI SƯ THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG. Tuy mới biết và được hầu chuyện Ni Sư chỉ năm mười phút ngắn ngủi tại Chùa Hương Sen, rồi sau đó đọc một số tác phẩm, những bài pháp luận, thuyết trình… của Ni Sư. Chỉ ngần ấy thôi, nhưng chúng tôi vẫn luôn lưu giữ cái cảm nhận rất chân thành và nghiêm túc này: Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là người rất mực khiêm cung, suy nghĩ cẩn mật. Rằng Ni Sư là người kiên tâm trì chí tu học và hành Đạo suốt 40 năm ấy; Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là “Người gieo duyên Phật pháp, gieo duyên Đạo”* không ngừng nghỉ và không biết mỏi mệt. Và rất nhiều đức khác mà chúng tôi kính trọng, ngưỡng vọng
11/08/2018(Xem: 7740)
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn: Chúc thọ Đức Đại Thụ Tăng Thống Thích Quảng Độ. Cung Kính Chúc Thọ Đại Thụ Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ Trí Lực câu viên Đạo Lực Tu Di ! Úc Châu Tiểu đệ HT Thích Huyền Tôn (91 tuổi).
03/08/2018(Xem: 24829)
Hòa Thượng Thích Minh Tuyền vừa viên tịch tại Nhật Bản, Hòa Thượng THÍCH MINH TUYỀN thế danh LÊ MINH TUYỀN sanh ngày 08 tháng 09 năm 1938 (Mậu Dần), tại thôn Bình Hội, thị trấn Chợ Lầu, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Xuất gia năm 7 tuổi (Năm Ất Dậu (1945) tại Chùa Bửu Tích thuộc thôn Bình Liêm, xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Năm 1970, HT đến du học tại Nhật Bản và lưu trú đến ngày nay. Vì tuổi cao sức yếu, Nài đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 3giờ 35 phút sáng ngày 22 tháng 08 năm 2017 (nhằm ngày 01 tháng 07 nhuần năm Đinh Dậu), trụ thế 80 năm, 60 hạ lạp. Chương trình Tang Lễ của Hòa Thượng Tân Viên Tịch sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất. Ngưỡng mong Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và Quý Đồng Hương Phật Tử gần xa nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Tân Viên Tịch Thích Minh Tuyền Cao Đăng Phật Quốc.
01/08/2018(Xem: 10265)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ cùng Môn Đồ Pháp Quyến thành kính báo tin: Tỳ Kheo Thích Nguyên Kim, Pháp tự Toàn Hiệp, Pháp hiệu Tâm Không, Nguyên Thành viên GHPGVNTNHK, Giáo Thọ Sư Chùa Cổ Lâm, Seattle, WA, Hoa Kỳ, và Chứng minh Đạo Sư Đạo Tràng Nhân Quả, Garden Grove do tuổi già sức yếu đã thuận thế vô thường viên tịch lúc 10:30 sáng Thứ Hai, ngày 30 tháng 7 năm 2018 tại bệnh viện Tri - City Medical Center Thành Phố Oceanside. Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843; Phone: (714) 251-9067. Lễ Tưởng Niệm sẽ được cử hành vào lúc 6:30 sáng Chủ Nhật, ngày 5 tháng 8 tại Chùa Bát Nhã, 4717 W. First St., Santa Ana, CA 92703, Tel. (714) 571-0473. Kính mong chư Tôn Đức Tăng Ni cùng quý Đồng Hương Phật Tử nhất tâm hộ niệm Giác Linh Tỳ Kheo tân viên tịch Thích Nguyên Kim cao đăng Phật Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]