Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 355: Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 05

15/07/201519:41(Xem: 13752)
Quyển 355: Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 05

Tập 07

Quyển 355

Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 05
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

 

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán pháp không nội hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán chơn như hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán pháp giới, phát tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán Thánh đế khổ hoặc thường hoặc vô thường; hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán bốn tịnh lự hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán pháp môn giải thoát không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán năm loại mắt hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán sáu phép thần thông hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán mười lực Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán pháp không quên mất hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tánh luôn luôn xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán trí nhất thiết hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán quả Dự lưu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán quả vị Độc giác hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng có khả năng dẫn phát tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng an trụ pháp không nội; cũng có khả năng an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng an trụ chơn như; cũng có khả năng an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng an trụ Thánh đế khổ; cũng có khả năng an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát bốn tịnh lự; cũng có khả năng dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát tám giải thoát; cũng có khả năng dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát bốn niệm trụ; cũng có khả năng dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát pháp môn giải thoát không; cũng có khả năng dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát năm loại mắt; cũng có khả năng dẫn phát sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát mười lực Phật; cũng có khả năng dẫn phát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát pháp không quên mất; cũng có khả năng dẫn phát tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có khả năng dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát trí nhất thiết; cũng có khả năng dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với các pháp, có sự quán sát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly, thì chẳng thể tùy ý dẫn phát, an trụ công đức thù thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa; cũng là tu hành tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành pháp không nội; cũng là tu hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành chơn như; cũng là tu hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành Thánh đế khổ, cũng là tu hành Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành bốn tịnh lự; cũng là tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành tám giải thoát; cũng là tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành bốn niệm trụ; cũng là tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành pháp môn giải thoát không; cũng là tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành năm loại mắt; cũng là tu hành sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành mười lực Phật; cũng là tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành pháp không quên mất; cũng là tu hành tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng là tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành trí nhất thiết; cũng là tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tùy theo chỗ đi mà sở hữu tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác đều  đi theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa; tùy theo chỗ đến mà sở hữu tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác đều theo chỗ đến.

Này Thiện Hiện! Như chuyển luân thánh vương có bốn đội quân dõng mãnh tùy theo vị Luân vương ấy đi đâu thì bốn đội quân dõng mãnh ấy đều đi theo; tùy theo vị Luân vương ấy đến chỗ nào thì bốn đội quân dõng mãnh ấy đều theo đến. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, tùy chỗ có đi và tùy chỗ có đến, sở hữu tất cả Ba-la-mật-đa và các pháp phần Bồ-đề khác đều đi theo, cứu cánh là đến trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Như người đánh xe giỏi, đánh xe tứ mã, tránh được đường hiểm, đi trên đường chánh, tùy theo ý mình, có thể đến được chỗ đến. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, khéo điều khiển tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, tránh được đường hiểm sanh tử, Niết-bàn, đi trên đường chánh tự lợi lợi tha, đến chỗ sở cầu là trí nhất thiết trí.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đạo, thế nào là chẳng đạo của Đại Bồ-tát?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đạo của các phàm phu, chẳng phải là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo của các Thanh văn chẳng phải là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo của các Độc giác chẳng phải là đạo của các Đại Bồ-tát. Đạo tự lợi lợi tha là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo trí nhất thiết trí là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo chẳng trụ sanh tử và Niết-bàn là đạo của các Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Đó là đạo và chẳng phải đạo của Đại Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện thế gian là vì đại sự, đó là chỉ rõ cho các Đại Bồ-tát tướng đạo và chẳng phải đạo, làm cho các Đại Bồ-tát biết đó là đạo, đó chẳng phải là đạo, để có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện thế gian là vì đại sự, đó là chỉ rõ cho các Đại Bồ-tát tướng đạo và chẳng phải đạo để cho các Đại Bồ-tát biết đó là đạo, đó chẳng phải là đạo, có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện thế gian là vì đại sự, đó là độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đạt được lợi ích an lạc.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy đem lại vô biên sự lợi lạc cho người, nhưng đối với sự việc này không thủ trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của sắc nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thọ, tưởng, hành, thức nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn xứ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của sắc xứ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của sắc giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn thức giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn xúc nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của địa giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của vô minh nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của bố thí Ba-la-mật-đa nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp không nội nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của chơn như nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của Thánh đế khổ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của Thánh đế tập, diệt, đạo nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn tịnh lự nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của tám giải thoát nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn niệm trụ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp môn giải thoát không nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của mười địa Bồ-tát nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của năm loại mắt nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của sáu phép thần thông nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của mười lực Phật nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp không quên mất nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tánh luôn luôn xả nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của trí nhất thiết nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của tất cả pháp môn Đà-la-ni nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả Dự lưu nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả vị Độc giác nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, dẫn đạo Đại Bồ-tát khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, nhất định chẳng thối chuyển nửa chừng.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy khiến Đại Bồ-tát xa lìa các bậc Thanh văn, Độc giác, thân cận quả vị giác ngộ cao tột, nhưng đối với các pháp không khởi không diệt, vì lấy tánh an trụ của pháp làm định lượng.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không khởi không diệt, thì tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu bố thí Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu tịnh giới Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu an nhẫn Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu tinh tấn Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu tịnh lự Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu bố thí Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu tịnh giới Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu an nhẫn Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu tinh tấn Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu tịnh lự Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đem thiện căn này cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi hồi hướng xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đem thiện căn này hồi hướng mong cầu quả vị giác ngộ cao tột như thế thì tu sáu phép Ba-la-mật-đa mới mau được viên mãn; cũng tu từ, bi, hỷ, xả của Bồ-tát mau được viên mãn. Do đó, chóng chứng đắc trí nhất thiết trí, cho đến an tọa tòa Bồ-đề nhiệm mầu, thường chẳng xa lìa sáu phép Ba-la-mật-đa như thế.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa thì chẳng lìa trí nhất thiết trí. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn được mau chứng sở cầu quả vị giác ngộ cao tột thì phải siêng năng tinh tấn tu học sáu phép Ba-la-mật-đa, phải siêng năng tinh tấn tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường siêng năng tinh tấn tu học, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa như thế, thì tất cả thiện căn mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên cùng thường tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng nên lìa nhau.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về sắc chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thọ, tưởng, hành, thức chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn xứ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về sắc xứ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về sắc giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn thức giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn xúc chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về địa giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về vô minh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về pháp không nội chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về chơn như chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về Thánh đế khổ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về bốn tịnh lự chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về tám giải thoát chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về bốn niệm trụ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về pháp môn giải thoát không chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về năm loại mắt chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về sáu phép thần thông chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về mười lực Phật chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về pháp không quên mất chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tánh luôn luôn xả chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về trí nhất thiết chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về quả Dự lưu chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về quả vị Độc giác chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

 

Quyển thứ 355

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/11/2021(Xem: 11125)
Dịch giả Đại Tạng Kinh Mật Thừa, đã xả bỏ nhục thân tứ đại tại Việt Nam ngày 19 tháng 11 năm 2021. Nam Mô A Di Đà Phật Kính bạch Thầy Cô bạn con vừa báo tin buồn trên, bấy lâu nay cô kính ngưỡng HT và thường cúng dường HT, có lần thỉnh thầy Thiện Minh đến thăm HT, nay nghe tin HT viên tịch cô rất buồn vì chưa kịp gửi tịnh tài về, Con không biết HT nhưng thấy tấm lòng bạn con con thương quá, không biết sao để an ủi cô bây giờ Giờ đây nhìn chân dung HT từ bi quá Thầy được tin vì sao HT viên tịch không thưa Thầy?
15/11/2021(Xem: 3909)
Là người thâm tín Phật, cung kính phụng thờ Tam Bảo, thì luôn có một đức tin kiên cố rằng: Dù ở bất cứ thời gian nào, không gian nào vẫn luôn có chân thân các bậc thượng nhân hóa thân hành hoạt cứu nhân độ thế. Các Ngài luôn có mặt giữa cuộc đời để nâng đỡ chúng sanh vạn loại. Vững chải đức tin như thế nên mỗi khi về chùa Phi Lai (hoặc Phi Lai Hòa Thịnh hoặc Phi Lai Biên Hòa, tôi luôn thấy hình bóng chân nhân trưởng lão Tâm Nguyện – Thiện Tu -Thượng DIỆU Hạ TÂM hiện hữu mồn một ở đó. Tôi thấy rất rõ từng bước chân như hoa sen nở Ngài bước đi, như lắng nghe từng tiếng từng lời ngài đang dạy bảo, khuyên lơn, khuyến khích Phật tử chúng ta nuôi dưỡng tâm bồ đề mỗi ngày mỗi lớn hơn lên, từng ngày từng kiên cố hơn. Từ đó tôi thấy : Ngài như chưa từng đến nên Ngài cũng đã chẳng ra đi. Ngài là hiện thân bậc thạc đức “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng . Bất cứ lúc nào Ngài cũng đang có mặt, hiện trú nơi cả hai ngôi chùa Phi Lai Hòa Thịnh Phú Yên và Phi Lai TP Biên Hòa…
07/11/2021(Xem: 4029)
Con Đường Chuyển Hoá Thức Tâm, Thầy Đi Vào Cõi, Thanh Âm Nhẹ Nhàng. Phương Thất Trịnh Hoá Y Vàng, Dáng Thầy Vĩnh Biệt, Trần Gian Mất Rồi. Gá Thân Tu Sĩ Tuyệt Vời, Hằng Nương Chốn Cũ, Niệm Lời Tây Phương. Bệnh Duyên Sanh Tử Lẽ Thường, Duyên Xưa Xuống Tóc, Tìm Đường Xuất Gia.
02/11/2021(Xem: 9216)
Kính bạch chư Tôn Đức Giáo Phẩm, Kính thưa quý đồng hương và quý Phật tử, Chúng con/chúng tôi xin mạn phép kính gửi Bản Thông Báo và Chúc Mừng đính kèm đến chư Cao Tăng Thạc Đức và tất cả Chư vị (bản PDF đính kèm). Chúng con/chúng tôi cũng xin cáo lỗi là không thể gửi điện thư riêng cho từng vị được. Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát. Văn Phòng Thủ Hiến Tiểu Bang Niedersachsen vừa gửi thư đề ngày 14.09.21 báo tin, Tổng Thống CHLB Đức Frank-Walter Steinmeier đã ký quyết định trao Huân Chương Quốc Gia Hạng Nhất (Verdienstkreuz 1. Klasse des Verdienstordens der Bundesrepublik Deutschland) đến Hòa Thượng Thích Như Điển, Chánh Thư Ký Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, Phương Trượng Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc. Văn Phòng Thủ Hiến Tiểu Bang đã ủy nhiệm cho Thành Phố Hannover (thủ phủ của tiểu bang) tổ chức Lễ Trao tặng Huân Chương (ngày giờ, địa điểm thông báo sau) Huân Chương Quốc Gia Hạng Nhất là Huân chương Cao quý và là huân chương duy nhất trên phạm vi toàn Liên Bang Đức, được T
22/10/2021(Xem: 4516)
Chấp Đối Dâng Đảnh..! Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ. Đệ Tử Chúng Con, Tk: Minh Thế vọng Bái Giác Linh Đức Trưởng Lão Đệ Tam Pháp Chủ: Cung duy Vọng đối dâng đảnh: Chữ Hán: “普 願 群 迷, 開 心 佛 學, 供 維 桅 第 三 法 主, 祖 祖 將 傳, 界 律 行 密 印 指 花 藏 松 林. 慧 覺 恩 師, 圓 明 繼位, 稱 尊桅 壇 主 和 尚, 處處 清 歸, 脈 法 禪 嘉 敕 行 清 貧 農 增.” Âm: “Phổ Nguyện Quần Mê, Khai Tâm Phật Học,Cung Duy Ngôi Đệ Tam Pháp Chủ, Tổ Tổ Tương Truyền, Giới Luật Hạnh Mật Ấn Chỉ Hoa Tạng Tùng Lâm. Tuệ Giác Ân Sư, Viên Minh Kế Vị, Xưng Tôn Ngôi Đàn Chủ Hoà Thượng, Xứ Xứ Thanh Quy, Mạch Pháp Thiền Gia Sắc Hạnh Thanh Bần Nông Tăng….”
26/09/2021(Xem: 4949)
Hôm 14 tháng 6 năm 2021 tôi và nhà tôi về chùa Bảo Quang đảnh lễ lần cuối đễ tiễn biệt Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm- Viện Chủ chùa Bảo Quang Hamburg vừa viên tịch chiều này 12.6. Kim quan của Sư Bà được đặt tại Giác Linh Đường sau bàn thờ Phật. Sau khi lễ Phật xong, chúng tôi đến đảnh lễ Sư Bà. Hai bên Kim quan có 4 Sư Cô thay phiên từng toán đứng hầu và niệm kinh. Lòng tôi chùng xuống, không muốn trở ra vội, còn nấn ná quỳ lại đưa mắt nhìn lên di ảnh của Sư Bà, với nụ cười hiền từ đôn hậu làm tôi nhớ lại đâu đây còn vang vọng những lời pháp nhủ từ hòa của Sư Bà cho hàng Phật tử vừa tròn 37 năm. Tôi khóc trong uất nghẹn âm thầm tưởng nhớ đến Sư Bà, không dám thốt lên thành lời sợ làm mất thanh tịnh của quý Sư Cô đang trì kinh nguyện cầu… Lúc trở ra, gặp Sư Cô trụ trì Tuệ Đàm Nghiêm với gương mặt xanh gầy u sầu nặng nỗi nhớ thương. Sư Cô đang kết tràng hoa dài toàn màu vàng-trắng-tím thật đẹp để đặt trên Kim quan của Sư phụ. Chúng tôi đứng lại để vấn an và chia sẻ
20/09/2021(Xem: 9442)
Hai mươi ba năm qua nhìn lại di ảnh Thầy Nước mắt trào dâng lòng con thổn thức " Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật" Tâm con dâng niệm để lòng con an " Nam Mô từ Phụ Huệ Hưng" Niệm theo hơi thở Thầy về bên con. Thầy ơi, con trẻ mỏi mòn Bao năm xa cách cố hương ngàn trùng! Hàng cây đó năm nào còn mãi
20/09/2021(Xem: 5028)
Ni Trưởng thế danh Hoàng Thị Bút, pháp danh Tâm Quang, tự Đàm Minh, hiệu Minh Đức, sinh ngày 20 tháng 4 năm Nhâm Tý (năm 1912) tại xã Hưng Yên, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Thân sinh là cụ ông Hoàng Nguyên Hoa-pháp danh Tâm Chánh, thân mẫu là cụ bà Lý Thị Hợp. Gia đình có 5 người con gồm 1 trai 4 gái và Ni trưởng là chị cả. Vốn xuất thân trong gia đình khoa bảng, thấm nhuần giáo lý đạo Phật, trong gia tộc có người cô ruột xuất gia tại chùa Điệt, thành phố Vinh là Sư bà Đàm Thanh. Nhờ có nhân duyên quá khứ cùng với thiện duyên hiên tại tạo nên cơ duyên thuận lợi cho Ni trưởng xuất gia, tầm sư học đạo .
19/09/2021(Xem: 7729)
Đầu thập niên sáu mươi tôi rời trường Chu-Văn-An khi Trường vừa mới chuyển xuống đường Minh-Mạng trong Chợ Lớn. Giã từ Thầy học, chia tay bạn bè để đi con đường mới. Dẫu có học chung trên Đại Học cũng không còn thân thiết như xưa. Hồi đó tôi chia các Giáo-Sư trong Trường Chu-Văn-An làm 2 loại: Một loại “khó đăm đăm”, luôn luôn nghiêm khắc, không bao giờ cười dù chỉ mỉm miệng. Điển hình là Giáo-Sư Đào Văn Dương. Loại thứ hai luôn luôn vui cười, hay đùa giỡn với học sinh. Điển hình là Giáo-Sư Nguyễn Ngọc Quỳnh. Tôi rất kính trọng cụ Đào Văn Dương ở tính ngay thẳng, chừng mực. Tôi thân mật với cụ Nguyễn Ngọc Quỳnh dĩ nhiên vì tính vui vẻ, cởi mở, dễ thân mật. Đặc biệt cụ còn là một Cư-Sĩ Phật-Giáo mà tôi thường được nghe cụ thuyết pháp ở chùa Phước-Hòa cuối thập niên năm mươi (Con trai cụ hiện là một vị Hòa-Thượng ở vùng Houston, Texas).
04/09/2021(Xem: 5878)
Hòa thượng Thích Minh Thông, Quyền Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa thay mặt Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, môn đồ pháp quyến, chùa Thiên Xá, TP.Nha Trang cáo bạch kính tiếc báo tin Trưởng lão Hòa thượng Thích Liễu Pháp, Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN viên tịch. Trưởng lão Hòa thượng Thích Liễu Pháp, Thành viên Hội đồng Chứng Minh GHPGVN, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, khai sơn - trú trì chùa Thiên Xá, TP.Nha Trang.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]