Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 11: Phẩm Dạy Bảo Trao Truyền 01

07/07/201509:10(Xem: 14661)
Quyển 11: Phẩm Dạy Bảo Trao Truyền 01

Tập 01

Quyển 11

Phẩm Dạy Bảo Trao Truyền 01
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



Lúc bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: Ngươi hãy dùng biện tài, vì chúng đại Bồ-tát, mà tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa, để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ-tát, khiến họ tu học rốt ráo Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khi ấy, các chúng đại Bồ-tát và đại Thanh-văn, trời, rồng, Dược xoa, người chẳng phải người v.v… đều khởi lên ý nghĩ thế này: Nay Tôn giả Thiện Hiện, tự dùng trí tuệ và biện tài của mình, sẽ vì chúng đại Bồ-tát, mà tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa, để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ-tát, khiến họ tu học rốt ráo Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hay là phải nhờ thần lực, oai đức của Phật?

Cụ thọ Thiện Hiện biết được tâm niệm của các chúng đại Bồ-tát và đại Thanh-văn, Trời, Rồng, Dược xoa, người chẳng phải người v.v... liền nói với cụ thọ Xá Lợi Tử: Đệ tử của chư Phật nói ra giáo pháp, nên biết, đều nhờ thần lực oai đức của Phật. Vì sao? Xá Lợi Tử! Chư Phật vì họ mà tuyên thuyết pháp yếu, họ nhờ Phật dạy, mà siêng năng tu học, có khả năng chứng đắc thực tánh các pháp. Do đó, những pháp đã vì họ mà tuyên thuyết, đều chẳng trái với pháp tánh. Cho nên, lời Phật đã dạy, như đèn truyền trao chiếu sáng. Xá Lợi Tử! Tôi sẽ nhờ thần lực oai đức của Phật gia bị, vì các chúng đại Bồ-tát, mà tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa, để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ-tát, khiến họ tu học rốt ráo Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng phải là do trí tuệ và biện tài của mình. Vì sao vậy? Vì pháp tương ưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng phải là cảnh giới của các Thanh-văn và Độc-giác.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như Phật đã dạy: “Nay Ngươi dùng biện tài, vì chúng đại Bồ-tát, mà tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa, để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ-tát, khiến cho họ tu học rốt ráo Bát-nhã-ba-la-mật-đa”. Bạch Thế Tôn! Trong đó, pháp nào gọi là đại Bồ-tát, lại có pháp nào gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa? Bạch Thế Tôn! Con chẳng thấy có pháp nào có thể gọi là đại Bồ-tát, cũng chẳng thấy có pháp nào có thể gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Cả hai danh xưng ấy, cũng chẳng thấy có, thì tại sao lại bảo con, vì các chúng đại Bồ-tát, mà tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa, để dạy bảo, trao truyền cho các đại Bồ-tát, khiến họ tu học rốt ráo Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chỉ có tên gọi, đó là đại Bồ-tát; Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chỉ có tên gọi, đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, cả hai danh xưng ấy, cũng chỉ có tên gọi. Thiện Hiện! Hai danh xưng ấy là chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, như vậy là giả danh, vì chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

 Thiện Hiện! Nên biết, Thí như ngã chỉ là giả danh. Giả danh ấy chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là ngã. Như vậy, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy, cũng chỉ là giả danh. Danh ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là hữu tình … cho đến cái thấy. Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được. Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc là đại Bồ-tát, hoặc là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc là cả hai danh xưng này, đều là giả pháp. Giả pháp ấy, chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như sắc, chỉ là giả danh. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là sắc. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, cũng chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như nhãn xứ, chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là nhãn xứ. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Như vậy, cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như sắc xứ, chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là sắc xứ. Như vậy, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chỉ là giả pháp. Các pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như nhãn giới, chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là nhãn giới. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như sắc giới, chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là sắc giới. Như vậy, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như nhãn thức giới, chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là nhãn thức giới. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như nhãn xúc, chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là nhãn xúc. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cũng  chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Như vậy, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như trong thân có: Đầu, cổ, vai, bắp tay, tay, cánh tay, bụng, vai sau, ngực, hông, sườn, xương sống, đầu gối, đùi vế, bắp chân, bàn chân v.v… chỉ là giả danh. Danh các thứ ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là các bộ phận trong thân: Đầu, cổ, cho đến bàn chân. Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như cảnh vật bên ngoài có cỏ, cây, gốc, thân, nhánh, lá, hoa, quả v.v… chỉ là giả danh. Danh ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là cảnh vật bên ngoài có cỏ, cây, gốc, thân, nhánh, lá, hoa, quả v.v… Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại, chỉ là giả danh. Danh ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như các việc huyễn hóa, cảnh mộng, tiếng vang, bóng dáng, bóng nắng, bóng sáng, hoặc ảo thành, các việc biến hóa v.v… chỉ là giả danh. Danh ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là các việc huyễn hóa cho đến các việc biến hóa v.v… Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc danh xưng cả hai, đều là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ có ý tưởng tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là đại Bồ-tát, gọi đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, và danh xưng cả hai. Cả ba danh xưng này, chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, nên tu học đúng như thế này: Danh là giả, pháp là giả, và giáo thọ là giả.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán sắc, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán sắc, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán sắc, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán sắc, hoặc không hoặc chẳng không; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán sắc, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán sắc, hoặc có nguyện hoặc không nguyện; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc có nguyện hoặc không nguyện; chẳng nên quán sắc, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán sắc, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán sắc, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán sắc, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán sắc, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán sắc, hoặc thiện, hoặc chẳng thiện; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc thiện, hoặc chẳng thiện; chẳng nên quán sắc, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán sắc, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán sắc, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán sắc, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán sắc, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán sắc, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán sắc, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán nhãn xứ, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc xứ, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán sắc xứ, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn giới, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc hữu tội hoặc vô tội; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc hữu tội hoặc vô tội; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán nhãn giới, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc giới, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán sắc giới, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán sắc giới, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán sắc giới, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán sắc giới, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán sắc giới, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán sắc giới, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán sắc giới, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán sắc giới, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán sắc giới, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán sắc giới, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán sắc giới, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán sắc giới, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán sắc giới, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán sắc giới, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán sắc giới, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán sắc giới, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán sắc giới, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán sắc giới, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán sắc giới, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán nhãn thức giới, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán nhãn xúc, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não. Chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc, làm duyên sanh ra, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được; chẳng nên quán lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nên quán địa giới, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán địa giới, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc vui, hoặc khổ; chẳng nên quán địa giới, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán địa giới, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh; chẳng nên quán địa giới, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc không, hoặc chẳng không; chẳng nên quán địa giới, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc có tướng, hoặc không tướng; chẳng nên quán địa giới, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc có nguyện, hoặc không nguyện; chẳng nên quán địa giới, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh; chẳng nên quán địa giới, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly; chẳng nên quán địa giới, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc hữu vi, hoặc vô vi; chẳng nên quán địa giới, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng nên quán địa giới, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng nên quán địa giới, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; chẳng nên quán địa giới, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc có tội, hoặc không tội; chẳng nên quán địa giới, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc có phiền não, hoặc không phiền não; chẳng nên quán địa giới, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng nên quán địa giới, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng nên quán địa giới, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết-bàn; chẳng nên quán địa giới, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở hai bên; chẳng nên quán địa giới, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được.

 

Quyển thứ 11
Hết

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/11/2021(Xem: 5008)
Hòa thượng Thích Nhật Khai tự Diệu Trí (thế danh Nguyễn Đức Luân), sinh năm 1931 (Tân Mùi), thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41, xuất gia tại tổ đình Quốc Ân, thuộc phái Nguyên Thiều, trú xứ tại chùa Giác Hoa. Do niên cao, lạp trưởng, Hòa thượng đã thâu thần viên tịch vào lúc 17 giờ ngày 21-11-2021 (17-10-Tân Sửu) tại chùa Giác Hoa (số 17/5 Nơ Trang Long, phường 7, quận Bình Thạnh, TP.HCM).; trụ thế 91 năm, 65 Hạ lạp. Lễ nhập kim quan được cử hành vào lúc 21 giờ ngày 21-11-2021. Kim quan Trưởng lão Hòa thượng được tôn trí tại chùa Giác Hoa (số 17/5 Nơ Trang Long, Phường 7, quận Bình Thạnh, TP.HCM).
22/11/2021(Xem: 11582)
Dịch giả Đại Tạng Kinh Mật Thừa, đã xả bỏ nhục thân tứ đại tại Việt Nam ngày 19 tháng 11 năm 2021. Nam Mô A Di Đà Phật Kính bạch Thầy Cô bạn con vừa báo tin buồn trên, bấy lâu nay cô kính ngưỡng HT và thường cúng dường HT, có lần thỉnh thầy Thiện Minh đến thăm HT, nay nghe tin HT viên tịch cô rất buồn vì chưa kịp gửi tịnh tài về, Con không biết HT nhưng thấy tấm lòng bạn con con thương quá, không biết sao để an ủi cô bây giờ Giờ đây nhìn chân dung HT từ bi quá Thầy được tin vì sao HT viên tịch không thưa Thầy?
15/11/2021(Xem: 4054)
Là người thâm tín Phật, cung kính phụng thờ Tam Bảo, thì luôn có một đức tin kiên cố rằng: Dù ở bất cứ thời gian nào, không gian nào vẫn luôn có chân thân các bậc thượng nhân hóa thân hành hoạt cứu nhân độ thế. Các Ngài luôn có mặt giữa cuộc đời để nâng đỡ chúng sanh vạn loại. Vững chải đức tin như thế nên mỗi khi về chùa Phi Lai (hoặc Phi Lai Hòa Thịnh hoặc Phi Lai Biên Hòa, tôi luôn thấy hình bóng chân nhân trưởng lão Tâm Nguyện – Thiện Tu -Thượng DIỆU Hạ TÂM hiện hữu mồn một ở đó. Tôi thấy rất rõ từng bước chân như hoa sen nở Ngài bước đi, như lắng nghe từng tiếng từng lời ngài đang dạy bảo, khuyên lơn, khuyến khích Phật tử chúng ta nuôi dưỡng tâm bồ đề mỗi ngày mỗi lớn hơn lên, từng ngày từng kiên cố hơn. Từ đó tôi thấy : Ngài như chưa từng đến nên Ngài cũng đã chẳng ra đi. Ngài là hiện thân bậc thạc đức “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng . Bất cứ lúc nào Ngài cũng đang có mặt, hiện trú nơi cả hai ngôi chùa Phi Lai Hòa Thịnh Phú Yên và Phi Lai TP Biên Hòa…
07/11/2021(Xem: 4107)
Con Đường Chuyển Hoá Thức Tâm, Thầy Đi Vào Cõi, Thanh Âm Nhẹ Nhàng. Phương Thất Trịnh Hoá Y Vàng, Dáng Thầy Vĩnh Biệt, Trần Gian Mất Rồi. Gá Thân Tu Sĩ Tuyệt Vời, Hằng Nương Chốn Cũ, Niệm Lời Tây Phương. Bệnh Duyên Sanh Tử Lẽ Thường, Duyên Xưa Xuống Tóc, Tìm Đường Xuất Gia.
02/11/2021(Xem: 9393)
Kính bạch chư Tôn Đức Giáo Phẩm, Kính thưa quý đồng hương và quý Phật tử, Chúng con/chúng tôi xin mạn phép kính gửi Bản Thông Báo và Chúc Mừng đính kèm đến chư Cao Tăng Thạc Đức và tất cả Chư vị (bản PDF đính kèm). Chúng con/chúng tôi cũng xin cáo lỗi là không thể gửi điện thư riêng cho từng vị được. Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát. Văn Phòng Thủ Hiến Tiểu Bang Niedersachsen vừa gửi thư đề ngày 14.09.21 báo tin, Tổng Thống CHLB Đức Frank-Walter Steinmeier đã ký quyết định trao Huân Chương Quốc Gia Hạng Nhất (Verdienstkreuz 1. Klasse des Verdienstordens der Bundesrepublik Deutschland) đến Hòa Thượng Thích Như Điển, Chánh Thư Ký Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, Phương Trượng Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc. Văn Phòng Thủ Hiến Tiểu Bang đã ủy nhiệm cho Thành Phố Hannover (thủ phủ của tiểu bang) tổ chức Lễ Trao tặng Huân Chương (ngày giờ, địa điểm thông báo sau) Huân Chương Quốc Gia Hạng Nhất là Huân chương Cao quý và là huân chương duy nhất trên phạm vi toàn Liên Bang Đức, được T
22/10/2021(Xem: 4596)
Chấp Đối Dâng Đảnh..! Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ. Đệ Tử Chúng Con, Tk: Minh Thế vọng Bái Giác Linh Đức Trưởng Lão Đệ Tam Pháp Chủ: Cung duy Vọng đối dâng đảnh: Chữ Hán: “普 願 群 迷, 開 心 佛 學, 供 維 桅 第 三 法 主, 祖 祖 將 傳, 界 律 行 密 印 指 花 藏 松 林. 慧 覺 恩 師, 圓 明 繼位, 稱 尊桅 壇 主 和 尚, 處處 清 歸, 脈 法 禪 嘉 敕 行 清 貧 農 增.” Âm: “Phổ Nguyện Quần Mê, Khai Tâm Phật Học,Cung Duy Ngôi Đệ Tam Pháp Chủ, Tổ Tổ Tương Truyền, Giới Luật Hạnh Mật Ấn Chỉ Hoa Tạng Tùng Lâm. Tuệ Giác Ân Sư, Viên Minh Kế Vị, Xưng Tôn Ngôi Đàn Chủ Hoà Thượng, Xứ Xứ Thanh Quy, Mạch Pháp Thiền Gia Sắc Hạnh Thanh Bần Nông Tăng….”
26/09/2021(Xem: 5014)
Hôm 14 tháng 6 năm 2021 tôi và nhà tôi về chùa Bảo Quang đảnh lễ lần cuối đễ tiễn biệt Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm- Viện Chủ chùa Bảo Quang Hamburg vừa viên tịch chiều này 12.6. Kim quan của Sư Bà được đặt tại Giác Linh Đường sau bàn thờ Phật. Sau khi lễ Phật xong, chúng tôi đến đảnh lễ Sư Bà. Hai bên Kim quan có 4 Sư Cô thay phiên từng toán đứng hầu và niệm kinh. Lòng tôi chùng xuống, không muốn trở ra vội, còn nấn ná quỳ lại đưa mắt nhìn lên di ảnh của Sư Bà, với nụ cười hiền từ đôn hậu làm tôi nhớ lại đâu đây còn vang vọng những lời pháp nhủ từ hòa của Sư Bà cho hàng Phật tử vừa tròn 37 năm. Tôi khóc trong uất nghẹn âm thầm tưởng nhớ đến Sư Bà, không dám thốt lên thành lời sợ làm mất thanh tịnh của quý Sư Cô đang trì kinh nguyện cầu… Lúc trở ra, gặp Sư Cô trụ trì Tuệ Đàm Nghiêm với gương mặt xanh gầy u sầu nặng nỗi nhớ thương. Sư Cô đang kết tràng hoa dài toàn màu vàng-trắng-tím thật đẹp để đặt trên Kim quan của Sư phụ. Chúng tôi đứng lại để vấn an và chia sẻ
20/09/2021(Xem: 9911)
Hai mươi ba năm qua nhìn lại di ảnh Thầy Nước mắt trào dâng lòng con thổn thức " Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật" Tâm con dâng niệm để lòng con an " Nam Mô từ Phụ Huệ Hưng" Niệm theo hơi thở Thầy về bên con. Thầy ơi, con trẻ mỏi mòn Bao năm xa cách cố hương ngàn trùng! Hàng cây đó năm nào còn mãi
20/09/2021(Xem: 5096)
Ni Trưởng thế danh Hoàng Thị Bút, pháp danh Tâm Quang, tự Đàm Minh, hiệu Minh Đức, sinh ngày 20 tháng 4 năm Nhâm Tý (năm 1912) tại xã Hưng Yên, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Thân sinh là cụ ông Hoàng Nguyên Hoa-pháp danh Tâm Chánh, thân mẫu là cụ bà Lý Thị Hợp. Gia đình có 5 người con gồm 1 trai 4 gái và Ni trưởng là chị cả. Vốn xuất thân trong gia đình khoa bảng, thấm nhuần giáo lý đạo Phật, trong gia tộc có người cô ruột xuất gia tại chùa Điệt, thành phố Vinh là Sư bà Đàm Thanh. Nhờ có nhân duyên quá khứ cùng với thiện duyên hiên tại tạo nên cơ duyên thuận lợi cho Ni trưởng xuất gia, tầm sư học đạo .
19/09/2021(Xem: 7884)
Đầu thập niên sáu mươi tôi rời trường Chu-Văn-An khi Trường vừa mới chuyển xuống đường Minh-Mạng trong Chợ Lớn. Giã từ Thầy học, chia tay bạn bè để đi con đường mới. Dẫu có học chung trên Đại Học cũng không còn thân thiết như xưa. Hồi đó tôi chia các Giáo-Sư trong Trường Chu-Văn-An làm 2 loại: Một loại “khó đăm đăm”, luôn luôn nghiêm khắc, không bao giờ cười dù chỉ mỉm miệng. Điển hình là Giáo-Sư Đào Văn Dương. Loại thứ hai luôn luôn vui cười, hay đùa giỡn với học sinh. Điển hình là Giáo-Sư Nguyễn Ngọc Quỳnh. Tôi rất kính trọng cụ Đào Văn Dương ở tính ngay thẳng, chừng mực. Tôi thân mật với cụ Nguyễn Ngọc Quỳnh dĩ nhiên vì tính vui vẻ, cởi mở, dễ thân mật. Đặc biệt cụ còn là một Cư-Sĩ Phật-Giáo mà tôi thường được nghe cụ thuyết pháp ở chùa Phước-Hòa cuối thập niên năm mươi (Con trai cụ hiện là một vị Hòa-Thượng ở vùng Houston, Texas).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]