- 01_Đại Sư Tuệ/Huệ Viễn ( 334-416) Sơ Tổ Tông Tịnh Độ
- 02_Đại Sư Thiện Đạo, Tổ Thứ 2 Tông Tịnh Độ ( 613-681)
- 03_Đại Sư Thừa Viễn (712-802) Tổ Thứ 3 Tông Tịnh Độ
- 04_Đại Sư Pháp Chiếu (747-821) Tổ Thứ Tư Tông Tịnh Độ (747-821)
- 05_Đại Sư Thiếu Khang, Tổ Thứ Năm Tông Tịnh Độ
- 06_Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975), Tổ Thứ 6 Tịnh Độ Tông
- 08_Đại sư Châu Hoằng-Liên Trì (1532-1612), Tổ Thứ 08 Tịnh Độ Tông
- 09_Đại Sư Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655), Tổ Thứ Chín Của Tịnh Độ Tông
- 10_Đại sư Hành Sách-Triệt Lưu (1628-1682), Tổ Thứ 10 Tịnh Độ Tông
- 11_Tỉnh Am Đại Sư, Tổ Thứ Mười Một Của Tịnh Độ Tông (1686-1734)
- 12_Đại Sư Tế Tỉnh-Triệt Ngộ (1741-1810), Tổ thứ 12 của Tịnh Độ Tông
- 13_Đại Sư Ấn Quang (1861-1940), Tổ Thứ mười ba Của Tịnh Độ Tông
Lược Truyện
Đại Sư Liên Trì Tổ Thứ Tám Tông Tịnh Độ
Đại sư Vân Thê Châu Hoằng (1536-1615), họ Thẩm, tên Châu Hoằng, tự Phật Tuệ, hiệu Liên Trì. Do ở chùa Vân Thê, Hàng Châu nên gọi Đại sư Vân Thê. Đại sư cùng Tử Bách Chơn Khả ( 1543—1603), Hám Sơn Đức Thanh ( 1546-1623), Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655 ) được tôn xưng là bốn Đại Cao Tăng thời nhà Minh (1368–1644).
Niên hiệu Gia Tĩnh thứ 14 (1535), Đại sư chào đời ở Nhân Hoà, Hàng Châu, trong một gia đình vọng tộc. Cha tên Đức Giám, hiệu Minh Trai Tiên Sinh. Mẹ họ Chu. Đại sư từ nhỏ khác thường, khí chất phi phàm, thông minh đỉnh ngộ.
Mười bảy tuổi, được bổ làm Chư Sinh (Các học giả được nhận vào Phủ, Châu và huyện thông qua các kỳ thi cấp tỉnh vào thời nhà Minh (1368–1644), nhà Thanh (1616-1912). Đại sư nỗi tiếng ở quê là do có học thức và có hiếu.
Đại sư xuất thân từ gia đình giàu có, nhưng không tham vọng công danh, thường than: “ Mạng người ngắn ngủi, sống được bao lâu?". Dù cho đọc khắp kinh điển Nho giáo, sư vẫn luôn luôn nghiên cứu Phật lý. Sư tin tưởng Phật giáo, ra sức khuyên ngăn mọi người không nên sát sanh, tâm thường nghĩ đến việc xuất thế. Láng giềng có ông lão hằng ngày niệm Phật vài ngàn câu, quanh năm suốt tháng không hề giải đãi. Hỏi nguyên nhân, ông lão đáp:
“ Trước trì danh hiệu Phật, lâm chung không bịnh, an nhiên trong lúc ra đi, nên biết công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn.” Sư cảm nhận sâu sắc lời ông lão. Từ đó sư để tâm với pháp môn Tịnh Độ. Để trên đầu giường bốn chữ: “ Sanh tử việc lớn.” sách tấn mình tinh tấn dụng công.
Nguyên phối (1) Trương thị sanh được một người con trai, bất hạnh yểu mệnh. Không bao lâu, Trương thị qua đời. Mẹ ép gã cho Thang thị.
Năm 17 tuổi mất cha, 31 tuổi mất mẹ . Trong vòng mấy năm trải qua những biến cố lớn mất cha, mất mẹ, mất nguyên phối, mất con, từ đó cảm nhận sâu sắc lý vô thường của nhà Phật về sanh tử. Vào đêm 30 năm Ất Sửu, Niên hiệu Gia Tĩnh bảo kế thất (2) là Thang Thị pha trà. Khi bưng trà đến bàn thì chén trà bể. Thấy vậy, cảm thán: Thế gian vạn vật đều do nhân duyên sanh, không gì không tán hoại, nên quyết chí xuất gia tu hành. Tết nguyên đán, niên hiệu Gia thứ 45 nói lời từ biệt với Thương Thị: “ Ân ái chẳng thường, sanh tử chẳng đợi, ta đi, nàng tự lo tính” Thang thị rơi lệ nói: “ chàng đi trước, thiếp tự lo tính”.
Năm 1566, sư 32 tuổi, lễ Hoà thượng Tánh Thiên chùa Vô Môn ở Tây Sơn xuất gia. Sau đó, Thang Thị cũng xuất gia lấy tên là Châu Cẩm, sau làm viện chủ Tùng Lâm, tịch ở am Hiếu Nghĩa.
Sau, sư thọ giới Cụ túc với Luật sư Vô Trần Ngọc ở chùa Chiêu Khánh, hiệu là Liên Trì, trác tích du phương không ngại ngàn dặm, tham cầu học với các bậc thiện tri thức. Đi về phương Bắc Ngũ Đài Sơn, cảm Bồ tát Văn Thù phóng quang, đến chùa Long Hoa ở Bắc Kinh tham học với Thiền sư Biến Dung, Lão Thiền sư dạy:” Chớ ham danh lợi, hãy một lòng học đạo, tha thiết trì giới, niệm Phật”. Sư chăm chăm kính phục. Sau, tham học với Thiền sư Đức Bảo ở Tiếu Nham rồi sư từ biệt hướng về Đông Xương. Trên đường đi về, nghe tiếng trống ở Tiêu Lâu thì hoát nhiên tỏ ngộ, liền nói kệ:
“ Hai mươi năm trước việc đáng nghi
Ngoài ba ngàn dặm gặp lạ gì
Đốt hương ném nắm đều là mộng
Ma, Phật không tranh thị cùng phi”.
Niên hiệu Long Khánh thứ 5 (1571) Đại sư Liên Trì vào núi Vân Lâu ở Hàng Châu. Núi này vốn là chỗ chùa miếu của Thiền sư Cao tăng Phục Hỗ ở, cách Hàng Châu không xa, núi khe thanh vắng tuyệt đẹp dễ cho việc an cư tu hành. Nơi nền cũ chùa Vân Thê xưa, sư trác tích dựng thảo am tu niệm Phật Tam Muội, kỳ hạn tuyệt thực bảy ngày, suốt ngày dựa vách ngồi, trước ngực đeo một tấm bảng thiết, trên có ghi: “ Nếu thiết nở hoa, mới nói cho mọi người”. trong núi khi có nạn cọp, dân làng phải chịu nỗi khổ ấy. Đại sư Liên Trì từ bi thí thức ăn và tụng kinh không bao lâu thì dứt sạch nạn cọp, lại gặp năm hạn hán, dân làng khẩn thỉnh cầu mưa để cứu nạn hạn hán, sư gõ mõ mọi người đi vòng quanh ruộng niệm Phật, một lát sau trời tuôn mưa xuống, dân làng hớn hở vui mừng, càng tin sâu vào Phật pháp, họ tự tổ chức lực lượng xây dựng thiền viện cho sư. Từ đó về sau, sư ở nơi đạo tràng hoằng dương giáo pháp, độ khắp quần sanh. Phật tử bốn phương nghe đạo phong của sư, vân tập về rất đông cùng tu Tịnh nghiệp, chùa Vân Thê trở thành một Tùng Lâm lớn.
Đại sư Liên Trì sau trụ trì đạo tràng, chú trọng chơn tu, thật hành, lấy giới luật làm nền tảng, lấy Tịnh độ làm chỗ cậy nương. Thiền Tịnh đều chú trọng, hoằng tông, xiễn giáo suốt năm không hề gián đoạn. Bấy giờ, Nam Bắc giới đàn bỏ phế từ lâu. Vì khiến cho giới pháp bất tuyệt, bèn sai người thọ giới tự sắm đủ y bát đến trước Phật làm lễ thọ giới Cụ túc. Người thọ giới Cụ Túc nửa tháng tụng “ Phạm Võng Giới Kinh” và "Tỳ kheo giới phẩm".
Các tác phẩm do sư viết có liên quan về quy tắc giới luật như: “ Sa Di Yếu Lược”, “ Cụ Giới Tiện Mông”, “ Phạm Võng Kinh Sớ Phát Ẩn” .v.v. để tiện cho giới tử nghiên cứu học giới pháp. Thanh quy đạo tràng rất nghiêm khắc. Nêu:”Tăng ước mười điều, tu thân mười việc”… để dạy chúng. Mỗi thiền đường điều có vị chấp sự đảm nhiệm việc rõ ràng, ban đêm đi tuần cảnh tỉnh, hô thiền, âm thanh vọng đến hang đá. Yết ma Bố tát, cử công nêu lỗi, thi hành thưởng phạt mẩy may không sai.
Đại sư Liên Trì đề xướng không sát sanh mà phóng sanh. Trong chùa xây ao và chỗ phóng sanh, định kỳ thuyết pháp cho các chúng sanh trên đất dưới nước đến nỗi một tiếng mõ rền vang muôn chim lặng tiếng. Đồng thời sư soạn :” Giới Sát Sanh Văn” được ấn hành nhiều lần, truyền rộng rãi khắp. Sư còn hiệu đính và cho ấn hành các tác phẩm Phật giáo như: “ Du Già Diệm Khẩu”, “ Thuỷ Lục Nghi Quy” và “ Triêu Mộ Nhị Thời Khóa Tụng”.v.v. Các tác phẩm này được lưu hành cho đến ngày nay.
Chùa Vân Thê do “ Nghiêm tịnh tỳ ni, tôn sùng giảng tụng, rõ nhân quả, biết tội phước, chỉnh sức thanh quy, chơn tu thật hành”, tăng sĩ xa gần nghe tiếng thảy đều quy phục
Đại sư Liên Trì trú trì đạo tràng Vân Thê hơn 40 năm, ngôn truyền, thân giáo tiếp dẫn vô số Phật tử đồng quy Tịnh Độ. Truyền giới độ đệ tử có đến hàng ngàn người. Trong đó có các vị danh tiếng như: Thích Quảng Ứng, Quảng Tâm, Đại Chơn, Trọng Quảng, Quảng Dũng .v.v. Tín chúng tại gia đến không thể tính kể. Tính ra cũng hàng ngàn người thuộc giới thượng lưu quân tử đến tham học với Đại sư như các danh sĩ: Tống Ứng Xương, Lục Quang Tổ, Trương Nguyên, Bằng Mộng Trinh, Đào Vọng Linh.v.v.đều là những vị xuất sắc.
Đại sư Liên Trì đối người, tiếp vật tâm lượng từ bi, ngoài hiện tướng oai nghi, nhưng luôn ôn hòa, giọng nói như chuông ngân, lòng rộng không bờ bến. Đại sư viết 32 điều tự cảnh tỉnh mình bằng giới luật. Từ khi có đạo tràng trở đi, sư chưa từng dối sử dụng một tiền nào, hễ có tịnh tài dư liền cúng cho các Hoà thượng ở chùa khác, cúng y áo thuốc men, giúp người nghèo bịnh tật, thường hành như vậy không biết mệt mỏi, cùng đại chúng trong đạo tràng chẳng từ lao khổ, đem tâm đại bi bình đẳng để nhiếp hóa tất cả hữu tình.
Sinh hoạt hằng ngày, Đại sư sống đời giản dị thanh tu, mặc vải thô che thân, một miếng rèm vải thô sử dụng mấy mươi năm được mẹ sư may đến khi qua đời. Hằng ngày tự mình chăm sóc bản thân, về già cũng vậy tự giặt y rửa bình bát không làm phiền nhọc thị giả.
Vào tháng 6, niên hiệu Vạn Lịch 43 ( 1615) đời Minh Thần Tông, Đại sư Liên Trì vào thành cáo biệt đệ tử và bạn bè thân hữu: “ Ta sắp đi”. Sau đó trở về chùa pha trà cúng, từ biệt chúng tăng, đến chiều mùng 1 tháng 7, thượng đường bảo chúng: “ Mai ta đi rồi “ chiều ngày thứ hai, Đại sư ở nơi Phương trượng, thị hiện chút bịnh, nhắm mắt ngồi yên. Đệ tử trong thành kéo đến ai thỉnh lưu lại di chúc. Đại sư mở mắt nói:” Đại chúng hãy tha thiết niệm Phật, đừng níu kéo lo sợ, đừng phá quy củ của ta”. Viết “ Ba điều đáng tiếc và mười điều đáng than”, để sách tấn chúng. Đại sư ngồi ngay ngắn, mặt hướng về Tây niệm Phật, an nhiên thị tịch Thọ 81 tuổi, Tăng Lạp: 50 năm. An táng Đại sư tại nơi tháp dưới chân núi phía Đông chùa do sư chỉ định.
Đại sư liên trì một đời chăm chỉ bút nghiên, trước tác phong phú, sau khi viên tịch đệ tử tăng tục của sư đã sưu tầm ghi chép lại thành “ Vân Thê Pháp Vựng” tổng cộng 34 tập.
Đại sư viết “ A Di Đà Kinh Sớ Sao” lý sự viên dung, gom nhiếp ba căn ( Thượng căn, Trung căn và Hạ căn), làm kim chỉ nam và khuôn phép tu hành cho người tu Tịnh độ hiện nay. Ghi chép sự tích người vãng sanh truyền xưa nay thành “ Vãng Sanh Tập” cũng là nhờ sự chỉnh lý của Đại sư mà thành. “ Trúc Song Tuỳ Bút” là tác phẩm của Đại sư lúc tuổi già gồm hơn 40 thiên, trình bày tường tận Thiền, Giáo, Chánh tri kiến về Tịnh. Mỗi thiên đều có thể truyền cảm hứng vô hạn cho mọi người. Đại sư Liên Trì đã thành công lớn trong việc dung hợp Thiền,Tịnh, Giáo, Luật làm một thể, kể từ Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ, chủ xướng Thiền, Tịnh không hai, Niệm Phật gồm thâu chỉ thú của muôn pháp. Đại sư một đời ra sức hoằng dương Pháp môn Tịnh Độ, trong niên hiệu Ung Chánh thời nhà Thanh được vua ban hiệu là Tịnh Diệu Chơn Tu Thiền Sư.
Đại sư Liên Trì nhờ có công rất lớn hoằng dương Tịnh Độ Tông, cống hiến to lớn của Đại sư đã được thế hệ sau tôn vinh Đại sư là tổ sư thứ 8 của tông Tịnh Độ ở Trung Quốc. Sau khi Đại sư Liên Trì viên tịch, Đại sư Hám Sơn đích thân đến chùa Vân Thê soạn bia tháp cho Đại sư Liên Trì, tường thuật lại một đời đạo nghiệp đầy đức hạnh của Đại sư, khen rằng: “Tài của Đại sư đủ để kinh bang tế thế; Sự liễu ngộ của Đại sư đủ để truyền tâm ấn Phật; sự giáo hóa của Đại sư đủ dùng nhân, quán cơ, nhân căn mà giáo hóa ; giới đức của Đại sư đủ để hộ trì chánh pháp; phẩm hạnh và khí tiết của Đại sư đủ để khích lệ làm gương cho người đời; quy ước của Đại sư đủ để cứu vãng cái tệ lậu thời bấy giờ. Đem lòng từ để ban vui, dùng nguyện bi để cứu khổ, vận dụng rộng rải sáu độ, không đâu là không phải diệu hạnh của Bồ tát. Nếu chẳng phải Pháp thân đại sĩ ứng hoá vào nhân gian dùng oai đức bản thân để thắp sáng lớp lớp u tối vô minh trong thời mạc pháp thì ai có thể đến đây? Đại sư Ấn Quang thời cận đại cũng khen:”Mấy trăm năm lại đây, trong ngoài đều kính ngưỡng Đại sư “.
Trích dịch từ Tịnh Tông Bát Tổ Liên Trì Đại Sư Lược Truyện
Sài Thành, 3:30 giờ sáng 12-10-2024
Thích Chúc Hiền (Kính lược dịch)
—————————————-
(1)Nguyên phối (元配): Chánh thê ( 正 妻),Chánh thất (正 室)
(2)Kế thất( 繼室): Hậu thê (後 妻), Kế phối (繼配)
淨宗八祖蓮池大師略傳
雲棲袾宏大師(公元1535—1615年),俗姓沈,名袾宏,
明朝嘉靖十四年(公元1535年),
蓮池大師出身富貴,無意功名,常常嘆息:「人命過隙耳,
元配張氏生一子,不幸夭折;不久,張氏也去世了,母親強迫,
二十七歲時喪父,三十一歲母亦永訣,幾年間,經歷了喪父、亡母、
嘉靖乙丑除夕,師命繼室湯氏沏茶,捧至案時,茶盞破裂。師見狀,
蓮池大師於昭慶無塵玉律師座下受具足戒後,自號蓮池,策杖遊方,
隆慶五年(公元1571年),蓮池大師入杭州雲棲山,
山中時有虎患,村民深受其苦,蓮池大師慈悲為施食誦經,
蓮池大師主持道場後,注重真修實行,以戒律為基石,
蓮池大師提倡戒殺放生,於寺中設放生池和放生所,
雲棲寺由於「嚴淨毗尼,尊崇講誦,明因果,識罪福,整飭清規,
蓮池大師主持雲棲道場四十餘年,言傳身教接引無數佛子同歸淨土。
蓮池大師待人接物心懷慈悲,外顯威儀之相而又不失溫和,
在生活上,蓮池大師惜福簡樸,始終以麻布素衣蔽身,
明神宗萬曆四十三年(公元1615年)六月,
蓮池大師一生勤於筆耕,著述豐富,
蓮池大師所著之《阿彌陀經疏鈔》融會事理,統攝三根,
蓮池大師是從永明延壽以來,融禪淨教律為一體之大成者,
蓮池大師圓寂後,憨山大師親往雲棲寺,為蓮池大師撰寫塔銘,